Ðại
hội Bà la môn
Hôm ấy, Upatissa và
Kolita được mời đi dự Ðại hội Bà la môn ở Vương-Xá thành.
Lần đầu tiên đôi mắt họ được mở rộng trước quang
cảnh đông vui tấp nập, xe cộ và mọi người.
Vương-Xá thành là một
kinh đô hoa lệ, thịnh vượng bậc nhất của nước Ma-Kiệt-Ðà
và của cả xứ Ấn Ðộ. Nơi đây là điểm giao lưu thương
mãi, kinh tế và văn hóa của các nền văn minh cũ Indus với các
tiểu quốc miền Ðông và miền Nam. Nhà cửa, dinh thự cao
sang và cổ kính. Những con đường lớn thẳng tắp, những
hoa viên sầm uất, tươi mát; những tượng đài uy nghi,
những giảng đường công cộng mênh mông, những hí trường
lộ thiên bao la, ngựa xe lui tới như mắc cửi.
Ðây cũng là kinh đô
của tâm linh tôn giáo. Tất cả các giáo phái truyền thống Bà
la môn đã suy tàn ở miền Bắc bây giờ về lập căn cứ địa
truyền giáo ở đây. Họ có sáu tông phái chính, chấp nhận
mặc khải Vệ-Ðà, truyền thống tập cấp và quyền uy của
thánh kinh. Tuy thế, có một vài phái trong đó lại phủ nhận
Thượng Ðế và họ tự tiện giải thích thánh kinh ra sao tùy
ý. Bên cạnh sáu phái truyền thống đó, ở Vương-Xá thành cũng
quy tụ hàng chục giáo phái khác gọi là phản truyền thống,
vì họ không chấp nhận Thượng Ðế của Bà la môn, bác bỏ
mặc khải Vệ-Ðà và quyền uy của thánh kinh!
Có những nhà hiền
triết phản truyền thống "cực kỳ phản động"!
Họ đã so sánh hàng giáo phẩm chính thống Bà la môn - tức là
giai cấp tu sĩ Bà la môn, đứng đầu bốn tập cấp và muốn
lãnh đạo tinh thần xã hội - với một đoàn chó, con nọ
cắn đuôi con kia thành một hàng dài rồi kính cẩn sủa lên:
"Phải, chúng tôi muốn ăn! Phải, chúng tôi muốn
uống!"
Có vị giáo chủ lập nên
một tông phái mà nói rằng: "Không, không có gì cả! Không
có thần linh, không có quỷ sứ, không có ma vương, không có
thiên đường, không có địa ngục, không có luân hồi tử
sanh và cũng không có luôn cả vũ trụ! Các kinh điển Vệ-Ðà
, Áo-Nghĩa-Thư chỉ là tác phẩm của bọn điên khùng, dối
trá và tự cao tự đại! Rằng, các ý tưởng đều tối tăm
và hảo huyền. Rằng, các danh từ, chữ nghĩa đều rỗng không
và láo khóet. Rằng, dân chúng bị các lời đẹp đẽ, phù chú
mê hoặc mà thờ các vị thần; đến lễ lạy, cúng kiến ở
các ngôi đền, tuân lời các tu sĩ ngu dốt, thất học và hèn
hạ đã dám rêu rao tự xưng là "thánh đức". Ôi!
Vị thần Vichnou, các thượng đẳng thần, bọn đầu trâu
mặt ngựa tu sĩ... và các con chó ăn phẩn, con dòi trong hầm
xí cũng y hệt nhau mà thôi!"
Có vị giáo chủ lại
truyền bá thuyết này: "Này, này, hãy lại đây! Ðừng
tin bọn thầy Bà la môn xảo quyệt! Hãy lại đây bần đạo
chỉ cho cách làm cho "cái Ta" được sung sướng! Ở
trên cõi trần này, cứ tự do mà hưởng thụ thân xác, vật
chất. Kẻ nào mà nghe lời bần đạo, chỉ trông cậy vào chính
mình thôi, thọ hưởng hạnh phúc ở cõi đời này thì sẽ
được hưởng hạnh phúc ở cõi bên kia nữa. Hai đằng đều
hạnh phúc, hai đằng đều có lợi!"
Có giáo phái lại hoàn
toàn phủ nhận các giá trị tinh thần, và bảo: "linh
hồn là tên nô lệ tiêu cực của ngẫu nhiên!"
Gosala, một giáo chủ,
lại phán một cách xanh rờn: "Kẻ thiện hay người ác đều
phải bị chịu chung bởi số mạng, bởi định mạng hết. Các
ngươi đừng ngu si, tưởng làm thiện là được phúc, làm ác
là chịu tội. "Thiện giả thiện lai, ác giả ác báo"
là câu nói của bọn điên khùng!"
Có vị giáo chủ thì điềm
nhiên, rung đùi, vuốt râu mà phán: "Các giáo phái chủ,
giáo phái sư, đạo sư, chân sư... đều là bọn ngu si, dốt nát,
lòe bịp mọi người. Con người có là cái gì đâu! Con người
chỉ gồm có đất, nước, lửa, gió! Kẻ ngu ngốc, bọn hèn
hạ cũng như thánh nhân, hiền triết, khi chết rồi thì thây
rã thành cát bụi, tiêu hủy hết trơn hết trọi, còn gì
nữa đâu! mà nói láo! mà đoán mò!"
Bên cạnh các vị
"thánh đức trầm tư Brahman" có vô số nhân vật
miệt thị các tu sĩ, hoài nghi về các thần linh, và thản nhiên
nhận mình là: "Hư Vô Chủ Nghĩa". Sanjaya - một
triết gia phản truyền thống có danh vọng và uy tín lớn - thì
theo thuyết "bất khả tri"; không chấp nhận, cũng không
phủ nhận chết rồi linh hồn còn hay mất. Ông ta cho rằng,
con người không thể biết được gì cả, hãy nên đi tìm
sự an ổn mà thôi!
Ngoài ra, còn cả một
giới ngụy biện lang thang, gọi là lữ hành hay du sĩ hành cước.
Họ gồm đủ mọi hình thức kỳ dị nhất của xứ Ấn Ðộ.
Họ du hành từ làng mạc này sang hương thôn khác, thị thành
nọ đến phố phường kia để tìm tín đồ hoặc đấu
khẩu, luận tranh, phản kháng với những ai chống lại họ!
Có vài nhà dạy thuật
luận lý cho mọi người để chứng minh, giải thích bất cứ
một câu hỏi mắc mỏ nào. Xuôi ngược gì họ cũng đều
ngụy biện được.
Có vài nhà lý giải, phân
chia manh mún một câu, một chữ, một hạt vi trần... không
biết để làm gì nhưng rõ ràng là được khá nhiều người
vỗ tay tán thưởng!
Họ thật xứng đáng
với những danh hiệu: "bọn bắn chẻ sợi tóc làm tư, làm
bảy" hoặc: "loại lươn, loại trạch trơn tuột,
nắm đằng này nó lẫn đằng kia"!
Có nhà lại phùng mang
trợn mắt cố gắng chứng minh rằng: "không có Thượng
Ðế - và đạo đức thật là vô tích sự."!
Ở Vương-Xá thành có
khoảng chừng sáu mươi hai giáo phái và tông phái như vậy. Dân
chúng bu lại nghe họ thuyết giảng, tranh luận. Các giới thương
gia giàu có, các quan đại thần mê chuộng triết học, lại
cho xây cất những căn nhà hội, nhà giảng rất rộng, rải rác
đó đây trong kinh thành làm chỗ hội họp; và để cho các
biện sĩ, du sĩ, triết gia, nhà tư tưởng trổ tài hùng
biện. Các Ðức Vua cũng khoái trò này, đích thân đến nghe,
sau đó, thú vị tặng thưởng cho những triết gia thắng trong
các cuộc đấu khẩu đó. Ðôi khi phần thưởng lên đến
một ngàn con bò cái và hàng ngàn đồng tiền vàng. Các ông
hoàng, bà chúa cũng tham dự vào các trò chơi này rồi trở thành
những người bảo trợ cho một nhóm, một phái nào đấy.
Các triết gia, nhà hùng
biện của một tông phái sẵn sàng bước lên các hội trường,
"căn cứ địa" của đối phương để tranh luận,
vấn nạn nhau.
Có triết gia danh tiếng
như Shandara bỏ già nửa đời người chu du thiên hạ mà
biện thuyết để đã phá những tư tưởng khác chủ kiến
của mình. Môn đệ của họ rất đông. Và dân chúng thì
sẵn sàng dâng cúng đủ mọi thứ vật thực, nhu cầu, phương
tiện - miễn cứ tu sĩ là được. Sa môn, Bà la môn , đạo sĩ,
du sĩ, du thủ du thực gì cũng được ráo! Họ thích thú cổ
võ, ủng hộ vô điều kiện.
"- A! Ðúng là có
một cái thời thật lạ lùng! Ðúng là trăm hoa đua nở bên cái
dòng tư tưởng tự do chảy tràn lan!"
Upatissa và Kolita thật là
ngỡ ngàng và kinh khiếp trong những ngày du ngoạn đây đó
ở thành phố. Cả hai đều hoang mang. Và điều họ thấy rõ
ràng nhất là "giáo lý truyền thống Bà la môn đã bị
lung lay tận gốc rễ". Nhan nhãn khắp Vương-Xá thành đầy
rẫy bọn hoài nghi, bọn theo thuyết hư vô, bọn ngụy biện,
bọn vô thần, bọn duy vật... Nổi bật nhất mà hai chàng
phải lưu ý là hai triết gia danh tiếng, Charvaka và Mahavira. Có
thể gọi họ là hai triết gia cực kỳ phản động mà giáo
chúng lại rất đông. Sự có mặt riêng của Charvaka thôi cũng
đã làm giảm uy thế của Bà la môn và tạo một cơn lốc xoáy
vào trật tự xã hội Ấn Ðộ. Và đến khi Mahavira xiển dương
giáo lý - ông ta ở tập cấp chiến sĩ, thuộc bộ lạc
Licchavi - thì đã thật sự đảo lộn uy quyền đến tận
nền móng: đứng đầu tập cấp Vương-Xá thành bây giờ không
còn là Bà la môn nữa mà là giai cấp chiến sĩ.
Trước tình trạng đó,
Upatissa và Kolita càng xác tín thêm một sự thật đau lòng mà
hai chàng đã có sẵn trong ý nghĩ: "Chân lý, cái sự
thật ngàn đời không còn là độc quyền thao túng trong tay
của giới tu sĩ Bà la môn nữa." Tuy nhiên, hai chàng vẫn
còn tin một điều, dầu là niềm tin lắt lay của một ngọn
đèn sắp vụt tắt, là "ở trên cái bề mặt huyên náo
của đại dương, sự xôn xao của sóng gió, các tư tưởng đối
lập, mâu thuẫn, hỗn loạn... vẫn tiềm tàng hiện hữu một
chiều sâu yên lặng, vô danh và bất động..."
Họ nhìn nhau thở dài.
Phải thật sự lặn xuống đáy đại dương, lặn sâu vào vùng
thâm mặc của kinh điển Vệ-Ðà. Hai chàng phải ra đi, phải
tìm kiếm, phải tra vấn, phải học hỏi và phải thực hành
cho đến nơi, đến chốn. Niềm tin ngàn đời không thể một
sớm một chiều để cho nó tắt phụt!
Ðại hội Bà la môn
diễn ra trong một cung đền nguy nga đồ sộ. Bà la môn giáo
biết địa vị của mình đã bị lung lay trong xã hội, nên
cốt ý tổ chức một buổi lễ to lớn để biểu dương sức
mạnh của tập cấp cùng lực lượng giáo đồ và quần chúng.
Bởi vậy, hầu như các đại biểu, tín đồ Bà la môn khắp
các tiểu quốc, thành phố, thị trấn v.v... đều tới tham
dự. Các Bà la môn trưởng giáo ở các thôn làng xa xôi đều
có đại biểu và đồ chúng trẩy hội.
Những căn nhà vải to
lớn đủ mọi sắc màu rực rỡ được dựng lên, có đủ
chỗ ngồi cho hàng vạn người. Hàng trăm căn nhà nghỉ, nhà
trọ, quán xá chiếm cả mấy khu rừng. Hàng trăm chiếc xe hai
ngựa, bốn ngựa, xe lừa, xe trâu... rộn ràng đến từ khắp
nơi trong xứ. Hàng trăm đoàn Bà la môn cùng với đồ chúng
đến như nước chảy. Các thương gia, đại thương gia, đại
gia chủ, cự phú, đại cự phú... tung tiền bạc cho cuộc
lễ chi phí có đến hàng triệu đồng tiền vàng. Những núi
lương thực, thực phẩm, hàng chục ngàn gia súc, từng đàn,
từng đàn tung bụi kéo đi... để mà làm lễ hy sinh trong
cuộc đại tế. Hàng ngàn gia nô, nô lệ phục dịch đó đây...
Vua Bình Sa Vương trích
của công, ủng hộ cho cuộc lễ để lấy lòng các giáo chủ
và đồ chúng. Ban đêm sáng rực như ban ngày. Trầm hương,
nhang đèn nghi ngút. Tiếng "aum, aum" vang tận mây xanh,
lan xa đến mấy do-tuần. Người ta ăn uống, tung hoa, rải nước,
cầu nguyện, cúng tế, đọc kinh và đọc những câu thần chú
thiêng liêng mà tai và trí phàm chỉ có nghe mà không thể
hiểu được. Ðêm xuống, người ta tổ chức múa hát, diễn
trò trước sân khấu lộ thiên mênh mông. Tuồng hát, vũ đạo,
hí khúc đều được rút ra từ kinh điển Vệ-Ðà hoặc các
Anh Hùng trường ca mà hai chàng đều đã được tham dự
nhiều lần. âm nhạc cũng vậy, nhưng ở đây được tổ
chức vĩ đại và huy hoàng hơn.
Hai chàng đã thật sự
choáng ngợp khi khúc hòa tấu ca tụng thần linh trổi lên. Các
nghệ nhân ăn mặc kỳ dị, diêm dúa, tóc tai rối bù, mặt mày
kỳ cục, trang điểm lòe loẹt, hóa trang thành âm binh quỷ
sứ hoặc các ca nhân của cõi trời... Họ sử dụng các
loại trống đủ hình, đủ cở; những ống sáo, ống tiêu
trang trí hoa văn tỉ mỉ; những chiếc kèn hình rắn, hình trăn
uốn khúc. Nhạc khí chạm trổ tinh vi, nhận ngọc thạch, kim
cương, khảm xà cừ, khảm ngà, khảm bạc lấp la lấp lánh
muôn màu muôn sắc. Họ vỗ bằng hai tay, bằng ngón tay, bằng
đầu ngón tay vào chiếc trống Mridanga, đàn Tanbura. Hàng
chục cây đàn Vina mà dây đàn căng trên một tấm kim loại
mỏng và quý, một đầu cột vào một chiếc trống bằng
gỗ, mặt bằng da cừu, đầu kia cột vào một quả bầu dùng
làm thùng đàn...
Từ nơi đống người
kỳ dị và nhạc cụ kỳ dị ấy, một thứ âm thanh pha trộn
và phức tạp nổi lên. AÂm thanh này kế tục âm thanh kia, kéo
dài liên miên bất tận. Không có "hài âm", mà cũng
chẳng có luật "hòa âm". Nhạc công tha hồ tự do
biến điệu, và tùy theo mỗi tình cảm, cảm hứng, ý nghĩa mà
các "raga" thay đổi, vi âm thay đổi.
Các bậc nhạc sư nói
rằng, các "raga" đều có tính cách thiêng liêng,
huyền bí. tương truyền do thần Shiva quy định, nhạc công mà
khinh xuất, không tôn trọng các hình thức "raga" thì
sẽ bị thần Vichnou đày xuống địa ngục.
Khi vùng âm thanh lan
tỏa, ban đầu có vẻ rời rạc, đơn điệu nhưng sau đó,
chuyển thành một dòng thác, một sức mạnh như thôi miên người
nghe. Như một cơn lốc, nó cuốn hút vào trung tâm của nó
mọi âm ba huyên náo ở chung quanh. Nó đi từ cái hữu hạn,
đơn độc sau dần tới phức tạp, vô cùng. Rõ ràng, nhạc lý
này mang sẵn tư tưởng Vệ-Ðà , là trở về cái vô cùng
của Ðại Ngã. Do vậy, những âm điệu, nhạc tiết... uyển
chuyển, tung lượn, lan tới, nhào lui nhưng tất cả đều
xoắn lại, cuộn tròn lấy "nhạc chỉ"; đưa tâm
thức người nghe vào một vùng âm thanh duy nhất như sự tập
trung thiền định của một hành giả Yogi, mất tất cả các
giao tiếp của ngũ quan, một trạng thái như vong ngã rồi
lần hồi chìm ngập vào bản thể mênh mông, chan hòa, yên tĩnh!
Những bản "đảo vũ",
"thái dương thần vũ" do các nàng Devadasi được vời
đến từ các đền tế, ăn vận như tiên nữ diễm lệ, trang
điểm hoa hòe, lần lượt cống hiến những vũ điệu mềm
mại, nhịp nhàng.
Một số các nàng ca nữ
miền Rohini cống hiến giọng ca thiên phú du dương, bay bỗng,
mê man, xuất hồn... Rồøi đến các tuồng hát, những hí khúc
nổi danh mấy trăm năm trước đều được mang ra trình diễn
giữa ánh sáng lộ thiên huy hoàng. Hương muôn hoa, hương của
muôn thứ hương liệu thơm ngát, ngầy ngật giữa không gian
người và bụi.
Trải qua hai ngày, vì
lạ lùng kích thích, đôi bạn cũng tìm được niềm vui khuây
khỏa. Upatissa và Kolita thuộc vào hàng khách danh dự nên được
ngồi ở những hàng ghế đầu chung với một số Bà la môn
trưởng thượng, các gia chủ hữu danh, các quan đại thần và
các thương gia giàu có, những danh sĩ lỗi lạc... Cả hai chàng
đều vui vẻ như những khách danh dự khác, trao cho nghệ nhân
những phần thưởng xứng đáng. Hai chàng đều là con nhà
cự phú, tiền bạc không biết dùng để làm gì, nên họ
sẵn sàng hào phóng treo những giải thưởng lớn nhất. Sự hào
sảng, rộng rãi ấy được mọi người tán tụng, ca ngợi như
là nghĩa cử hào hiệp, anh hùng! Ðược quý trọng, được
ngợi ca rầm rộ, hai chàng lại sinh ra hổ thẹn, mất cả
hứng thú.
Ðến đêm thứ ba, cả
hai đột nhiên sinh ra chán nản: "Làm như vậy để làm gì?
Ích gì cuộc vui phù phiếm này? Sao ta lại ở đây, giữa đám
người ngợm, trống rỗng, vô tích sự này?" Upatissa đứng
dậy rời khỏi đám đông. Kolita cũng thế. Không hẹn, cả
hai đều nhìn nhau, đôi mắt thẳm sâu, khó tả.
Vất vả lắm cả hai
mới lọt ra khỏi rừng người. Họ lặng lẽ bên nhau, bước
đi, đi mãi. Ðèn đuốc, hương hoa, tiếng người... dần dần
khuất vắng sau lưng họ. Ðến ngoại ô kinh thành, vòm trời
như mở rộng ra, gió đồng nội thổi rì rào. Trên trời,
mảnh trăng tròn vành vạnh, trong sáng, êm đềm và yên tĩnh.
Họ nghe được lời thì thầm của đất, của giun dế, của
cỏ lá, của những cái mầm vừa cựa mình nứt ra. Tiếng ai
hát giữa đồi hoang, theo gió cuốn đi xa, mang mang và buồn...
Bóng những lữ hành vội vã, âm thầm dưới trăng khuya lạnh
lùng. Một vài tiếng cú rúc lẻ loi...
- "Hiền đệ Kolita
thân mến! Chúng ta vừa thoát khỏi đám người huyên náo,
hời hợt, những niềm vui tầm thường, dung tục. Thật không
ích lợi gì khi để những ngày tháng trôi qua trong những
tiếng cười đùa vô bổ; nhìn nghe những hình thức lễ nghi
trịnh trọng, sáo rỗng; những lời tâng bốc, tán thán, ca
tụng nhau; những đầu súc vật đầy máu me, ruồi nhặng
lẫn những tiếng rên la thống khổ của chúng. Chẳng lẽ nào
chúng ta cam tâm chịu mãi đời sống này, truyền thống tín
ngưỡng đã khô kiệt tinh thần, đã mất hết sự trong sáng,
đã thật sự vắng bóng minh triết? Chúng ta phải biết can đảm
nhìn thẳng vào sự thật ấy. Ðừng vì tình cảm gia đình,
huyết thống, thói quen truyền đời... để tìm cách biện
hộ hoặc lần lữa mãi trong thế giới tư tưởng bất khả lý
giải. Tín ngưỡng truyền thống của chúng ta không còn gì đáng
để hãnh diện và tự hào. Tất cả chỉ còn là những xác
chết trên bệ thờ, những ngôn từ sáo rỗng, hợm hĩnh, láo
khoét. Sự hữu hạn, đau khổ, buộc ràng vây bọc chúng ta.
Cả bên trong và bên ngoài. Tất cả chúng đều là huyễn hóa,
là Màyà!
Ôi! Niềm vui tuổi trẻ
chóng qua. Tuổi già, tóc bạc, sự chết sẽ đến. Tử thần
sẽ không chừa một ai. Sự hủy diệt kinh khiếp đó sẽ không
tha thứ cho dẫu một sinh linh bé mọn, một cọng cỏ, một
hạt bụi vô tri. Ðại dương vô cùng hoặc Hy mã lạp sơn hùng
vĩ thì cũng vậy. Nhật nguyệt, thiên hà, đại địa... cũng
cùng chung một số phận. Cơn lũ vô thường sẽ cuốn trôi
hết thảy.
Sao ta lại ở yên giữa
cuộc đời này, sống say chết mộng, an phận, thủ thường nơi
địa vị, danh vọng, bạc tiền, đồ chúng của mình mà chiêm
ngưỡng, vô tri hay đồng lõa với Vô minh, Tử ma? Sao ta lại
vùi mình giữa xác chết quên lãng, trong bóng tối hèn nhác,
không có can đảm, vươn vai đứng đậy như một con mãnh sư?
Sao không nhìn thẳng vào sự thật kinh khiếp kia?
Hãy nói đi! Hãy nói đi!
Hiền đệ!"
Kolita dường như không
ngạc nhiên gì lắm trước những ưu tư, những vấn nạn,
những phẩn nộ của Upatissa; chàng gật đầu, nói nhỏ như hơi
thở, chỉ vừa đủ nghe:
- Hiền huynh Upatissa quý
mến! Ðó là những vấn đề mà đệ đã suy nghĩ khi ngồi
trong đền và khi cùng bước lang thang trên đường vừa đi
qua. Ðồng ý sẽ đứng lên, sẽ vươn vai đứng lên như con mãnh
sư. Nhưng rồi chúng ta sẽ đi đâu, sẽ về đâu? Về cuối
con đường? Có điểm cuối con đường để đến? Mục đích
của nhân sinh là gì? Tất cả dường như ở trong vận hành vô
nghĩa lý. Ðâu cũng là vực thẳm không đáy, lửa, vô thường
và hủy diệt.
Các vị A-La-Hán, các
bậc thông tuệ, các bậc đại tuệ, các Ðấng Ðại Giác
Ngộ - họ đã giải thoát ra khỏi cuộc đời này, nằm ở
ngoài mọi định luật và mọi tất yếu của tâm, của nhiên
giới - giờ họ ở đâu? Những kẻ mà Tử Thần và Màyà không
tìm thấy dấu vết, giờ họ ở nơi nào? Những kẻ đã như
những con mãnh sư, vươn vai đứng dậy, thách thức tuyên
chiến với hư vô và tử ma - họ sẽ dạy cho chúng ta điều
gì? Những ngàn xưa trước, những thánh triết, minh thư,
những trí óc khôn ngoan mẫn tiệp, thông tuệ của loài người
- đã tự trang bị cho mình một đôi mắt để nhìn xuyên
suốt qua những tấn tuồng ảo vọng - giờ họ ở đâu? Dấu
chân họ còn lưu trên cát, còn lưu giữa hư không mơ hồ,
lung linh sương khói?
Và có thật sự đúng như
vậy chăng - có Con Ðường Thật Sự dẫn đến nơi Chân Phúc
và Bất Tử?
Kolita nói xong nhìn
Upatissa, thở ra.
Upatissa cũng thở ra, cúi đầu xuống.
Họ đã gặp nhau từ sâu
thẳm của tư tương, suy tưởng, ưu tư; nơi cái bế tắc trùng
trùng đang muốn tìm về thông lộ.
Ðôi bạn chợt nhìn vào
mắt nhau. Bốn ngôi sao lóe sáng trong đêm.
Thoát
ly gia đình
Bà la môn Vaganta nhìn con
trai trưởng lớn lên, học hành uyên bác, tư cách đạo đức
hơn đời, thâu nhận đồ chúng, giáo hóa môn sinh... thảy
thảy đều xuất chúng. Ông hài lòng thầm nghĩ:
"- Con đường danh
vọng và sự nghiệp của con ta, không mấy lúc đã nghiễm nhiên
vượt xa ta. Không chỉ vượt xa ta, mà còn to lớn, vĩ đại
như con sông Ðại Hằng vào mùa nước nổi, như ngọn Hy mã
lạp sơn cao tít chín tầng mây. Bây giờ là phải thời để
tính chuyện hôn nhân cho nó."
Ông lại nghĩ tiếp:
"- Luật Manou đã định
phép tảo hôn. Con trai đến tuổi trưởng thành mà chưa có
vợ thì mọi người sẽ chê trách, khinh bỉ, sẽ không có
một địa vị nào xứng đáng trong xã hội để dành cho họ.
Người đàn ông thật sự hoàn bị, trưởng thành thì phải
đầy đủ ba yếu tố: bản thân, vợ và con. Thiếu vợ hoặc
chưa con thì chưa thể gọi là trưởng thành!
Luật Manou cho phép hai
gia đình được đính hôn khi con cái vừa sinh ra, đôi khi còn
nằm trong bụng mẹ. Con gái từ ấu thơ đến khi đầy đủ
chức năng làm mẹ, bất cứ khi nào cũng có thể đính ước.
Tuy thế, con gái mười bốn tuổi rước về nhà chồng là
phải lẽ. Con trai ta năm nay đã mười tám, phải lập gia đình
cho nó, kẻo đến khi quá muộn."
Bèn gọi Upatissa đến,
dạy rằng:
- Này con,! Cha mẹ sẽ tính
chuyện gia thất cho con trong năm nay. Một người Bà la môn chân
chính không thể sống độc thân, ngoại trừ các tu sĩ Bà la
môn sống đời xuất gia. Con đường danh vọng và sự nghiệp
của con còn dài. Con cần phải có một địa vị xứng đáng
nhất định trong xã hội. Ðấy là lợi ích thiết thực,
mục đích thiết thực của các đấng nam nhi sống ở trên đời.
Nó còn là niềm vui cao thượng cho cha mẹ lẫn giòng họ. Con
nghĩ thế nào?
Thật ra ông Vaganta không
cần hỏi con. Luật Manou quy định rằng, việc hôn nhân của
con cái, cha mẹ được trọn quyền quyết định. Nhưng vì tôn
trọng con, ông muốn con ông cùng dự bàn. Upatissa cũng đã suy
tư nhiều về điểm này. Chàng là một thanh niên mới lớn,
thỉnh thoảng cũng bị rung động bởi một vài bóng hồng. Chàng
cũng bị những xao xuyến mơ hồ, những vọng tưởng chi
phối. Nhưng chàng đã thắng lướt dễ dàng do có một kỹ
luật tinh thần nghiêm túc. Ngoài ra, lý trí chàng vững mạnh,
tư duy chàng có chiều sâu. Chàng không thể để cho những
cảm xúc kia - những cảm xúc phù du - ảnh hưởng đến con
đường và chí hướng cao thượng của mình.
Chàng đã từng nghe minh
triết dạy rằng: "Lạc thú tinh thần thù thắng và vi
diệu hơn lạc thú vật chất rất nhiều. Nó êm đềm, an tĩnh
và trường cửu. Nó ngưng lắng và tự tại như sự bình yên
của đỉnh núi. Nó thanh thản, nhẹ tênh như một đám mây
trắng thong dong ngang trời. Nó tươi mát, dịu dàng như nụ
hoa phong lan trong sương sớm. Nó trang trải, xanh êm, mịn màng
của mặt hồ xanh trong không gợn sóng. Nó mênh mông, bao la và
khoảng khoát như hư không. Nó như sự hỷ hoan, reo vui của khóm
trúc. Nó là tiếng chim hót dịu dàng, thanh tao, cao nhã trong vườn
cây của cõi trời. Nó là tiếng suối chảy róc rách hòa
với cây đàn gió đi qua núi đồi, vi vu giữa không gian lồng
lộng...
Cái lạc thú tinh thần
ấy, nó lắng sâu, dịu nhẹ, mang mang, no đầy, choáng khắp,
tẩm mát, sung mãn... mà không hao tổn tâm cơ và khí huyết.
Ôi! Lạc thú tinh thần vi diệu xiết bao!"
Còn lạc thú vật chất
thì minh triết dạy ra sao? Ồ! Minh triết dạy như thế này:
"- Lạc thú vật
chất ư? Là hình ảnh của những con bọ dòi no nê ăn thực
phẩm trong đống phân. Là sự huyên náo, ồn ào của buổi
chợ chiều buôn bán súc vật. Là cái đậm đạp, lì bì, ì
ạch, biếng nhác của loài heo. Là xú khí đen đúa, tanh hôi
của vũng nước cống tù đọng. Là nét mặt nhăn nhó, bần
tiện của gã con buôn bụng to, cho vay nặng lãi. Là nét mặt
phè phỡn, ngu si, hợm hĩnh của tên trọc phú học thói cao
sang và lễ nghĩa. Là sự nhạt nhẽo, vô mùi vị của món cơm
nếp nát. Là đóa hoa lòe loẹt sắc màu mà chẳng có thanh hương.
Là sự khoe khoang, điệu bộ vô duyên của mụ đàn bà đeo vàng
trong hàm răng lổm chổm. Là viên thuốc đắng độc hại được
bọc bằng mật ngọt thốt nốt. Nói tóm lại, lạc thú vật
chất ư? Nó là sinh tử, máu, nước mắt, hận thù, gian ác,
rắn độc, lửa, bọ trùng, quỷ đói, địa ngục đồng sôi...
Nó chính là cái gì ô uế, thống khổ và tục lụy"
Ðã hàng ngàn năm kinh
nghiệm, kiến thức, trí khôn của cổ nhân, cổ thư đã dệt
nên những trang văn chương với hình ảnh sống động như
thế lẽ nào chàng không tin, không học, không bắt chước, không
quay lưng lại với những cám dỗ của Ma Vương? Lại nữa,
dẫu: "Ðàn bà là lạc thú cao nhất cho người đàn ông,
nhưng mà, đàn bà và tình yêu của nàng là cái bẩy sắt
dịu dàng, êm ái nhốt người đàn ông vào tù ngục, thấp hèn
và nô lệ."
Ở nơi nào đó trong
luật Manou đã mạt sát người đàn bà thậm tệ:
"- Ðàn bà là nguồn
gốc của mọi tội lỗi. Vì đàn bà mà có kiếp trần, sinh
tử, trả vay, trầm luân bất định trong muôn ngàn cõi."
Ở một nơi nào đó
nữa:
"- Ðàn bà có thể làm
cho hạng đàn ông khôn ngoan sáng suốt nhất - chớ đừng nói
là hạng ngu ngốc, điên khùng - bỏ chánh đạo mà đi vào tà
đạo, để cho lòng dục và sự giận dữ lôi cuốn vào địa
ngục không cơ cưỡng được."
Và chàng làm sao quên
được một huyền thoại trong nhân gian nói về nguồn gốc
của người đàn bà:
"- Ðức Hóa công
Twashtri, một hôm ngồi buồn, nảy ra ý định muốn tạo ra
một người đàn bà - bỗng sực nhớ ra rằng, đã dùng hết
vật liệu để tạo ra người đàn ông rồi; bây giờ không còn
nữa, đành tạm mượn hình dáng, tính chất, trạng thái của
những vật khi tạo ra vũ tru để tổng hợp mà nặn nên nàng:
Người mượn hình tròn
của mặt trăng, đường cong của các dây leo, tua uốn của cây
nho, sự run rẫy của cỏ, sự mềm mại của lau sậy, sự
mịn màng như nhung của cánh hoa, sự nhẹ nhàng của lá cây,
hình thon thon của vòi voi, sự lấp lánh của sao trời, sự
dịu dàng của mắt nai, sự rực rỡ của bướm, sự vướng
vít của tơ trời, sự ẻo lã của liễu, sự cuồng nộ của
biển động, tia sáng nóng rực của lửa, tiếng hót líu lo
của chim cà cưỡng, sự đều đặn của các phòng ổ ong,
sự vui tươi của ánh nắng, sự nhí nhảnh của chim sáo, vẻ
âu sầu của đám mây, sự bất thường của gió, sự e lệ
của con thỏ, sự khoe khoang của con công, sự cứng rắn của
kim cương, sự ngọt ngào của mật, sự tàn bạo của beo,
sự băng giá của tuyết, tiếng gù gù của bồ câu, nét làm
dáng của mèo, tính giả dối của con sếu, tính trung nghĩa
của chó nhà, tính lất phất của lá trúc, tính lang chạ
của phấn thông vàng, tính hàm hồ của sóng, tính nhẹ dạ
của hạt sương, tính đa sự của ý tưởng... Tất cả
những cái đó, Ngài nhào nặn lại với nhau làm thành người
đàn bà trong thế gian, đem tặng cho người đàn ông, để cho
y thỏa thích, đắm đuối... mà quên đi cuộc lưu đày miên
viễn..."
Do vậy, Upatissa cương
quyết phải bước ra, phải giải thoát. Và trước nhất là
phải bước ra khỏi vòng tay dịu dàng, băng giá và lửa
bỏng của người đàn bà mà tâm hồn cũng như tính tình không
dễ gì người đàn ông tìm ra nghiệm số.
Chàng bèn nói với cha:
- Thưa cha! Các em con đều
đã khôn lớn và hiểu biết. Chúng có thể lo liệu mọi
việc trong gia đình. Chúng có thể chăm sóc, quản lý gia nô,
vườn tược và đồng áng. Chúng có thể phụng dưỡng cha
mẹ lúc già yếu, kế thừa dòng dõi, cúng giỗ tổ tiên,
bảo vệ truyền thống tập cấp cũng như truyền thống đạo
đức, thanh danh gia đình. Riêng con, con chỉ muốn xuất gia,
sống đời du phương đạo sĩ khổ hạnh. Con chỉ muốn tìm
Ðạo. Con chỉ muốn tìm ra lý giải tận cùng của vòng sinh
tử khổ đau. Con kính cẩn xin cha mẹ cho con được tròn ước
nguyện. Con không có một sự lựa chọn nào khác.
Ông Vaganta tưởng tai mình
nghe lầm. Không! Con ông đã trình bày rõ ràng, dứt khoát. Ông
ngước đầu lên. Upatissa vòng tay, cúi đầu, vầng trán cao
rộng mênh mông; đôi chân mày thẳng biểu hiện một ý chí vô
hạn; đôi mắt như hai vì sao tỏa sáng dịu dàng. Ông nghĩ:
"- Con ta chưa bao
giờ nói hai lời. Con ta chưa bao giờ chùn bước trước một
quyết định, một ý nghĩ đã thốt lên tiếng. Nói lời gì,
con ta cũng đã suy nghĩ thấu đáo, chín chắn trước sau. Ồ!
Vậy xuất gia là chí hướng của nó thật sao? Ôi! Ðời
sống của con ta từ nhỏ tới giờ là đời sống của một
vị thánh. Nó chưa bao giờ nói chơi, nói giỡn, nói lời vô
ích phù phiến. Mười tám tuổi, nó nghiễm nhiên đã là một
vị đạo sư đức hạnh và lỗi lạc. Ôi! Thế ra nó cương
quyết bỏ gia đình này, lìa nơi tổ ấm chôn nhau cắt rốn.
Sở học một đời của ba thầy Bà la môn, của ta không
thỏa mãn được nó. Thánh kinh, cổ thư không giải đáp được
bài toán tâm linh cho nó. Nó cũng coi thường luôn cái gia tài
đáng giá tám trăm triệu đồng tiền vàng này."
Dẫu nghĩ như thế nhưng
ông Vaganta vẫn muốn dùng cái quyền hạn của người cha, bèn
nói mạnh mẽ:
- Không thể được, con
không thể xuất gia sống đời khổ hạnh. Cha mẹ không đồng
ý. Con là viên ngọc vô giá của gia đình, của dòng họ; là
niềm hãnh diện của thôn làng; là nơi nương tựa vững
chắc cho cả hàng trăm môn đệ. Con phải ở kề cận bên cha
mẹ suốt đời để chăm sóc, bảo quản cả hai di sản quý báu:
di sản tinh thần và di sản vật chất.
- Thưa cha! Giọng Upatissa
không lớn hơn mà cũng không nhỏ hơn - Chí con đã quyết! Hãy
cho con xuất gia!
Bà la môn Vaganta lảo đảo
đứng dậy. Ông mệt quá. Ông khổ quá. Ông già quá rồi. Ông
chỉ muốn cho con ông sung sướng trên nhung lụa, trong lầu
son, gác tía. Ông làm sao chịu đựng được khi nghĩ rằng,
con ông, con của dòng họ Vaganta nổi danh, con của một trưởng
giáo cự phú lại sống lang thang rày đây mai đó, xin nước
cháo chua, cơm thừa, canh cặn từ cửa mọi nhà? Lại đầu
trần, chân đất, rách rưới, đói khổ nơi rừng sâu, nơi
nghĩa địa? Ông Vaganta chưa bao giờ có mối thương tâm, tủi
buồn lớn lao như thế. Ông khóc, ông vật vả, ông kêu gọi
thần linh che chở cho ông làm thay đổi ý nghĩ điên khùng
của Upatissa.
Nghe tiếng ông khóc, bà
Sàrì chạy lại. Khi hiểu cớ sự bà không tin. Bà dịu dàng
đến bên Upatissa, ân cần hỏi:
- Này, con yêu quí! Có
phải vì mẹ nghe lầm chăng? Ai lại dại gì từ bỏ gia sản
ức triệu để đi xin ăn đầu đường xó chợ phải không
con?
Upatissa giọng kính cẩn, ôn tồn đáp:
- Thưa mẹ, chí con đã
quyết! Mẹ nghe như vậy là đúng, không lầm đâu. Con xin được
sống đời xuất gia, lang thang khổ hạnh. Di sản tinh thần và
di sản vật chất này tuy là quý báu nhưng nó chỉ đưa đến
danh vọng, địa vị, quyền uy lẫn những hạnh phúc trong
thế gian. Cái hạnh phúc ấy bọt bèo, không chắc thật. Con
từ bỏ tất cả mà ra đi, không phải là để thỏa mãn
những mơ ước hữu hạn, không phải là để thỏa mãn ý
dục cao đại và kênh kiệu trong lớp hào quang ngụy trang
của bản ngã. Con muốn chiến đấu cho dù có gục ngã trước
Sự thật và Hư vô. Con muốn tìm ra cái Ðạo lý với đáp
số tận cùng về Khổ đau và buộc ràng Sinh Tử. Con muốn giác
ngộ và giải thoát hoàn toàn, tuyệt đối. Ấy là sự hướng
thượng thiêng liêng, tất định của đời con.
Bà Sàrì với đôi mắt
đỏ lệ van lơn:
- Ðừng có dại khờ, nông
nổi, mê muội! Gia sản này, nó cho ta vợ đẹp, con ngoan. Nó
cho ta xe cộ, võng lọng, giường cao, nệm ấm. Nó cho ta món
ăn, thức uống sơn hào hải vị. Nó cho ta gác bạc, lầu vàng,
đờn ca, xướng hát, yến ẩm, tiệc tùng. Nó cho ta kẻ hầu
người hạ, tiền hô hậu ủng. Cái đó mới là hạnh phúc
thực tế giữa đời này. Nếu nói đến tinh thần hướng thượng
thì con cũng đã sẵn đủ trong trí óc tất cả trí khôn của
tiền nhân để lại. Biết bao bậc thánh nhân, hiền trí từ
ngàn xưa đến giờ, ở trong truyền thống này, chẳng lẽ
họ lại thua con về sở tri, sở kiến? Coi chừng! Cái mà con
tìm kiếm chỉ là mộng tưởng, là hư tưởng vẩn vơ; là lông
rùa, sừng thỏ trên đời này! Chẳng ai dại gì đánh đổi
một viên ngọc quý để lấy một ý tưởng siêu phàm, huống
hồ là đánh đổi để lấy cái trống không, không thực có!
Con ơi! Hãy nghe lời mẹ, đừng có tin lời dụ dỗ của ma
quỷ! Ta có thể sống đời đạo đức, hiền thiện khi làm
một Bà la môn gia chủ, có vợ, có con, có gia sản, có tất
cả lạc thú mà Ðức Brahman cho phép. Hãy nghe lời mẹ đi
con!
- Chí con đã quyết, thưa
mẹ!
Nghe giọng nói ngắn
gọn, nghiêm nghị và cứng rắn của con, bà Sàrì biết là khó
lay chuyển lắm rồi, tuy thế, bà vẫn vặn hỏi:
- Vậy thì con tìm kiếm
cái gì?
- Thưa mẹ, con đã nói
rồi! Ấy là tìm con đường giác ngộ, giải thoát. Ấy là
con đường bước ra khỏi mục đích mục đích hư huyễn
của thế gian, con đường đi ra khỏi mọi thẩm quyền, uy
lực của Ma vương; đồng thời, bước ra khỏi thẩm quyền và
uy lực có được từ ngàn xưa trong truyền thống tín ngưỡng
của chúng ta!
Bà Sàrì vẫn rất kiên
nhẫn, chịu khó:
- Con đường ấy là gì
hỡi con yêu quý!
- Thưa mẹ! Con chưa
thấy, chưa biết. Vả chăng, ấy là con đường mà con đang tìm
liếm. Con xuất gia ra đi là chỉ muốn để trọn tâm lực, ý
lực, chí nguyện suốt đời cho sự tìm kiếm ấy!
Bà Sàrì ngạc nhiên quá.
Ngạc nhiên xen lẫn bàng hoàng. Giải thoát tất cả? Thật là
không tưởng, thật là hư vô! Là cái gì mà bà không hiểu! Bà
chỉ hiểu đời sống thực tế, với gia sản, với chồng
con, với những hạnh phúc có được trong tầm tay mà mọi người
trong thế gian hằng mơ ước. Hạnh phúc của bà bây giờ là
vài ba đứa cháu xinh xắn, mũm mĩm, bụ bẩm, hồng hào để
bế bồng, để hôn hít, để nghe giọng nói bi bô, ngây thơ,
dễ thương của chúng. Dường như bà chỉ có hai bổn phận
thiêng liêng trước mặt: cúng tế, cầu nguyện và thờ
chồng, nuôi con!
Cũng như ông Vaganta, bà
Sàrì không hiểu được con. Nhưng làm sao ngăn cản nó được
nữa? Nếu ước nguyện kia là duy nhất chơn chánh đối với
nó thì sức mạnh cuồn cuộn của con sông Ðại Hằng cũng khó
có thể chuyển lay.
Cũng như ông Vaganta, đến
lượt bà Sàrì, lại chứng tỏ uy quyền làm mẹ:
- Mẹ không cho phép con
xuất gia - Bà nói cứng - Mẹ đã quyết một lòng như thế.
Upatissa kính cẩn cúi đầu,
chàng rất buồn nhưng vẫn đứng vòng tay yên lặng.
Ðêm đã xuống. Buổi
chiều chàng không ăn cơm, không uống nước. Chàng đứng
bất động bên cửa sổ, trầm mặc. Thỉnh thoảng chàng đưa
mắt nhìn ra xa mà dường như không thấy gì. Cả trọn người
chàng như chỉ tập trung duy nhất vào một ý chí sắt đá, kiên
định: thoát ly gia đình!
Ðêm đã hết canh hai. Bà
la môn Vaganta trằn trọc không ngủ được, ông bước ra
khỏi phòng, nhè nhẹ đi dọc theo hành lang, nhìn qua cửa sổ.
Con của ông vẫn cứ đứng yên trong tư thế cũ. Chàng như đã
hóa đá. Ông tiến lại gần. Hai chân của Upatissa run run.
Ông Vaganta cất giọng
khẽ:
- Con ơi! Con sẽ đứng như vậy cho đến bao
giờ?
- Thưa cha! Cho đến bao
giờ cha mẹ cho phép con xuất gia!
- Nếu cha mẹ không cho?
- Thì con còn đứng mãi.
- Con sẽ gục ngã.
- Vâng, thưa cha, con sẽ
gục ngã.
- Con sẽ chết.
- Vâng, thưa cha, con sẽ chết - nhưng ý chí
xuất gia của con vẫn không thay đổi.
Ông Vaganta lắc đầu ứa lệ, thiểu não bỏ đi.
Ông đến kể tất cả điều ấy cho bà Sàrì nghe. Khóc ròng
rã, bà chạy lại bên con:
- Con ơi! Hãy nghe lời
cha mẹ! Không nghe lời cha mẹ là bất hiếu, con có biết không?
Làm cho cha mẹ đau khổ, héo mòn là con đã làm việc đại ác
trên trần đời, con có biết không? Luật Manou con đã học
rồi, tuy mẹ không biết, nhưng chắc chắn các Ðấng Tiên Tri
có dạy về điều đó chứ? Dạy về bổn phận của con cái,
nhất là con trưởng, đối với cha mẹ chứ?
Upatissa nghe lời mẹ nói,
rung động và xao xuyến cả tâm hồn. Chàng im sững giây lâu.
- Thưa mẹ! Chàng cất
giọng khẽ nhưng rành rọt - nếu bất hiếu thì con đã không
xin phép cha mẹ, đã bỏ đi theo với chí nguyện của con! Từ
nhỏ chí lớn, con chưa một lần nào lầm lỗi trong bổn
phận của đạo làm con. Cha mẹ chứng thực cho con điều
ấy. Con cũng đã thờ kính cha mẹ như Ðấng Phạn Thiên trong
nhà. Cha mẹ chứng thực cho con điều ấy. Bây giờ, con xin
được xuất gia, là con cần cầu sự xuất ly vô thượng. Con
sẽ tìm ra Hạnh Phúc Bất Tử vì lợi ích cho con và cho cả
phần đông. Con muốn hy sinh niềm vui bé nhỏ để đổi niềm
vui lớn. Ơn hiếu dưỡng đối với cha mẹ đã có các em con
thay nhau lo liệu. Riêng con, con muốn báo đền công ơn sinh thành
dưỡng dục của cha mẹ bằng cái gì Chân Thật hơn, Vĩnh
Cửu hơn.
Bà Sàrì thở dài, lệ
tuôn như mưa, tất tưởi lui vào phòng. Bà la môn Vaganta cảm
thấy mình hoàn toàn thua cuộc trước ý chí của con, nhưng ông
vẫn còn hy vọng mong manh là Upatissa sẽ không chịu đựng
nổi đói và khát. Ông đã lầm. Một buổi sáng và một
buổi chiều nữa qua đi. Ðêm xuống, ông lặng lẽ qua lại
mấy lần. Upatissa vẫn đứng như vậy, thần sắc có thay đổi,
dáng đứng đã nhiều lần chao động, nhưng tựu trung, chàng
vẫn khoanh tay, mắt nhìn ra xa....
Trong bóng tối: những
gốc cây, những cột nhà, những bức phù điêu, những tượng
đá... như cùng đứng âm thầm, lặng lẽ, đồng lõa với chàng
để lên án ông. Ông lắc đầu như cố xua tan một ám ảnh.
Mệt quá, ông lui vào phòng, thiếp đi.
Sáng ngày, người ta báo
với ông rằng, Upatissa đã mấy lần khụy xuống, nhưng chàng
vịn vào gờ tường, lại đứng lên. Chỉ mới hai hôm không
ăn, không uống mà chàng đã yếu đi rõ rệt. Ông Vaganta run
rẫy chống gậy bước ra. Nhìn con, không chịu nổi nữa, ông
khẽ thốt:
- Upatissa! Thôi! Ðược
rồi!
Ông chỉ nói có vậy
rồi tất tả lui vào phòng.
Upatissa biết thế là ông
đã chấp thuận. Một niềm vui bừng sáng lóe lên trong mắt.
Chàng ăn uống trở lại và sức khỏe hồi phục rất nhanh. Còn
mẹ chàng, bà Sàrì thì tránh gặp mặt chàng từ độ ấy.
Sự đau khổ trong lòng người đàn bà không có thuốc thang nào
mà chữa được. Ðối với bà, Upatissa thoát ly gia đình,
thế là nó đã chết. Bà phẩn hận những kẻ đã rủ rê con
bà, đã kéo Upatissa ra khỏi vòng tay của người mẹ.
Sau này, mỗi lần nghe
tin Upatissa đi theo đoàn Sa môn nào là bà vói theo chửi mắng
đoàn Sa môn ấy không tiếc lời:
- Bọn ngoại đạo! bọn
cù bơ cù bấc! bọn không cửa không nhà! bọn trọc đầu đê
tiện! bọn số đen xúi quẩy!
Nỗi đau thương của người
mẹ mất con, quả thật không có hình ảnh thiêng liêng nào trên
thế gian mà xóa mờ đi được.
Upatissa giờ như cách
chim xổ lồng, bay vào vòm trời mơ ước, nơi không gian tâm
linh mênh mông, vô tận...
Lang
thang tìm Ðạo
Upatissa và Kolita, cả hai
cùng cảnh ngộ như nhau. Cũng khó khăn lắm, Kolita mới được
phép rời khỏi gia đình.
Bà Sàrì vì buồn con, nên
sau này không có cảm tình với Giáo pháp của Ðức Bổn Sư.
Còn bà Moggallì thì cũng vậy, mang mối hận thù sâu đậm
với Tăng chúng Ðức Cồ-Ðàm cho đến mãn đời.
Vì lợi ích tối thượng,
hai chàng gạt nước mắt ra đi, nhưng ai cũng mang tâm nguyện
trong lòng là sẽ trả ơn cha mẹ bằng cách báo đền cao cả,
khác với thế tình.
Một sớm mai kia, họ
cởi bỏ nhung lụa, đồ trang sức vàng ngọc, quàng lên mình
mảnh y của đời du sĩ. Họ nhìn lại trang viện to lớn nguy
nga còn ẩn mình trong sương sớm. Nơi cái tổ ấm ấy, đã
ấp ủ cả một thời thơ trẻ. Ra đi là vĩnh biệt. Nhưng cánh
chim trời có bao giờ nhớ lại cái tổ chào đời nơi một
cội cây xưa? Cả hai đều bùi ngùi, nhưng ý chí xuất gia là
tối thượng, họ quay gót lên đường.
Cả hai được tháp tùng
bởi gần hai trăm rưỡi môn đệ. Họ nhắm hướng Vương-Xá
thành. Upatissa nói với Kolita:
- Hiền đệ thân mến!
Chúng ta ở trong truyền thống, các giáo phái ở trong truyền
thống thật chẳng có gì đáng để chúng ta học hỏi nữa.
Theo đệ, những giáo phái ngoài truyền thống, đáng để cho
ta học hỏi, có những ai?
Kolita trầm ngâm một lúc
lâu:
- Ở đây, ở vương
quốc của tín ngưỡng này, các giáo phái chủ, các giáo phái
sư, triết gia, tư tưởng gia, bọn ngụy biện, du sĩ, bọn hư
vô chủ nghĩa, duy vật... thật đông đúc và ồn ào hỗn
loạn, tanh tưởi như buổi chợ cá. Ai cũng lập tông, lập giáo,
dạy đạo... trưng những bảng hiệu quảng cáo rẻ tiền.
Bọn thì được các phú thương ủng hộ. Bọn thì được các
tiểu vương hậu thuẫn. Bọn thì mưu đồ chính trị, lợi
quyền... muốn hất cẳng sự thống trị của giai cấp Bà la
môn... để giai cấp Sát-đế-lị lên làm chủ nhân ông xã
hội. Giáo thuyết của Mahàvira thì nghe có vẻ uyên bác,
Charvaka thì trông có vẻ thực tế - nó chỉ ngón trỏ vào
mặt mũi Thượng Ðế và bảo rằng đấy là con ngáo ộp! Chúng
ta đã gặp Mahàvira và cả Charvaka, giáo thuyết của hai ông này
tương đối là có kiến thức nhất trong bọn - nhưng đối
với chúng ta quả chưa đáng một đồng trinh! Vậy chỉ còn là
Sanjaya, một đạo sư uy tín lớn không nằm trong sự bủa vây
của chính trị và bọn thời cơ chủ nghĩa; theo đệ, chúng
ta hãy đến đấy xem thử thế nào?
Upatissa đồng tình với
bạn:
- Ðầu óc chúng ta đã
quá cũ. Tri kiến của chúng ta đã quá cũ. Từ lâu, chúng ta
học hỏi theo với cái biết của cổ nhân, của kinh điển ngàn
xưa để lại. Chúng ta có luận bàn, suy lý - cũng là luận bàn,
suy lý bởi những giá trị có sẵn, đã mốc meo và ám khói
trên những bệ thờ! Chúng ta ê a tụng kinh, đọc chú theo
những dòng, những chữ chỉ còn là cái xác vô tri, lổm
ngổm nhảy múa hàng ngang, hàng dọc trong một ẩn ngữ nào đó
chỉ có ma quỷ mới hiểu được. Ðâu cũng là thánh triết,
thánh thư, đâu cũng là chân kinh, thánh kệ; đâu cũng mật thư,
bí truyền; đâu cũng rêu rao chân phúc và bất tử; đâu cũng
tìm kiếm thiên đường, phạm thể. Ðâu cũng hẹn lại một
kiếp sau ở những thế giới xa vời mù mênh sương khói... nào
đó!
Hiền đệ! Chúng ta sẽ
không mắc bẫy chúng nữa: những bọn đạo sư vinh thân phì
da, võng lọng ngựa xe, chỉ đường cho chúng sanh sang thế
giới bên kia nhưng chúng lại sống nung núc lợi dưỡng ở chính
cõi đời ô trọc này! Thế nhưng, chúng lại ngụy biện,
rằng ta là hiện thân của thần này, thần nọ; rằng ta
phải ở trong vòng lửa cháy này để cứu độ chúng sanh!
Vậy, chúng ta hãy đi tìm những ai có tri kiến tương tự như
chúng ta, đã no phè, đã chán mứa mọi loại tư tưởng và
triết lý - nghe ra có vẻ cao siêu nhưng thật vô ích, vô bổ
cho sự giác ngộ và giải thoát.
Kolita gật đầu:
- Ðúng vậy! Ðầu tiên,
chúng ta hãy đến viếng thử Sanjaya, kẻ mà chúng ta hâm mộ
mà chưa có cơ hội gặp mặt tham vấn.
Sanjaya tiếp họ với
cung cách một đạo sư lỗi lạc, vả chăng, Sanjaya cũng đã
từng nghe danh tiếng hai huynh đệ trẻ tuổi thần đồng này.
Sanjaya lịch sự, cởi
mở:
- Quý hóa thay! Hiền
hữu! Nhưng bần đạo ngại rằng sự hiểu biết hủ lậu, quê
mùa của bần đạo sẽ làm cho chư hiền hữu thất vọng mà
thôi. Chẳng hay chư hiền muốn tìm kiếm cái gì? Thượng Ðế
chăng? Brahman chăng?
- Có lẽ không phải
vậy, thưa giáo chủ! Chúng tôi đã tìm kiếm Thượng Ðế,
Brahman suốt cả tuổi thanh xuân rồi. Mà cho dẫu chúng tôi có
tìm thấy Ngài, có được Ngài thì Ngài cũng chẳng có liên
quan gì đến niềm vui, nổi khổ và ý chí tự do nơi một chúng
sanh nhỏ nhoi, bé mọn này!
Ðạo sĩ Sanjaya giả vờ
ngạc nhiên:
- Vậy ra chư hiền dám
cả gan bước ra ngoài truyền thống? Bước ra ngoài giá trị
xưa nay? Dám nghi ngờ sự bất lực của Thượng Ðế để đi
tìm kiếm một cái khác hơn?
- Ðúng vậy - Upatissa đáp
- Chúng tôi chỉ muốn giải quyết thân phận tại thế thật
sự của con người: đấy là Khổ đau và Sự chết. Nói khác
hơn: chúng tôi muốn tìm kiếm Chân Phúc và Bất Tử!
- Ðồng ý! Ðạo sĩ
Sanjaya thú vị nói - sự tìm kiếm của chư hiền là đáng trân
trọng! Nhưng có bao giờ chư hiền suy nghĩ như vậy chưa? Nghĩa
là chư hiền lấy cái gì để đi tìm kiếm? Thân và tâm này
vốn là cái khổ đau và sinh diệt, chẳng lẽ nào chư hiền
lại từ cái khổ đau và sinh diệt ấy mà đi tìm cái Chân Phúc
và Bất Tử?
Upatissa và Kolita lặng
lẽ đưa mắt nhìn nhau. Quả thật, họ chưa từng đặt ra
một câu hỏi như vậy.
Ðạo sĩ Sanjaya nghĩ là
phải lúc, nên thuyết một thời pháp:
- Chủ tri của bần đạo
như sau: này chư hiền! Quả thật, Thượng Ðế, Brahman, các
tối cao thượng đẳng thần đều đã chết, đã thối và
bốc lên mùi xú khí mấy ngàn năm! Kinh điển truyền thống
đã mất hết hiệu lực, uy lực; không đáp vấn được
những khổ đau mà chúng sanh phải gánh chịu trên trần thế,
không giải thích được những nghi vấn thực tế của bước
chân đi hằn đau hữu hạn! Thế giới được sáng hóa hay không
được sáng hóa cũng chẳng có ích gì ráo! Thế giới có
phục sinh hay không được phục sinh thì bò cũng ăn cỏ và chó
vẫn thích ăn phẩn! Các tư tưởng đương thời nom có vẻ tươi
mát như cọng rau ở đầu chợ hoặc rôm rả như tiếng pháo
nổi lên giữa thời đại này - về định mệnh, về tất
yếu, về tự do - đều chỉ là món hàng bán rao giữa đường
phố, giá thì đắt mà xem ra chẳng bổ dưỡng gì! Những
chủ thuyết về duy tâm, duy vật, duy danh, duy số, duy nghiệm,
duy lý, duy sự... của các triết gia, của bọn hoài nghi,
ngụy biện, hư vô chủ nghĩa... cho dẫu có hay cách mấy thì
sự khổ đau trên thế gian vẫn cứ tồn tại và sự chết
vẫn cứ lôi kéo chúng đi vào hang thẳm bất khả tri! Có
phải vậy chăng?
Này chư hiền! Làm thế
nào chúng ta có thể tìm biết vô hạn từ nơi khối óc hữu
hạn? Làm thế nào chúng ta tiên tri về một thế giới mà chưa
hề có một ý niệm nào về chúng? Con cá sống trong ao hồ tù
đọng kia làm sao lại dám vỗ ngực rêu rao biết về thế
giới của loài chim giữa bầu trời cao rộng? Một vốc nước
cống trong lòng bàn tay lại dám phân tích chi ly để tìm ra nước
của đại dương? Ôi! Thật sự là chúng ta không thể biết
được cái gì hết!
Sợi lông kia sao lại màu
hung hung mà nó lại không đen, không trắng, không vàng? Hạt cát
này sao lại ở đây, nó có mặt từ kỷ nguyên nào, nó trầm
luân sinh diệt ra sao? Ôi! chúng ta thật sự không biết gì
hết. Thế mà các bậc đạo sư trên thế gian này thường đong
lường thế giới vô biên bằng cái sở tri nhỏ nhoi, chật
chội khốn cùng của họ. Chúng tự cao tự đại, mê hoặc tín
đồ, xảo ngôn, loạn ngữ rằng là nắm chân lý ngàn đời
trong bàn tay lông lá của chúng.
Này chư hiền! Chư hiền
nghĩ thế nào? Những điều bần đạo nói có đúng hay chăng?
Kolita gật đầu:
- Quả như vậy! Thế
gian này giống như năm người mù sờ voi, và rồi chúng cải
nhau chí chóe, ai cũng tưởng là mình đúng cả. Chẳng có ai nói
đúng cái thực tại toàn bộ. Ai cũng nói từ nơi cái sở
tri, sở kiến chủ quan của mình mà thôi.
Sanjaya mĩm cười hài lòng:
- Vậy thì chư hiền hãy
ở lại đây, trong Giáo pháp này! Ta là đạo sư, là đức
thầy của chư hiền! Ta sẽ hướng dẫn cho chư hiền con đường
đến chốn "bằng an hằng cửu".
Kể từ hôm ấy, Upatissa
và Kolita cùng với đồ chúng của mình làm môn hạ đạo sĩ
Sanjaya. Nhờ vậy, tiếng tăm của giáo chủ Sanjaya bỗng trở
nên vang dội.
Tuy thế, không bao lâu
sau, Upatissa chợt trở nên thất vọng. Bao nhiêu lý thuyết
của đạo sĩ Sanjaya, thật ra chẳng được bao lăm. Lý
thuyết ấy chẳng qua là thuyết "bất khả tri". Tức
là ý thức cái hữu hạn của mình trước thế giới vô cùng
nên quan niệm rằng: "chẳng nên tìm biết cái gì
cả". Họ bất lực trước tuyệt đối, vô biên nên mong
tìm sự an ổn tạm thời, phù du. Cái gọi là "bằng an
hằng cửu" của Sanjaya chỉ là những trạng thái hỷ
lạc của thiền định mà hành giả nào cũng có thể đạt
được. Rời trạng thái ấy, bởi tâm và trí chưa thật sự
yên ổn nên khổ đau, rối loạn, bất an sẽ trở lại y như
cũ.
Upatissa nói với Kolita :
- Hiền đệ à! Có bao
giờ hiền đệ thấy một bầu trời thinh lặng, xanh trong không
một gợn mây? Khi nào nội tâm ta tạm thời yên lắng mọi
vọng tưởng thì trạng thái xanh trong, thinh lặng của bầu
trời kia hiện ra! Xem chừng, triết học của Sanjaya không cao
hơn điều ấy. Vẫn còn những động lực tiềm tàng, những
năng lực ở ẩn đâu đó. Ðúng thời, bão tố sẽ đến. Ðủ
duyên, sấm chớp sẽ nổi lên. Cái an ổn dẫu có to lớn như
bầu trời xanh trong, thinh lặng kia chúng vẫn ở trong định
luật sinh diệt.
Kolita buồn bã đáp:
- Từ hệ thống triết
học Vedanta, chúng ta bước ra ngoài truyền thống. Một bên là
nô lệ một đấng chủ thể toàn năng với hàng ngàn vị
thần tác oai tác quái, hí lộng đủ trò; một bên là đắm
chìm vào một vài phúc lạc phù du, tạm thời quên mất cái
tiểu ngã đau khổ. Hai đàng đều chẳng thể. Hai đàng đều
vong ngã. Cái Chân Phúc và Bất Tử - nếu là cái quan niệm
được thì nó phải là trạng thái đại hòa bình, dứt
tuyệt mọi câu hỏi và mọi hoài nghi; dứt tuyệt luôn những
năng lực tiềm tàng ở ẩn đâu đó trong nội tâm chúng ta,
chờ cơ hội là chúng ló ra, thò chân quậy sóng. Bao giờ còn
câu hỏi, còn hoài nghi, còn một cái gì đó chưa được yên
là chúng ta còn phải lên đường tìm kiếm. Dù có gian nan,
gục ngã, chúng ta vẫn không thối chí!
Hôm kia, sau khi đi khất
thực trở về, hai chàng tìm đến đạo sĩ Sanjaya:
- Bạch đạo sư! Bạch
thầy! Triết học của thầy, con đường thực hành của
thầy, chúng con đã được học hỏi, đã chứng nghiệm, đã
liễu tri. Chẳng hay đấy có phải là cứu cánh của những
thiện nam từ bỏ gia đình, của những du sĩ sống hạnh khước
từ?
Ðạo sĩ Sanjaya ân cần
đáp:
- Các ngươi là những đệ
tử ưu tú, ưu việt của ta. Triết học, giáo pháp ta đã nói
hết rồi. Con đường thực hành, cái mà ta chứng đắc chính
là hiện tại lạc trú, hiện tại Niết Bàn. Cái ấy chính là
Chân Phúc và Bất Tử. Các ngươi chẳng cần tìm kiếm đâu
nữa. Hãy ở bên ta làm cánh tay mặt, tay trái của ta để giáo
huấn môn đồ. Ấy là hạnh phúc tối thượng vậy.
Ðôi bạn Upatissa và
Kolita lặng lẽ nhìn đạo sĩ Sanjaya. Họ không muốn lý luận
với đạo sĩ trong lúc này, vì thật ra, dẫu biết triết lý
và con đường thực hành kia chưa phải là cứu cánh, nhưng
hai chàng cũng chưa tìm ra được ánh sáng nào.
Chẳng lẽ, chân lý xưa
đã bị vùi lấp dưới những đống tro tàn? Chẳng lẽ nào
những điện thờ, am miễu, thần tượng, kinh điển, chỉ còn
là những biểu tượng khô kiệt tinh thần, chẳng còn một
mảy may giá trị nội tại nào? Nhưng chắc chắn hai chàng không
thể đánh đổi cả cuộc đời thanh xuân để mưu tìm một vài
niềm vui huyễn hóa, sinh diệt.
Gởi lại hai trăm rưỡi
đồ chúng ở đây, hôm sau, hai chàng xin phép đạo sĩ Sanjaya
để lê gót du phương, lang thang khắp xứ Ấn Ðộ.
Với tấm y che thân, cái
bát kiếm ăn; lúc nghỉ nơi cội cây, khi nơi đền miếu, am
thất, nghĩa địa, rừng rú, làng mạc...; bánh trái vừa đủ
no lòng, họ quyết tìm cho ra đạo lớn.
Nghe nơi nào có bậc đạo
sư lỗi lạc họ đều tìm đến để tham vấn. Cái băng giá
của Tuyết Sơn, cái lửa bỏng của sa mạc, cái hừng hừng
khô khát của miền hanh khô nhiệt đới... gót chân quý tộc
ấy đều đã từng dẫm qua.
Chưa có ở đâu thỏa mãn
được cho hai chàng về tri kiến. Cũng chẳng có ở đâu
giải đáp rành rẽ cho hai chàng con đường Chân Phúc và Bất
Tử.
Ðôi bạn cảm thấy lạ
lùng khi đối diện với những đạo sư suốt ngày ngồi trên
tảng đá, khổ hạnh trầm tư, da bọc xương, mặc cho nắng
lửa và mưa dầm. Họ nói rằng, muốn tìm kiếm chân phúc thì
phải hủy diệt sự đòi hỏi của thân xác; bao giờ thân xác
này được hành hạ, triệt tiêu đến tận cùng thì tinh
thần sáng láng sẽ xuất hiện. Họ không có một ánh sáng trí
tuệ nào khả dĩ thấy rõ lập luận thô thiển và máy móc
ấy. Dẫu cho ngồi cả ngàn năm - ví có thể được như
vậy, thì Chân Phúc cũng không thể tự dưng nó tìm đến.
Dầu kia mà khô kiệt thì ngọn đèn cũng lụi tắt mà thôi.
Có những đạo sĩ tự
treo chân, treo tay mình lên ngọn cây. Thế là họ cũng thực hành
con đường về với Phạm Thể!
Có những đạo sĩ nhịn
ăn, nhịn thở - dẫu có chôn sống họ năm bảy ngày cũng không
sao! Tu như vậy thì những tượng đá ngàn năm cũng thành
bậc A-La-Hán mất thôi!
Có những đạo sĩ nằm
ngửa lưng, trườn lưng ở trên đường, họ đang hành hương
đến quê nhà của Thượng Ðế .
Có những đạo sĩ ngồi
yên lặng, tịch nhiên giữa nghĩa địa, tóc dài quá lưng,
chim làm tổ trên đầu, những ngón tay dài đâm sâu vào lòng
bàn tay, họ ăn những gì xung quanh mà tín thí động tâm cúng
dường! Có lẽ đối với những đạo sĩ này, hình ảnh Thượng
Ðế mà họ tìm kiếm, chắc cũng man dã và thú rừng như họ
vậy!
Ôi! Thật là không kể
hết hàng trăm, hàng ngàn phương pháp và lối tu khác nhau mà
hai chàng đã bắt gặp, đã tham vấn, đã đàm đạo. Và nói
chung, lối tu khổ hạnh là cái được quần chúng mến mộ
nhất, kính trọng nhất. Ai tu khổ hạnh đệ nhất thì kẻ
ấy được nổi danh nhất!
Tất cả giáo chủ, đạo
sư trên toàn xứ Ấn Ðộ, nói chung, là đều đi tìm Phạm
Thể. Họ đi bằng con đường khổ hạnh, ép xác; con đường
thuật chú, bùa phép; con đường cúng tế, cầu nguyện; con
đường trầm tư, thiền định. Con đường chân chính nhất là
con đường thiền định, trầm tư - nhưng rồi cũng không đi
đến đâu, không đưa đến tối thượng an lạc và giải thoát.
Họ đắm chìm, dừng nghỉ, thọ hưởng thụ động nơi các
tầng thiền Sắc giới - một loại dục vọng tinh thần tế
vi. Không đắm ở đấy thì họ rơi vào miền trầm mịch
của hư vô: hư vô của không, của thức, của tưởng! Tất
cả đấy là cạm bẫy của những hành giả hướng thượng;
là những tạo tác nhân quả vi tế, thanh lương; đều là pháp
sanh diệt, chưa phải là cái Chân Phúc và Bất Tử.
Buồn nản quá, hai chàng
thốt lên:
- Có lẽ nào! Có lẽ nào
giữa trời đất mênh mông này không có một vị A-La-Hán,
một bậc giải thoát đã bước ra khỏi vòng quay tất định
của nhân quả, của nghiệp, của những buộc ràng hệ lụy,
khổ đau? Có lẽ nào?
* * *
Bao năm qua rồi, nước
da đôi bạn đã sạm nâu, phong trần; thân thể có gầy đi nhưng
đôi mắt thì như tinh anh hơn, sáng rực hơn. Sau đôi vừng trán
nhẵn bóng, phẳng lặng kia ẩn tiềm một tri thức vượt
bực, một giá trị tinh thần phong phú, đồng thời, cũng ẩn
chứa những câu hỏi buốt lạnh như băng giá, những vấn
nạn nóng rực như hỏa diệm sơn!
Bước chân quyết chí
tầm đạo lang thang vô định, bây giờ thất bại, bất lực,
mang họ trở về quê hương cũ: Vương-Xá thành! Hai chàng
muốn trở về làng mạc thăm cha mẹ, bà con trước khi tiếp
tục theo tiếng gọi viễn du.
Dẫu sao hai chàng chưa
thật sự tuyệt vọng. Lửa ngàn đời của khát vọng hiểu
biết còn nung đốt ở bên trong; Chân Phúc và Bất Tử còn thúc
hối, rượt đuổi đôi bạn trên đường trường - nên trước
khi chia tay , họ cam kết với nhau rằng: "nếu ai tìm ra
con đường Chân Phúc và Bất Tử trước thì người ấy
phải tức khắc thông báo cho người kia và ngược
lại..."
--- o0o ---
Mục
lục - [01] - [02]
- [03] - [04]
- [05]
[06]
- [07]
- [08] - [09]
- [10] - [11]
--- o0o ---
| Mục lục Tác giả |
Tủ sách Phật Học
|
Chân thành
cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng tập sách này
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-04-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục