- Không sai, nhưng thầy vẫn không theo? Nó đúng,
nhưng thầy vẫn không chấp nhận?
- Ta, Sanjaya, đầu đội trời, chân đạp đất,
không bao giờ hối hận!
Mặc dầu nói cứng
vậy, nhưng khi Upatissa và Kolita đi rồi, ông thẩn thờ dạo
quanh tu viện, thấy tất cả đều vắng tanh, trống trải, ông
vô cùng cáu giận. Bây giờ ông mới hiểu sự thật: ảnh hưởng
tinh thần của Upatissa và Kolita quá lớn trong đám môn đồ
của ông; và khi hai người ra đi, không những mang theo hai trăm
năm mươi đồ chúng của họ trước đây mà còn lôi cuốn
tất cả đồ chúng của ông nữa.
Càng nghĩ, Sanjaya càng
buồn nản, tức bực; ông uất đến hộc máu tươi. Tuy nhiên,
điều mà chẳng ai ngờ đến là ông không mảy may oán hận
Upatissa và Kolita, không mảy may oán hận đám môn đồ bất
nghĩa, mà ông hận chính ông vậy. Ôi! cao cả thay mà cũng bi
đát thay!
Xế chiều, hai trăm rưỡi
đệ tử của Sanjaya không đành lòng bỏ thầy tuổi già cô
độc một mình, họ bèn trở lại.
Upatissa và Kolita cũng cám
cảnh, khuyến khích họ trở về, rồi cùng với môn đệ
nhắm hướng Trúc Lâm lên đường.
Hai
vị đại đệ tử
Sau khi Ðức Phật nhận
lời khu rừng Tre của vua Bình Sa dâng cúng; Ngài cùng với môn
đệ bộ hành đến tận nơi chiêm quan thắng cảnh Trúc Lâm
nổi tiếng. Ðức Phật đứng trên đồi cao nhìn lướt qua
một vòng. Kia là những dãy núi xanh xanh bao quanh, nọ là
những con suối trắng xóa vắt ngang, vắt dọc như giải
lụa. Từng đám cây xanh đậm nhạt ẩn trong nhau, xen kẽ
nhau; điểm giữa là những vùng lá vàng, lá đỏ đậm sắc,
nổi bật như bức tranh vẽ của con người.
Ðến gần hơn, đi
luồng vào trong rừng, thì trúc không phải là loài cây duy
nhất. Cả một rừng nhiệt đới phô bày dáng cây, dáng lá,
màu vỏ cây, màu hoa phong phú trông thật ngoạn mục. Những
con đường không biết tự bao đời ẩn hiện thấp thoáng, bò
men bờ suối, chìm khuất đâu đó lại tiếp nối dưới chân
đồi xa... Suối chảy róc rách, uốn lượn đó đây, tạo thành
vũng, thành hồ rồi bình yên lặng lẽ đi qua đám cỏ lục
xanh rì... Chim đua hót vang rân. Nai hồn nhiên gặm cỏ. Thỏ
sợ hãi nhảy vút qua nấp trong bụi rậm ... Và ô kìa! Thiên
hô vạn hát là sóc! Sóc tía, sóc đen, sóc vàng, sóc nâu, sóc
rằn ri, sóc ngũ sắc... với những cái đuôi phồng lên, với
những đôi mắt tho lỏ, rụt rè... nhìn Ðức Phật và Tăng
chúng đi qua.
Ngồi lại trên một
phiến thạch bàn, Ðức Thế Tôn nói với môn đệ:
- Này các thầy tỳ-khưu!
Giáo Pháp của Như Lai vừa xuất hiện ở trên đời như một
luồng gió mới, như tiếng sấm gióng lên trong trời mưa, nhưng
đã từ lâu lắm rồi, giáo lý truyền thống Bà la môn đã bưng
tai, bịt mắt mọi người trong phúng tụng, đàn tế và cầu
nguyện nên không dễ gì ai cũng nghe được Pháp Mầu Bất
Tử. Những tu sĩ Bà la môn đã kết hợp với nhau thành một
giai cấp đầy thế lực, nắm giữ độc quyền liên hệ với
thần linh; nắm giữ độc quyền đám ma, nghi lễ, cúng tế;
thao túng mọi sinh hoạt tinh thần, tín ngưỡng; đã dìm con người
trong mọi thứ buộc ràng, nô lệ nên thật khó xiển dương
một Giáo Pháp tôn trọng tự do, giải thoát cho con người.
Này các thầy tỳ-khưu!
Những cây cối, chim chóc, nai, thỏ, sóc, trong khu rừng Trúc Lâm
này quả thật là trù phú và thạnh mậu. Ðất, nước, không
khí trong lành này đã nuôi dưỡng nó, đã làm cho nó được
tự do phát triển và lớn mạnh. Cũng vậy, muốn đem đến an
vui và hạnh phúc cho chúng sanh thì Giáo Pháp phải có nơi làm
cơ sở! Giáo Pháp ấy phải có đất, nước, không khí trong lành
làm nhân, làm duyên hỗ trợ để nuôi nó lớn lên, nuôi nó
trưởng thành vậy.
Này các thầy tỳ-khưu!
Như Lai tuyên bố rằng: mảnh đất nầy là cơ sở đầu tiên
ấy. Tại đây, Như Lai sẽ đợi chờ nhân duyên cho Giáo Pháp
được trọn vẹn, toàn hảo. Một Giáo Pháp được gọi là
trọn vẹn, toàn hảo không phải chỉ có một mình Như Lai và
hơn một ngàn thầy tỳ-khưu như vậy.
Lời tuyên bố của Ðức
Phật, hôm ấy, Chư Tăng không hiểu hết ý nghĩa. Qua ngày hôm
sau, vua Bình Sa, thân quyến và tùy tùng tìm đến vấn an, đảnh
lễ dưới chân Ðức Phật rồi ngõ ý thỉnh Ðức Thế Tôn và
Tăng chúng an cư mùa mưa ở đây. Ðức Phật im lặng nhận
lời.
Vua Bình Sa hoan hỷ phát
tâm làm công đức, như bổn phận của vị Thánh đệ tử,
xin được kiến thiết, xây dựng toàn bộ Trúc Lâm để Ðức
Phật và Tăng chúng có chỗ để an cư.
Một vị quan đại thần
lão niên, bên cạnh vua Bình Sa kính cẩn thốt lên:
- Bạch Ðức Thế Tôn!
Ðệ tử là quan coi về thiên văn, địa lý, phong thủy. Từ lâu,
đệ tử biết rằng, đây là mảnh đất có khí tượng siêu
phàm, phi Ðức Thế Tôn và Tăng chúng - không ai ở được.
Ở đây, núi long, núi hổ, thiên tinh, đế tinh, kim tinh...
tất cả đều chầu về, qui phục. Giáo Pháp của Ðức Tôn Sư,
lấy đây làm căn cứ địa, thì Phạm Thiên, Chư Thiên, Ma vương,
Dạ-Xoa, La-Sát, Vua loài người, giáo phái chủ, giáo phái sư,
khắp nơi trong toàn cõi Châu Diêm Phù Ðề... phải qui chầu
hết thảy! Lành thay! Ðệ tử cung kỉnh chúc mừng Giáo Pháp
Vô Thượng.
Chư Tăng có vị mỉm cười,
có vị gật đầu lặng lẽ. Vua Bình Sa hỷ lạc dâng lên
bừng bừng, quát yêu người bề tôi trung tín:
- Thôi vừa rồi, thôi đủ
rồi! Ðức Thế Tôn và Tăng chúng bác học, đa văn còn biết
nhiều hơn - hơn cả vô lượng cái đầu óc nhỏ nhoi , bé tí
của tất cả ông thầy địa lý như ngươi cọng lại! Ðừng
có bép xép, múa môi cái tài phong thủy không đáng nửa đồng
xu! Mau mau cùng với đám thuộc hạ đi đo đạc, thiết kế...
chọn chỗ thích đáng để xây dựng tịnh xá cho Ðức Thế Tôn!
Rồi nơi nào là nhà giảng, nhà hội, trai phòng, tịnh phòng,
liêu thất, nhà tắm, nhà vệ sinh, rừng hoa, rừng cảnh, đường
kinh hành, rừng cây thiền duyệt... mỗi mỗi phải hoàn bị,
đầy đủ, tươm tất, tiện nghi, khang trang, thoáng mát, ấm cúng,
trang nhã! Nhưng hãy lưu ý đây: có nghệ thuật nhưng nghệ
thuật ấy phải giản dị, có công phu nhưng công phu ấy không
được rườm rà, quá tỉ mỉ. Tinh thần chỉ đạo của toàn
bộ nghệ thuật kiến trúc ở đây là: phải mới mẻ, không
được lặp lại, bắt chước từ nghệ thuật truyền thống,
cũng không được lai căng! Cao hơn nữa, đây là tài sáng
tạo của các ngươi: tinh thần nghệ thuật ấy phải toát ra
được sự êm đềm, tĩnh lặng, thanh thoát, giải thoát và
cao nhã... như chính Giáo Pháp, như là đời sống Thánh hạnh
của Ðức Thế Tôn và Tăng chúng vậy.
Và hãy nghe cho kỹ đây:
tất cả công trình xây dựng ấy phải hoàn thành trong vòng
hai tháng, trước mùa mưa! Nếu không xong, Trẫm sẽ lột mũ,
gõ đầu, đuổi về quê mà làm nghề kiến trúc và địa lý!
Quả thật là kiến
thức của một ông vua tài trí và hùng mạnh, lại là một
bậc Thánh đệ tử có bụng dạ nhân từ; nên lệnh ban ra,
vị kiến trúc sư kiêm nhà thiên văn, địa lý kia hoàn toàn vâng
phục chấp y, chẳng dám đưa ra được nửa lời góp ý.
* * *
Trúc Lâm tịnh xá đúng
là căn cứ địa đầu tiên của Phật Giáo, là nơi tiền
trạm, để từ đó, phát triển Giáo Pháp khắp các quốc độ.
Ðức Phật nhận lời an cư ba mùa mưa ở đây, ngoài ra còn
cố ý chờ đợi... hai người! Có hai người này như cánh tay
phải, cánh tay trái của Ngài, bánh xe Pháp mới được
chuyển luân xa rộng và viên mãn.
Hôm ấy Ðức Thế Tôn
đang ngồi trên bảo tọa, tam chúng (*) đoanh vây, thời Pháp
chấm dứt, Ngài nói với mọi người:
- Này các thầy tỳ-khưu!
Này hai hàng cận sự nam nữ! Như Lai đến Ma-Kiệt-Ðà không
những chỉ có nhân duyên với vua Bình Sa, là một hộ pháp đắc
lực khuông phò Giáo Hội, mà còn có ý chờ đợi một nhân
duyên khác nữa. Vậy thì hôm nay, ở đây, Như Lai sẽ tiếp
nhận thêm hai đóa hoa kỳ tuyệt, hai ngôi sao sáng, hai nhân cách
ưu tú nhất của Giáo Pháp. Nhân duyên ấy đã chín muồi, đã
tròn đủ. Các ngươi hãy nhìn xem! Hai thanh niên đạo sĩ
Upatissa và Kolita cùng hai trăm năm mươi đồ chúng đang đến
trước cửa của khu rừng.
[Ghi chú: (*) tam chúng: lúc
ấy chưa có tỳ-khưu ni]
Quả nhiên, khi Ðức
Thế Tôn vừa nói xong, Upatissa và Kolita đã vào đến tịnh xá
Trúc Lâm, theo sau là môn đệ bước đi thứ tự, trang nghiêm,
lặng lẽ.
Cả hai cung kính đến đảnh
lễ dưới chân Ðức Ðạo Sư rồi ngồi xuống một bên. Các
đệ tử đi sau cũng làm như thế, và ngồi rải rác khắp đó
đây.
Upatissa và Kolita đồng
thưa:
- Bạch Ðức Thế Tôn!
Chúng đệ tử lang thang đã lâu nay mới về được quê nhà.
Xin Ðức Thế Tôn cho chúng đệ tử thụ giáo, quy y Tam Bảo,
ở trong hàng Tăng chúng để cùng được hạnh phúc đi trên
con đường Chánh Giáo.
Ðức Phật đáp:
- Nầy các thầy tỳ-khưu!
Etha Bhikkhave! ( Hãy lại đây, tỳ-khưu!). Như Lai cũng đang đợi
chờ các ngươi. Khi Pháp Bảo đã thấy rồi, thì đời sống
còn lại của một Sa môn Thánh đệ tử là những tháng ngày
thiêng liêng và đạo hạnh trong sạch để lợi ích cho mình,
cho Chư Thiên và loài người.
Khi Ðức Thế Tôn vừa
gọi: "Etha Bhikkhave!" thì Upatissa và Kolita đã đầy đủ
y bát, tướng hảo quang minh, đúng phong độ là hai bậc thượng
thủ của Giáo Hội, và sau khi Ðức Thế Tôn nói vài lời tóm
tắt, ngắn gọn về Con Ðường, cả hai liền nắm vững căn
bản Pháp Bảo, tâm trí thông suốt.
Lại một lần nữa, cả
hai quỳ bên chân Ðức Ðạo sư với vô vàn sự tri ân cao
cả. Từ đây Upatissa được gọi tên là Xá-Lợi-Phất (Sàriputta)
và Kolita được gọi tên là Ðại Mục-Kiền-Liên (Mahà
Moggallàna).
* * *
Ngay vào buổi chiều hôm
đó, Ðức Phật cho gọi Xá-Lợi-Phất và Ðại Mục-Kiền-Liên
đến bên rồi bảo:
- Trúc Lâm tịnh xá cho
đến hôm nay đã rất đông tỳ-khưu và cũng đã rất nhiều
người đắc được quả cao nhất, như vậy, Giáo Hội tạm
thời vững mạnh. Nói tạm thời vững mạnh vì Như Lai vẫn
chưa có được người trợ thủ khả dĩ thay mặt Như Lai để
lo Phật sự, Tăng sự cùng thuyết pháp, giáo giới đến chư
tỳ-khưu cùng các hàng cận sự nam nữ!
Hiểu ý Ðức Phật, cả
hai cùng quỳ xuống. Ðại Mục-Kiền-Liên thưa:
- Xin Ðức Thế Tôn cho
đệ tử đến ngụ cư nơi một ngôi làng vắng vẻ, tịch
mịch, cũng gần đây thôi. Ðệ tử biết là phải làm gì cho
tròn bổn phận.
Ðức Phật im lặng
nhận lời rồi nói với Xá-Lợi-Phất :
- Còn ông, hãy cùng đi
với Như Lai đến một chỗ khuất tịch nhất. Cũng như Ðại
Mục-Kiền-Liên vậy, ông cũng còn một phận sự phải làm và
phải hoàn thành. Cả hai ông phải đặt bàn chân cuối cùng lên
mảnh đất Bất Tử. Ðấy cũng là ước nguyện của Như Lai!
Ðức Phật lại nói
với Ðại Mục-Kiền-Liên :
- Ông cương quyết hành
trì cho đắc đạo quả A-La-Hán, điều ấy là phải lẽ, là
xứng đáng , là việc đầu tiên cần phải làm. Tuy nhiên,
sẽ có những trở ngại trên lộ trình ấy. Khi nào khó khăn
nhất, cơ hồ không vượt qua nổi, lúc ấy Như Lai sẽ có
mặt ở một bên.
Dặn dò thế xong, Ðức
Phật dẫn Ngài Xá-Lợi-Phất ra đi. Ngài bộ hành đến một
hang động tịch liêu tên là Sakarakhatalena - tức là Ðộng
Heo, và thường ngày cùng với Ðức Xá-Lợi-Phất vào Vương-Xá
thành để khất thực. Có phải Ðức Phật muốn chỉ dạy riêng
về những điểm thâm sâu, tế nhị cho Bậc Tướng Quân Chánh
Pháp trong tương lai chăng?
Ðại Mục-Kiền-Liên sau
khi từ giã Ðức Ðạo Sư và Xá-Lợi-Phất, Ngài đến ngụ
tại ngôi làng Kallavàta, cách Vương-Xá thành không bao xa. Ngày
ngày ngoài việc khất thực, hầu hết thì giờ Ngài để dành
cho thiền định, tuệ quán, là phận sự duy nhất còn lại.
Ðúng một tuần sau, lười
biếng, hôn trầm và dễ duôi đồng loạt kéo đến, Ngài
phải ra sức kiên trì để chống chỏi. Ðức Phật biết rõ
tình trạng nầy, đã xuất hiện kịp thời để dẫn giải
cho Ðại Mục-Kiền-Liên các tầng bậc của thiền định,
những pháp che lấp cần phải vượt qua, phải chiến thắng.
Tuy nhiên, thế vẫn chưa đủ, còn có những cảm thọ vi tế
của hỷ và lạc, của xả, của thuần tĩnh nhất tâm, của
không, của thức, của tưởng... Tất cả đấy lại phải dùng
đến tuệ quán để thấy rõ. Tuyệt đối không được an trú
một pháp nào và cũng không được bỏ quên một pháp nào.
Tất cả đều phải được nhìn ngắm trong suốt, trọn vẹn,
trạm nhiên và hư tĩnh.
Do nhờ trí tuệ và tinh
tấn, không bao lâu sau, chỉ vào buổi chiều ấy thôi, Ngài đã
dễ dàng chứng quả cao nhất: A-La-Hán quả. Ðồng thời
chứng đạt luôn năm thắng trí, năm thần thông, là pháp
của bậc thượng nhân.
Từ đây, Ðại
Mục-Kiền-Liên đã đủ điều kiện để làm một vị Ðại
Ðệ Tử.
Còn Ngài Xá-Lợi-Phất
thì thường ngày hầu cận Ðức Tôn Sư mà chẳng được Ðức
Tôn Sư nhắc nhở, khuyến khích gì về đạo quả tối thượng
ấy. Trên đường đi khất thực, hoặc những khi ở trong hang
động, Ðức Ðạo Sư thường lặng lẽ, tỉnh giác, chánh
niệm, bao giờ cũng tự tại, định tĩnh như Tu-Di sơn. Thỉnh
thoảng, Ðức Phật nhập đại định rất sâu, khí an tĩnh và
hào quang tỏa sáng, dịu một vùng. Thế đấy, Ngài dường như
đang thuyết pháp vô ngôn, hiện tiền, giản dị và sống động
nhất. Năm bảy lần gì đó, Ðức Phật có nói chuyện, nhưng
nói về những điều không cao siêu gì lắm!
- Nầy Xá-Lợi-Phất! Giáo
Pháp mà Như Lai thuyết, Giáo Pháp ấy gốc nó ở đâu?
- Bạch Ðức Thế Tôn! Nó
ở Tâm!
- Nói gần hơn một chút.
- Nơi hơi thở!
- Gần hơn nữa!
- Sát-na Tâm!
Ðức Phật chẳng nói
những kiến giải đó đúng hay sai, Ngài chỉ im lặng và dường
như Ngài có mỉm cười rất nhẹ, thế thôi.
Một lần khác, trên đường
khất thực trở về, Ðức Phật nghỉ chân dưới cội cây,
nhìn ra xa với cây cảnh, đồi núi, suối khe... trước mặt,
Ngài nói:
- Này Xá-Lợi-Phất! Hãy
hướng tầm mắt ra ngoài xa kia, nơi vạn vật đang dàn trải
ra đó - ở đấy có Giáo Pháp không?
- Vâng, có bạch Ðức
Thế Tôn.
- Nó là gốc hay là
ngọn?
- Chưa thấy thì nó là
ngọn, thấy rồi nó cũng không khác gốc!
- Thấy rồi, gốc ngọn
ấy nó giống nhau ư? Nó hòa làm một ư?
- Cái nào ra cái ấy, cái
nào tính chất ấy!
Cũng như lần trước, Ðức
Phật lại im lặng, bước đi. Chốc sau, Ngài lại hỏi:
- Này Xá-Lợi-Phất! Bước
chân của Như Lai đi có Giáo Pháp, vậy bước nhảy của con
chim trên tảng đá kia có Giáo Pháp không?
- Bạch, có ạ!
- Có vì con chim tự
biết ư?
- Không! Bạch Ðức Thế
Tôn! Có, khi chính đệ tử nhìn bước nhảy ấy.
- Vậy Giáo Pháp của ngươi
thấy ấy với Giáo Pháp của Như Lai thuyết - cũng là một ư?
- Bạch, nó không hai!
Bây giờ Ðức Phật
mới quay lại nhìn Xá-Lợi-Phất, mỉm cười nhẹ:
- Ông có biết không?
Trong nhiều kiếp quá khứ, Như Lai đã từng chất vấn ông, và
ông cũng đã từng chất vấn Như Lai. Nhưng nay thì Như Lai
chỉ chất vấn ông, mà ông lại không chất vấn Như Lai!
- Bạch Ðức Thế Tôn!
Ðệ tử còn tối tăm, ngu muội; quá khứ đã bị che lấp, đệ
tử không hiểu gì. Mong Ðức Thế Tôn đại bi giáo hóa!
Im lặng giây lát, Ðức
Phật nói:
- Hãy kham nhẫn, này Xá-Lợi-Phất!
Ông là người có trí, chỉ cần vài nét đại cương là ông
sẽ hiểu ra toàn bộ. Nhưng nay chưa phải thời. Hãy kham
nhẫn!
Vậy là đúng một tuần
sau khi Ðại Mục-Kiền-Liên chứng ngộ, chợt nhiên Ðức
Phật nói với Xá-Lợi-Phất:
- Hôm nay, ông có một người
cháu, đã lớn tuổi, vượt đường xa đến thăm ông - y là
một du sĩ ngoại đạo!
- Bạch Ðức Thế Tôn! Có
lẽ đấy là đạo sĩ Dìghanakha chăng?
- Nghe nói y học vấn uyên
thâm, luận bác, tranh biện vào hàng trứ danh trong ngoại đạo?
- Bạch, quả đệ tử có
nghe như vậy! Nhưng trước đây, lúc tranh luận với y, may
mắn là đệ tử chưa từng thua cuộc!
Nói đến đây, Xá-Lợi-Phất
quỳ xuống ôm chân Ðức Ðạo Sư:
- Bạch Ðức Thế Tôn! Y
cũng là người có trí, chỉ còn rất ít bụi cát trong mắt
thôi. Xin Ðức Thế Tôn vì bi mẫn, thuyết cho y nghe một
thời Pháp về Ðạo Bất Tử!
Ðức Phật im lặng
nhận lời.
Quả nhiên, không lâu
sau, một đạo sĩ du phưong tìm đến, ân cần thăm hỏi Ðức
Xá-Lợi-Phất một cách chân tình, lễ độ.
Thấy tướng hảo quang
minh, cùng nét mặt bình an, thanh thoát của Ðức Xá-Lợi-Phất,
đạo sĩ Dìghanakha đâm ra tò mò:
-Thưa chú! Trước đây
chú khác mà bây giờ chú khác. Trước đây mỗi lần chú cháu
ta tranh luận với nhau, nơi vầng trán cao của chú dường như
cau lại, nơi đôi mắt sắc bén, đầy khí lực của chú dường
như có gợn một thoáng mờ như hơi sương! Bây giờ thì không
vậy, nó sáng rỡ, mênh mông, và tỏa hào quang nữa!
Ðức Xá-Lợi-Phất mỉm
cười, nhìn người cháu lớn tuổi, học thức cao rộng mà tính
khí hồn nhiên, cởi mở và chân thực, lòng Ngài tràn đầy
thương mến.
Ðạo sĩ Dìghanakha đi
lui đi tới, hít thở, lắng nghe rồi nói:
- Thật là kỳ lạ! Không
phải chỉ ở nơi chú, mà xung quanh đây cũng vậy, dường như
toát ra sự bình an, mát mẽ và thanh khiết. Cái ấy không
chỉ cảm nhận mà còn sờ được, ngửi được, nghe được!
Tại sao kỳ lạ vậy chứ!
Ðức Xá-Lợi-Phất tự
nghĩ: "Cái ấy có được - có lẽ nhờ năng lực của Ðức
Tôn Sư!"
Chợt nhiên đạo sĩ Dìghanakha
quay lại:
- Thưa chú! Chẳng hay chú
đang sống trong một Giáo Pháp như thế nào mà sớm được thành
tựu pháp mầu như vậy?
Ðức Xá-Lợi-Phất ân
cần nắm tay đạo sĩ :
- Này cháu! Khi Ðức Tôn
Sư đã có mặt trên đời, nhất là khi Ðấng Vô Thượng
lại đang ở đây; thì cho dầu ít lời, ít chữ, ít câu của
Ngài thôi cũng sẽ đem đến cho cháu Niềm Vui Bất Tử! Ta là
gì mà dám nói Pháp Bảo trước Ðức Tôn Sư!
Ðức Phật xuất hiện
từ cửa động phía sau bước lại. Dìghanakha nhìn sững.
Tất cả từ nơi Ngài toát ra, cho dù vua của đỉnh Hy mã
lạp sơn kia cũng phải cúi đầu xuống thấp. Dìghanakha cung
kỉnh đảnh lễ dưới chân Ðức Thế Tôn. Sau đó Ðức
Phật thuyết kinh Vedanà Parigaha - tức là bài kinh nói về các
trạng thái của Tâm cho đạo sĩ Dìghanakha nghe. Xong thời Pháp,
đạo sĩ đắc quả Tu-Ðà-Hườn.
Ðức Xá-Lợi-Phất hầu
sau lưng Ðức Phật, nhờ để tâm chuyên chú vào thời Pháp nên
đắc quả A-La-Hán với bốn Tuệ Phân Tích.
Như vậy, với sự thành
tựu tri thức tối thượng, tuệ tối thượng, Ðức Xá-Lợi-Phất
từ đây cũng đã đầy đủ điều kiện để làm một Ðại
Ðệ Tử nữa.
Biết người đệ tử
của mình đã làm xong xuôi bổn phận cuối cùng - cũng như Ðại
Mục-Kiền-Liên đã xong xuôi quả vị cách đây một tuần
lễ, Ðức Phật, ngay lúc
ấy, chợt đứng lên:
- Này Xá-Lợi-Phất! Bây
giờ hãy cùng Như Lai lên đường trở về Trúc Lâm tịnh xá.
Chúng ta còn nhiều việc phải làm!
Ðến đây thì Ðức Xá-Lợi-Phất
chợt hiểu: "Ðúng là cái thấy biết vi diệu của Bậc
Toàn Tri Diệu Giác. Là phàm nhân, cho dầu một vị Thánh
A-La-Hán cao nhất cũng khó hiểu được những diễn biến,
những ý nghĩ, những tri kiến, những dự định trong tâm
của một vị Phật.
Té ra, Ðức Thế Tôn đột
ngột rời Trúc Lâm tịnh xá đến hang động này cũng chỉ để
thành tựu cho mình quả vị cuối cùng. Té ra, Ðức Thế Tôn
chỉ nói vắn gọn vài lời gợi ý cho Ðại Mục-Kiền-Liên cũng
là để thành tựu cho Ðại Mục-Kiền-Liên quả vị A-La-Hán
nơi ngôi làng tịch mịch , thanh vắng nọ. Quả thật, các
vị Phật xuất hiện ở đời, một biểu hiện nhỏ của các
Ngài, qua thân, qua khẩu, qua ý, bao giờ cũng toàn thiện, toàn
chân, toàn mỹ; lúc nào cũng lợi lạc cho quần sanh."
Ngay chiều hôm đó, tại
Trúc Lâm tịnh xá, Ðức Thế Tôn bố cáo một cuộc họp
rộng rãi, đầy đủ hơn một ngàn thầy tỳ-khưu cùng những
cư sĩ tại gia, rồi Ngài nói rằng:
- Trước đầy đủ Chư
Tăng, đầy đủ hai hàng cư sĩ áo trắng, Như Lai muốn tuyên
bố một tin quan trọng cho Giáo Pháp, để từ đó Giáo Pháp
mới có thể phát triển vững mạnh, lan xa nhiều quốc độ:
là từ đây, Như Lai đã có hai vị Ðại Ðệ Tử, là Trưởng
tử của Như Lai , là con được sinh ra từ miệng của Như Lai
- đó là Xá-Lợi-Phất và Ðại Mục-Kiền-Liên. Xá-Lợi-Phất
là Ðệ Nhất Ðại Ðệ Tử, Mục-Kiền-Liên là Ðệ Nhị Ðại
Ðệ Tử. Họ sẽ là hai cánh tay trợ thủ đắc lực cho Như
Lai , được quyền thay mặt Như Lai giải quyết tất cả mọi
lĩnh vực thuộc về Phật sự hay Tăng sự. Xá-Lợi-Phất và
Ðại Mục-Kiền-Liên quả thật xứng đáng là Thượng Thủ
của Giáo Hội. Như Lai trân trọng tuyên bố như vậy.
Ðức Phật vừa nói
xong, đại chúng xôn xao bàn tán. Có nhiều tranh luận nho nhỏ
đã xảy ra. Người ta không hiểu tại sao Ðức Thế Tôn không
dành danh dự tối cao này cho các vị tỳ-khưu Trưởng lão,
cao hạ như nhóm năm Ngài Kiều Trần Như, như nhóm Ngài Yasa?
Hoặc như nhóm ba mươi vị tỳ-khưu ở Chư-Thiên-Ðọa-Xứ?
Thảng hoặc là nhóm ba anh em Ngài Ca-Diếp, có cả ngàn đồ
chúng, tuổi cao, đức trọng - có thể là xứng đáng nhất bước
vào hàng thượng thủ của Giáo Hội?
Còn Ðức Xá-Lợi-Phất
và Ðại Mục-Kiền-Liên - mặc dầu được Ðức Thế Tôn tuyên
bố là "con của Như Lai", tức là đã chứng quả
A-La-Hán - nhưng họ đều là người trẻ tuổi, lại chỉ gia
nhập Giáo Hội vừa đúng nửa tháng!
Vậy có thể nào, Ðức
Thế Tôn, bậc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác lại có tâm
thiên vị?
Ðức Phật hướng tâm
đến, biết tâm của đại chúng, Ngài nói rằng:
- Này các thầy tỳ-khưu!
Như Lai không hề thiên vị. Như Lai làm như vậy là hoàn toàn
do sự thấy, sự biết của Như Lai .
Hãy nghe đây, các thầy
tỳ-khưu! Quả thật năm ông Kiều Trần Như tuổi tác cao
trọng, là những bậc trí thức, trí tuệ, hạ lạp cao nhất,
rất xứng đáng vào hàng thượng thủ. Tuy nhiên, ở một
kiếp trước, khi họ bố thí vật thực chín lần trong mùa
gặt, họ không có nguyện vọng trở thành đại đệ tử.
Họ chỉ phát nguyện bước vào Giáo Pháp của Như Lai đầu
tiên và chứng được phẩm hạnh cao nhất. Giờ đây họ đã
mãn nguyện. Ðiều đó có đúng sự thật không, hỡi nhóm ông
Kiều Trần Như?
Nhóm các Ngài Kiều
Trần Như đồng bước ra, quỳ xuống đảnh lễ dưới chân
Ðức Phật, bạch rằng:
- Quả đúng như vậy,
Bạch Ðức Tôn Sư! Phẩm hạnh cao nhất và đầu tiên chính là
phát nguyện của chúng đệ tử.
Ðức Phật im lặng một
lát rồi tiếp:
- Còn rất nhiều vị
A-La-Hán khác xứng đáng vào hàng thượng thủ nữa, như nhóm
ông Yasa, nhóm các ông ở Chư-Thiên-Ðọa-Xứ, nhóm các ông
Ca-Diếp. Nhưng họ cũng vậy, trong họ, không ai đã từng phát
nguyện làm đại đệ tử cả, có phải thế không?
Dường như có một số
vị Thánh im lặng nhắm mắt, hướng tâm về quá khứ, sau đó,
Ngài Ca-Diếp, thay mặt mọi người, bạch:
- Quả đúng như vậy! Thưa
Ðức Tôn Sư!
Khi việc quá khứ không
còn bị che lấp bởi sự tiết lộ của chư Thánh Tăng, nhất
là sự xác nhận của Ngài Ca-Diếp, bậc đạo cao đức
trọng, đại chúng đều hoan hỷ.
Ðức Phật lại tiếp:
- Còn hai ông Xá-Lợi-Phất
và Ðại Mục-Kiền-Liên, trong vô lượng quá khứ, vào thời
Ðức Phật Anomadassi, họ sinh ra làm một người Bà la môn có
tên là Sàrada, và một người làm điền chủ có tên là
Sirivaddhaka - nguyện vọng của họ là trở thành đại đệ
tử khi gặp Ðức Phật trong kiếp cuối cùng.
Vậy này các thầy
tỳ-khưu! Như Lai không hề thiên vị! Như Lai vì thấy, vì
biết, nguyện vọng của mỗi người - nên bây giờ, chỉ
trả lại phẩm vị cho họ, đúng với nguyện vọng của họ
mà thôi!
Ðại chúng thở phào,
nhẹ nhõm.
Một Ðức Thế Tôn,
một Bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác khi tuyên bố một lời nào là
đều có nhân, có quả, đều vì lý do chánh đáng, đều vì
lợi ích lâu dài, hạnh phúc cho nhiều người.
Từ đây, Ðức Xá-Lợi-Phất
và Ðức Ðại Mục-Kiền-Liên nhận lãnh vai trò và trách
nhiệm mới trong việc phục vụ Giáo Hội, làm Ðại Ðệ Tử
đã được Ðức Tôn Sư tấn phong với tất cả uy tín và
danh dự cao trọng trước đại chúng môn đồ.
--- o0o ---
Mục
lục - [01] - [02]
- [03] - [04]
- [05]
[06]
- [07]
- [08] - [09]
- [10] - [11]
--- o0o ---
| Mục lục Tác giả |
Tủ sách Phật Học
|
Chân thành
cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng tập sách này
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-04-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục