Thời
thơ ấu
Thật là không nói hết
sự nuôi nấng, chăm sóc chu đáo của gia đình. Trẻ lớn lên
như chiếc bóng của thiên thần với ngày tháng hạnh phúc,
hoa mộng. Phước báu tiền kiếp sáng rực rỡ nơi dung sắc,
nơi tiếng cười, giọng nói hồn nhiên của trẻ.
Ông bà Vaganta cảm thấy
tuổi già của mình đã được Thượng Ðế ban cho một ân
sủng quá lớn. Hôm kia, ông nói với bà rằng:
- Phu nhân ạ! Kể cả
những trò giải trí, ta cũng nên cho con ta hưởng những niềm
vui thanh cao của cõi trời. Hãy bỏ đi những trò chơi vô ích,
rỗng không, phù phiếm. Quân bình khẩu, ý; trong sáng, lành
mạnh và hướng thượng tâm hồn: ấy là mục đích trò chơi
của giòng giống cao thượng.
Lên sáu tuổi, Upatissa đã
đến tuổi học vỡ lòng. Ông Vaganta cho mời ba thầy Bà la môn
uyên bác từ thành Vương-Xá, đảm trách dạy cho trẻ ba môn
học khác nhau. Ðó là ngữ pháp, luận lý và triết học! Riêng
ông Vaganta dạy cho con về đạo đức học, luân lý học và các
môn thường thức khác... Ðấy là những cái thiện, cái ác,
cái phải, cái trái... ở đời; phép ngoại giao, cách cư xử
đối với kẻ trên, người dưới, trong và ngoài đẳng cấp;
bổn phận đối với thần linh, quốc vương, vợ chồng, con cái
v.v... ; cách giữ gìn thân thể cho lành mạnh cùng một số
kỷ luật về cảm xúc, về tinh thần...
Quả là một tham vọng
quá lớn của ông Vaganta, khi muốn nhồi nhét từng ấy môn
học cho một đứa trẻ sáu tuổi, một chúng hữu tình nhỏ
nhoi được giáng sinh do ân sủng của Thượng Ðế! Nhưng
thật đáng ngạc nhiên làm sao, Upatissa không tỏ vẻ lúng túng
trước môn học nào. Chỉ non nửa năm sau, Bà la môn Vaganta đã
dám hãnh diện để nói với bằng hữu rằng: chỉ cần ít năm
thôi là các thầy A-đồ-lê bác học kia sẽ không còn bao lăm
chữ nghĩa!
Sự thực có lẽ còn hơn
thế nữa - vì Upatissa không phải chỉ có học bấy nhiêu!
Vừa mới canh ba, khi đang còn trong giấc ngủ say nồng, ông
Vaganta đã đánh thức con dậy để tập cho trẻ về Hathayoga
- tức là những động tác thể dục để giữ gìn sức
khỏe! Bà Sàrì còn đề nghị ông dạy đức tin với thần
linh bằng cách để thêm một số giờ cho trẻ đọc kinh, đọc
chú và cầu nguyện.
Dường như Upatissa đã có
sẵn ý chí, tinh tấn, nhẫn nại, căn tu lẫn trí tuệ lâu đời
nên không một lời, một chữ, một môn học nào mà trẻ tỏ
vẻ lơ là hoặc không thực hành, học và hiểu đúng mức.
Tám tuổi, Upatissa đã
nổi tiếng khắp làng về sức học. Và kỳ lạ thay! Trẻ
Kolita ở làng bên cạnh cũng như thế. Hai trẻ là hai ngôi sao
sáng, là hai tiêu chuẩn mẫu mực cho hàng trăm trẻ con cùng
lứa tuổi noi gương.
Hai gia đình thường
tạo cơ hội cho hai trẻ gặp nhau. Và thật lạ lùng làm sao,
những trò chơi của chúng bày ra lại nghiêm túc ngoài sức tưởng
tượng của người lớn. Một trẻ đóng vai đạo sĩ khổ
hạnh, một trẻ đóng vai du sĩ hành cước, chúng hỏi đạo
nhau hoặc giả làm trò bố thí, cúng dường... Thỉnh thoảng
trong những lời đối thoại, các bậc thầy cũng phải ngỡ
ngàng về cái tầm mắc mỏ, có chiều sâu, chiều rộng của
vấn đề. Tuy nhiên, trẻ con vẫn là tuổi vô tư vô lự. Chúng
thích đi tắm sông, suối, thích chạy nhảy reo hò, thích
ngoạn du đây đó. Giữa thiên nhiên, chúng thả sức nô đùa,
rượt đuổi chim thú, hái trái cây, hái hoa xâu thành tràng...
Thi thoảng chúng cũng vật lộn, đóng vai anh hùng, hiệp sĩ...
Có điều đặc biệt là
chúng vẫn gọi nhau là huynh đệ. Upatissa là anh, Kolita là em.
Cả hai không chịu kết bạn với trẻ trong làng mặc dầu là
cùng tập cấp. Chúng tỏ thái độ đàn anh. Ðôi khi lại
dạy bảo, khuyên răn, vẽ vời điều này, điều nọ một cách
nghiêm trang đứng đắn.
Giữa đàn gà chỉ có
hai con phượng hoàng. Cả hai gia đình thấy rõ như vậy và
họ hãnh diện về điều đó.
Năm lên mười tuổi,
sức học của Upatissa đã bằng sức học của một thanh niên
Bà la môn hai mươi tuổi thông minh và ham học nhất. Trẻ đã
bắt đầu bỏ hẳn các trò chơi và hoàn toàn chú tâm vào
sự học. Nhờ sự nuôi nấng và bảo dưỡng đúng mức,
Upatissa lớn như thổi, khuôn mặt thanh tú, phi phàm và đôi
mắt tinh anh, ngời sáng như ánh sao mai. Ngoài các môn học
của thầy mà trẻ theo đuổi dễ dàng, không phải cố gắng
lắm; trẻ còn nghiên cứu số học, đo lường, tự nhiên
học, địa lý, chiêm tinh, thuật số v.v... Cái trí của trẻ
quả là một đại dương thăm thẳm, dung chứa hàng trăm con sông
kiến thức, hiểu biết và trí khôn của cổ nhân từ ngàn xưa
mà vẫn không thấy đầy tràn.
Thế là vừa mới mười
hai tuổi, Upatissa và Kolita đã nổi tiếng là thần đồng bác
học. Trẻ trong làng vây quanh thần tượng của họ. Và
Upatissa bắt đầu đóng vai bậc thầy về đủ loại môn học
một cách thông tuệ và ưu việt.
Cái cây đã đủ sức
lớn. Bây giờ chỉ cần môi trường thuận lợi; các điều
kiện về thời gian, ánh sáng, không khí, nước v.v... là nó
tự đủ sức vươn lên vòm trời xanh cao rộng. Ông bà Vaganta
không còn một mảy may lo âu nào nữa về đạo đức, sở
học cũng như trí tuệ của con. Tính tình và những phẩm
chất cao thượng càng lúc càng hiện rõ như một đóa kỳ hoa
từ từ mãn khai. Từ đây, ông giao phó trọn vẹn sự giáo
dục cho ba thầy Bà la môn uyên bác. Vả chăng, ông bà còn
nhiều việc phải làm; đó là liên tiếp mấy năm sau, bà
lại được "linh điển ơn phúc" thêm ba trai và ba gái
nữa! Quả thật, ông bà Vaganta đã được đấng Rama "quá
thương"!
Upatissa lúc mười lăm
tuổi đã có xung quanh hơn một trăm đồ chúng. Ba thầy Bà la
môn hôm kia đến gặp ông bà Vaganta và nói rằng:
- Thưa Ngài trưởng giáo!
Sở học của chúng tôi có hạn, chữ nghĩa của chúng tôi có
hạn mà trí thông minh, lòng ham hiểu biết của đức công
tử thì vô hạn. Chúng tôi không còn gì để dạy nữa.
Một vị lại nói:
- Chúng tôi, mỗi người,
chỉ làm thầy đức công tử một môn học . Ðức công tử
hiện giờ có khả năng làm thầy chúng tôi rất nhiều môn
học khác.
Tất cả họ đều xin rút
lui.
Thật ra, bản thân
Upatissa, chàng thấy cái sở học của mình còn nhiều thiếu sót,
nông cạn. Cái gì cũng biết nhưng chưa có gì là đi chuyên sâu.
Thế là chàng bắt đầu lựa chọn một môn học hợp với
sở thích cần phải theo đuổi suốt đời: đó là Triết đạo
học.
Mười sáu tuổi, chàng
đi sâu vào kinh điển Vệ-Ðà. Ðấy là kinh điển truyền
thống mà dòng họ chàng đang thừa kế. Chàng nghiên cứu đến
tận chân tơ kẻ tóc. Tuy nhiên, ở đó tổng hợp nhiều tri
thức phức tạp, phong phú, đa dạng và đôi khi lại như mâu
thuẫn nhau. Chàng đã không tìm ra sợi chỉ vàng xuyên suốt,
và nhất quán. Sau khi ba thầy Bà la môn ra đi, họ đã để
lại cho chàng những kiến thức không suy luận, những mặc
khải không được phép hoài nghi! Chẳng lẽ nào lại thừa
nhận, đặt đức tin tuyệt đối trước những tri thức mà
ta không biết gì về nó? Chẳng lẽ nào lại đem rao giảng
những điều mà ta chưa kinh nghiệm và thực hành?
Những thắc mắc, băn
khoăn của Upatissa không phải là hợm hĩnh, cao đại mà là do
lòng trung thực. Nơi vừng trán thanh mãnh, dịu dàng của chàng
trai mới lớn, đã chập chờn suy tư của một lòng biển
rộng. Chàng đã có những giờ khắc ngồi yên lặng, xuất
thần giữa đêm khuya u tĩnh để nhìn lên bầu trời cao, xa xăm,
diệu vợi. Một linh hồn nho nhỏ đang cựa quậy, thao thức,
nhìn ngắm và lắng nghe? Nhưng nó là gì với vô biên - cái thân
phận này, cái thận phận con người muôn nơi, muôn thuở? Nó
có mặt giữa cuộc đời để chịu định luật sinh thành và
hủy diệt? Ðể nhận chịu nước mắt, niềm vui? Vinh quang và
tủi nhục là để làm gì? Cứu cánh của những sinh hoạt lăng
xăng: xu?ng lên, ra đi, sở đắc, yên nghỉ - của thiên thu và
thời đại - là cái gì? Rồi nơi đám cỏ xanh lại có nắm
cỏ vàng? Rồi bên xác chết tanh hôi ruồi nhặng lại có
trầm hương thanh khiết? Rồi nơi tối tăm hắc ám lại có
những nhân cách đâu đó chợt nhiên bừng sáng lên như đốm
sao mai? Ngày và đêm, mưa và nắng, nóng và lạnh, thiện và
ác - là để làm gì? Chàng không hiểu? Có những luật tắc
chi phối nhịp nhàng như bởi bàn tay vạn năng - và đó là Thượng
Ðế? Thật ra, nếu có những câu trả lời - thì những câu
trả lời ấy cũng là những tri thức có sẵn từ Vệ-Ðà! Ôi!
mà ở đó là kết tinh cả hằng vạn tri thức, hằng vạn trí
khôn của cổ nhân - lẽ nào ta lại dám hoài nghi? Bổn phận
của ngươi là trở về với Ngài, với siêu việt tính, với
Phạm Thể tối cao, hằng hữu, đấng vô tạo tác mà hằng
sinh, đấng vô nguyên nhân mà làm ra thế giới! Những tri
thức về thánh ca, tán tụng, cầu khấn, tế lễ, thần chú...
là con đường để đạt tới Ngài, để siêu thể hóa?
Con đường ấy không
phải một sớm một chiều - Upatissa không thể nôn nóng. Chàng
đi từng bước chậm mà chắc. Chàng thu lượm những tri
thức ở tận những chiều sâu của kinh điển Vệ-Ðà. Chàng
dường như mê man, đắm say, trong thế giới lý giải và ý
nghĩa. Ngay cả anh hùng ca Mahabharata, trường ca Bhagavadgita, trường
ca Ramanaya, chàng cũng thuộc lòng và cố tìm cho ra những mật
ngữ uyên áo. Mười bảy tuổi, vầng trán chàng dường như
cao hơn, rộng hơn. Ðôi mắt chàng dường như xanh hơn, sâu
thẳm hơn. Một đôi mắt ngời ngời xuyên thủng hư vô! Nhưng
tri thức tuyệt đối, vô tận, cuối cùng - vẫn không tìm
thấy!
Mười tám tuổi, chàng
đã có phong độ và tư cách của một đạo sư lỗi lạc
nhất. Chàng nghiễm nhiên thay thế cha dạy dỗ môn sinh và
lấy lại sinh khí các lớp học thuở nào. Kolita cũng thành
tựu tương đương như Upatissa. Hiện giờ mỗi người có hơn
một trăm môn sinh ở trong làng cùng các làng kế cận. Danh
tiếng của hai huynh đệ hy hữu này đã vượt qua những lũy
tre xanh , vượt qua dòng sông lặng lẽ, vượt qua phạm vi các
thôn làng nhỏ bé để bay đến Vương-Xá thành - tức là kinh
đô của văn hóa, kinh tế, tín ngưỡng và tâm linh đạo
học.
Tuổi thơ của Upatissa không
còn nữa, chàng đã làm đạo sư khi tuổi vừa thành niên.
Bóng
tối hoài nghi
Như lời cầu nguyện trước
Ðức Brahman và các thượng đẳng thần, ông Vaganta cho xây
dựng một công trình bảo tháp nguy nga đồ sộ.
Suốt hai năm ròng rã,
tiền của đổ ra như nước của con sông Indus để hoàn thành
công trình tạ ơn thiêng liêng này! Ông Vaganta cho mời những
tay thợ tài ba, tinh xảo nhất từ thành Vương-Xá. Vật liệu
quý giá, chắc bền và đẹp đẽ. Những phù điêu, những hoa
văn chạm trổ có giá trị nghệ thuật cao được đặt mua
khắp nơi trong nước. Những mặt hàng đá chạm nổi người,
hoa lá, linh thú, linh điểu, linh thần là những tác phẩm
tuyệt vời của những điêu khắc gia hữu danh, vô danh cặm
cụi từ tháng này sang tháng nọ. Những tấm gỗ chiên đàn,
dạ hương ghép làm tường trong, làm trần cũng là những tác
phẩm nghệ thuật tuyệt vời. Những đồ thờ, khí dụng
bằng đồng, bằng vàng, bằng bạc được đặt mua từ Trung
Hoa, Ba-Tư, Ả-Rập hoặc tại những danh gia cổ kính còn lưu
giữ được.
Ông Vaganta muốn để
lại cho hậu thế, giòng tộc và cháu con một bài học vô ngôn
về đức tin và lòng tri ân nên ông chẳng ngại tốn kém.
Tất cả các thầy thợ được trả công hậu hỉ và hằng trăm
người phụ việc mỗi ngày luôn luôn rộn lên những tiếng
ca, nụ cười, niềm vui bay phơi phới.
Công trình hoàn thành là
ngày vui lớn nhất của ông, của giòng họ, thôn làng và môn
đệ. Lễ lạc thành khánh hỷ diễn ra trong bảy ngày, tiệc tùng
ăn uống linh đình. Hàng ngàn người được mời đến hoặc
không mời, đều được đãi đằng tươm tất, trọng hậu.
Ðây cũng là dịp để ông chứng tỏ uy tín, địa vị, danh
vọng cùng khí độ của một bậc trưởng giáo đạo cao, đức
trọng.
Suốt mấy ngày liên
tục, đêm nào cũng có biểu diễn văn nghệ. Những hí khúc,
vũ khúc do một gánh hát nổi danh đảm nhận được mời đến
từ Vương-Xá thành. Các tuồng hát - mà nội dung được rút
ra từ kinh Vệ-Ðà, các Anh Hùng trường ca - đã được diễn
một cách sống động, có đệm nhạc mang âm hưởng huyền bí.
Những nhạc công sử dụng trống Mridanga, kèn hình rắn, đàn
Tanbura, đàn Vina... đều là những nghệ nhân kỳ tuyệt, đã
phối hợp một cách thiên tài các vi âm để tạo nên các khúc
Raga, những chuỗi Raga, thành kính dâng lên Thượng Ðế làm xúc
động lòng người.
Upatissa đã mất cả ý
chí, quên cả bản ngã khi lắng nghe. Vật thể, không gian và
cả thời gian như hòa làm một. Tâm thần như chìm ngập vào
cõi miền bí ẩn, vô danh và an tĩnh... Chàng nhớ mãi khoảnh
khắc đó - tương tự những khoảng khắc chàng nhập định,
xuất thần - mà cái tiểu ngã ti tiểu, bé mọn đầy những
ưu tư, phiền não... được hòa tan vào đại ngã! Còn tất
cả, chàng đều muốn quên. Quên tòa bảo tháp, quên những câu
chuyện có vẻ uyên bác, thâm thúy của các hàng cha chú, các
danh sĩ Bà la môn. Quên những lời chúc tụng sáo rỗng dường
như là các hoa ngôn, xảo ngữ... chỉ còn dính ở đầu môi,
chót lưỡi. Ðiều làm chàng xúc động nhất, muốn quên
nhất là tiếng rống, tiếng la của hàng trăm súc vật bị hy
sinh để tế thần. Chàng muốn bịt tai lại, nhắm mắt đi trước
những hình ảnh máu me, những đôi mắt ứa lệ, thống
khổ... của những sinh linh vô tội.
" - Ôi! Nếu Thượng
đế, nếu Ðấng ấy là Vô Ngã, là Thần Hóa, là Ðại Ngã,
là Nhất Nguyên, là Bản Thể Vũ Trụ hay Tuyệt Ðối Vô Nhân...
mà còn cần những máu me, xác chết sinh linh kia để cúng tế
cho mình; cần những khổ đau thống thiết kia mới có niềm
vui - thì trách gì cháu con Ngài đang sống trong nhầy nhụa,
tanh hôi của chém giết và hận thù? Một thời đại kế
tiếp một thời đại, một trang sử khép lại một trang sử,
một vinh quang kế tục một tủi nhục, một văn minh nối
tiếp một suy tàn - là nơi diễn ra những đấu trường đẫm
máu, những tàn sát khủng khiếp, những bạo hành vô nhân tính,
những âm mưu ác độc, tàn tệ - thì đấy cũng nằm trong định
luật của Ngài? tất yếu của Ngài? tự do tối thượng của
Ngài?"
Upatissa đứng lên, chàng
lặng lẽ đi vào rừng. Một nỗi buồn mênh mông làm chàng cơ
hồ không chịu nổi. Chàng gặp Kolita ở đó. Cả hai lặng
lẽ nhìn nhau. Ðôi mắt họ cùng ứa lệ. Họ hiểu nhau. Họ
biết nhau. Không ai cần thiết phải nói năng.
Khu rừng buổi chiều im
mát, gió lồng lộng thổi. Họ nằm dài trên cỏ, vắt tay lên
trán và không muốn suy nghĩ gì. Nhưng trí óc họ không yên.
Từng đợt sóng xao động, chìm sâu rồi xao động trở
lại... Tiếng ca đâu đó của những kẻ du mục vọng lại
rất buồn, man mác hư vô. Dường như trong tiếng ca đó có bóng
dáng của những kẻ lữ hành lầm lũi giữa sa mạc, lầm lũi
phong trần giữa cuộc đi, cuộc về, cuộc đến? Họ và chàng
đều giống nhau: một thân phận lưu đày tại thế, lạc lõng,
bơ vơ... trên miền đất hoang vu, bất toàn của Thượng Ðế.
- Ðệ nghĩ gì hở
Kolita?
Upatissa thẩn thờ cất
tiếng hỏi.
Kolita lắng nghe tiếng ca
của kẻ du mục đã loãng xa trong gió, đưa mắt nhìn lên vòm
trời sau những kẻ lá; lâu lắm mới đáp:
- Ðức Brahman không toàn
thiện. Thượng Ðế không toàn thiện. Ở đấy cũng trống không,
hoang vu và đau khổ. Ngài còn tìm kiếm niềm vui và còn cầu
mong sự ngưỡng mộ, cúng tế máu súc vật của cháu con Ngài!
Sự toàn năng, đại bi và siêu việt của Ngài cần phải xét
lại!
Upatissa cười khẽ:
- Vậy từ lâu chúng ta
đi tìm một đấng không toàn thiện ư?
- Phải! Không những chúng
ta mà cả tổ tiên, giòng họ chúng ta từ đời này sang kiếp
nọ, người mù dẫn theo người mù. Và cứ thế, nối dài đến
vô tận. Ði, mà chẳng biết đi về đâu... Hư vô và vực
thẳm đang chờ đợi chúng ta ở phía trước!
Upatissa nghe nhói đau ở
lồng ngực. Phải! Ðiều mà chàng không muốn nghĩ đến,
muốn khỏa lấp đi thì Kolita đã nói ra. Cõi trần này sinh
tử quyện lẫn vào nhau. Vui buồn, thiện ác, vinh nhục, xấu
tốt nương dựa nhau mà tồn tại. Vậy thì toàn thiện nằm
ở đâu giữa những tương tranh nhị nguyên, lưỡng giá bất
toàn?
"- Ôi! thế giới Màyà
huyễn hóa! Giữa cái điêu tàn Ngươi cho mọc lên một nụ
xanh. Giữa bàn tay hủy diệt của Ðức Mẹ Kàlì, một sơ
sinh nhú ra từ nụ cười của đấng sáng tạo Brahma! Thế nghĩa
là gì, hỡi Ngươi, hỡi Màya kinh khiếp?"
Upatissa đau xót nhìn
bạn, thở dài. Sự có mặt của chàng trên đời này cũng
vậy, cũng do sự bất toàn của Ngài! Chàng không hiểu gì
cả. Phải chăng các thượng đẳng thần cảm thấy mình được
tôn trọng, được cúng tế hậu hỉ - nên đã làm sớ tâu lên
Ðấng Brahman - và Ngài đã bằng lòng rứt ra từ cái Ðại Ngã
của mình một cái Tiểu Ngã để quẳng cho gia đình chàng
theo với mong cầu, sở nguyện của họ? Rồi sau chàng, các
tiểu ngã khác, các em chàng đã lần lượt ra đời: Cunda,
Upasena, Revata, Càlà, Upacàlà, Sìsupacàlà. Ðức Brahman đã ban
cho gia đình chàng quá nhiều ân huệ!
* * *
Những khi không tìm ra lý
giải cho những câu hỏi xoắn xít, trùng trùng; khi mà các ưu
tư, hoài nghi và buồn nản làm cho bấn loạn tâm hồn,
Upatissa bèn rủ Kolita du sơn ngoạn thưởng. Họ muốn quên chúng
đi.
Upatissa với hơn một trăm
chiếc võng và hơn một trăm môn sinh. Kolita với hơn một trăm
cổ mã xa và hơn một trăm môn đệ. Họ mang thức ăn cho
nhiều ngày và đi khắp các nơi danh lam thắng cảnh trong vùng.
Giữa thiên nhiên, đất
trời hùng vĩ, cỏ cây và sông núi hữu tình - họ thấy tinh
thần được xoa dịu, mát mẻ. Nhưng nhu cầu hiểu biết không
cho phép họ được nghỉ ngơi lâu dài. Họ lại học những bài
học ngoài trời, thực nghiệm một số hiểu biết từ sách
vở. Các môn học về địa lý, phong thủy, tự nhiên học làm
cho họ mê say không khác gì những môn học về tâm linh. Dịp
này, cả mấy trăm môn đệ được hai vị đạo sư trẻ
tuổi khả kính của họ giảng dạy một cách cụ thể, thực
tiễn, phong phú và sống động vô cùng.
Tuy nhiên, không bao lâu,
nỗi buồn lại đến. Bỏ đám môn đệ, họ bách bộ bên
nhau, đi ra xa. Ở đâu đó vẫn còn tồn tại một cái gì chưa
giải quyết được. Truyền thống ngàn đời kinh viện, từ
chương, cúng tế, cầu nguyện... lẫn những môn học thâm sâu
uyên bác này... cũng không thỏa mãn được chàng.
- Hiền đệ yêu mến!
Rỗng không làm sao là cuộc đời này. Sở học của chúng ta
không mảy may đem lại một ổn định tâm hồn. Càng học
hỏi, hiểu biết, dầu các môn học thuộc về tâm linh đạo
học hay thế học... trí óc chúng ta như rơi vào những đám tơ
vò, các màng nhện chằng chịt xoắn rối, mâu thuẫn và không
tìm ra đầu dây mối nhợ. Vẫn sừng sững tồn tại những
bất khả tri, những bóng tối bất khả kiến giải. Nơi chân
trời của Ðại Ngã, của Brahman dường như vẫn hiện hữu hư
vô, bất toàn và phi nhân tính. Vệ-Ðà có nghĩa là tri
(biết), nhưng lại đầy đặc cái bất khả tri! Còn những cái
tri ấy - những tri thức về thánh ca, tri thức về giáo điều
Samadeva, tri th?c về cầu khấn, tri thức về thần chú, những
Mantra, những Brahmana, những Aranyaka... thì chẳng nên đáng
"tri" một chút nào. Những cái tri ấy giúp ích gì cho
chúng ta? Hay càng học, càng tri chừng nào chúng ta càng ngu
dốt, cuồng tín, bản ngã, kênh kiệu, đa văn... để hình thành
một tập cấp lãnh đạo tinh thần, bá chủ tinh thần, nắm
độc quyền sứ giả của thần linh để vinh thân phì da, để
thao túng và bóc lột xã hội? Ôi! Ta không còn hiểu gì nữa,
không còn biết "tri" cái gì nữa! Ta đã quá rối
loạn, bất lực trước Thượng Ðế vô tri, mù mênh phi lý và
khói sương độc hại!
Thanh niên Kolita cúi đầu,
mắt đỏ lệ, mờ sương. Những ưu tư, băn khoăn của
Upatissa cũng là những ưu tư, băn khoăn của chàng. Kolita nhìn
lên bầu trời trong xanh có những đám mây trắng trôi bàng
bạc. Tiếng cười đùa hồn nhiên của môn sinh bên kia suối
vẳng lại. Một con bò đủng đỉnh, yên lặng gặm cỏ dưới
chân đồi. Một cô gái chăn dê cất tiếng hát ví von bên kia
triền thung lũng. Một đám hoa dại bé bỏng phô những nụ
hoa li ti, khiêm nhường, rực rỡ sau cụm đá bạc đầu...
Ôi! Cảnh vật xung quanh
yên lặng, thanh bình, đại toàn và tuyệt bích như thế - mà
tâm trí chàng thì cứ để đâu, có nhìn thấy mà cũng như không,
bởi chàng đang rối loạn vì tư tưởng lợn cợn, đục vẩn
ở trong đầu.
- Hiền huynh yêu quí!
Kolita nói mà đôi mắt như chìm đắm ở một khoảng vô danh,
xa mờ - Ðấy cũng chính là những điều mà đệ hằng suy nghĩ.
Tất cả đều vô ích, vô vọng và phù phiếm thế nào. Tất
cả đều rỗng không, bất lực và bất toàn. Chúng ta đã
học, đã đọc, đã biết hết rồi tất cả trí khôn, sự
mẫn tuệ, thông bác của tiền nhân, của loài người. Nhưng
sự hiện hữu của một hạt bụi cũng không giải thích được,
cũng là bất khả tri! Chỉ là những giáo điều mặc khải,
những thánh thi vớ vẩn, tối tăm, ngu ngốc và xuẩn động.
Hiền huynh hãy nghe đây!
Và Kolita đã ca lên, đã
hát lên giữa bầu trời cao xanh lồng lộng:
"- Thuở ấy...
Vị đó không vui, không
buồn
Chẳng biết vô tình hay cố ý
Cái Ðộc Nhất sinh ra
trải ra thăm thẳm
Vô biên,
hư vô và mềm mại
tấm lụa xanh trên nền trời
bỗng làm nên hiện hữu
Pati và Patnie ôm hôn nhau
tình yêu xuất hiện
đau khổ có mặt
tinh tú và nhật nguyệt
ngày và đêm
thảng thốt bàng hoàng!
Hỡi các đấng Thần Linh Yên Tĩnh
Mẹ của Thiên Ðạo
Mẹ của Bất Diệt
Thần Lửa, Thần Rạng Ðông
Luống cày,
và Thần Indra giông tố
sự chết và hy vọng
mầm cây và hủy diệt
không ai sáng tạo ra ngươi!
cái Ðộc Nhất hiện hữu
cái Vô Nhị hiện hữu
bỗng làm nên tất cả
bởi ý chí hỗn mang
tối tăm và sáng láng
và đấy là Màyà
Aum, Aum, Aum!"
Hát xong, Kolita thốt lên:
- Cái gì vậy? Cái thánh
ca vớ vẩn kia là gì vậy? Ngu xuẩn!
Trong khi Kolita hát,
Upatissa đăm đăm nhìn bạn. Trong đôi mắt ấy có hai ngôi sao
bừng cháy, sâu thẳm, xa vời vợi. Upatissa không nghe lời ca mà
chàng chỉ nghe âm hưởng, tiết điệu; sự tuôn trào những
cảm thức, cảm tính bơ vơ, nóng hổi! Chúng như là những
thực thể trần truồng, đam mê, thống hận - kêu gào nhảy múa
bên bờ vực thẳm của thần Ràgu!
Ôi! Nhưng đấy cũng chính
là những cảm thức, cảm tính của chàng! Chúng cũng bơ vơ,
nóng hổi và thác loạn như thế. Nhưng, sự phẩn nộ ấy cũng
là những gọi kêu vô vọng, chỉ chứng tỏ sự bạc nhược,
ủy mị của tâm hồn. Phải tỉnh táo, uy dũng mà đứng lên.
Phải có niềm tin. Không còn niềm tin nơi Thượng Ðế thì
phải có niềm tin nơi chính mình. "Bất hạnh thay là
những kẻ đã mất hết niềm tin trên cuộc đời này!"
- Này, hiền đệ Kolita!
Hãy nhẫn nại! Hãy tỉnh táo! Upatissa nắm tay bạn, ân cần nói
- Tại chúng ta ngu si và bất lực chăng? "Tat Tvam Asi"
. Ngươi là cái ấy, ngươi là Ðấng ấy , Ngươi là Chân Như!
Vậy thì Thượng-Ðế-tính, đại-ngã-tính, siêu-việt-tính
ấy có sẵn trong ta. Nó ở trong ta, nhưng Cái Ấy không phải
là xác và hồn, không phải là thân thể vô tri hoặc tư tưởng
và tinh thần ranh ma quỷ quyệt! Vì hỗn mang, vì tối tăm, vì
si mê dục vọng mà chúng ta đã không thấy Ngài chăng? Chúng
ta đã tự xa Ngài chăng? Sự phẩn nộ và bất tín có lý chăng
khi chúng ta chưa tra xét bản thân cho đến tận cùng? Tồn
Tại, An Tĩnh, Tri Thức, Chân Phúc là Một. Có tri thức mà chưa
có An Tĩnh - nghĩa là còn rối loạn - thì ta chưa thể hội
nhập được với Ngài. Vệ-Ðà cũng đã từng dạy như vậy
và đệ cũng đã từng hiểu như vậy mà! Cái thuần nhất, cái
độc nhất, cái vô nhị ấy - cái ở ngoài hồn và xác ấy,
cái ở ngoài thân thể và tư tưởng ấy - là ẩn số mà ta cương
quyết phải tìm, phải bỏ hết cả cuộc đời để săn đuổi
chúng. Chúng ta chưa đi thật sự bằng hai chân của mình - nghĩa
là bằng kinh nghiệm, khổ đau trần trụi và tim huyết nóng
hổi! Chúng ta chỉ mới đi bằng đầu óc, bằng lý luận,
thẩm sát, bằng chữ nghĩa vô hồn và bằng mớ tri thức
luận nhạt nhẽo! Chúng ta cũng chớ vội khinh bỉ thánh ca, thánh
thư và thánh triết. Vì chúng chỉ là sự gợi ý, là ngón tay
chỉ mặt trăng, là chiếc chìa khóa vô hình để chúng ta tự
mở cánh cửa huyền mật của tâm linh. Bao giờ chưa mở được,
chúng ta còn ra đi. Phải cũng cố lại niềm tin, dầu là
niềm tin le lói!
Kolita đứng dậy, đôi
mắt như phủ một làn sương mỏng long lanh. Chàng đã khóc.
Sự chân thành và trung thực của lòng mình đã đẩy chàng đi
quá xa. Upatissa cũng không khác nhưng chàng đã trấn tỉnh được!
Không ai dám thú nhận
sự bất lực của mình trước đám môn sinh bởi cả hai vốn
là bậc thầy ưu tú, cao cả, minh triết trước mọi người và
trước xã hội.
Có một tiếng gọi,
một thúc bách, một kêu réo ở phía bên trong: "Hãy thật
sự lên đường đi thôi!"
--- o0o ---
Mục
lục - [01] - [02]
- [03] - [04]
- [05]
[06]
- [07]
- [08] - [09]
- [10] - [11]
--- o0o ---
| Mục lục Tác giả |
Tủ sách Phật Học
|
Chân thành
cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng tập sách này
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-04-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục