Hạnh
nhẫn
nhục
Có
một
nhóm
tỳ-khưu
ở
Kìtagiri
tỏ
vẻ
coi
thường
các
học
giới
của
Ðức
Ðạo
Sư
do
Ðại
Ðức
Assaji
(không
phải
thầy
của
Ngài
Xá
Lợi
Phất)
và
Ðại
Ðức
Punnabhasuka
dẫn
đầu,
thế
là
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
và
Ðại
Mục-Kiền-Liên
lại
phải
lên
đường.
Ðến
nơi,
hai
Ngài
lặng
lẽ
lắng
nghe,
dường
như
ai
cũng
có
cái
lý
của
mình
cả.
Tuy
nhiên,
sau
đó
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
đã
gạt
những
cái
lý
ấy
qua
một
bên
rồi
kiên
nhẫn,
ôn
hòa,
từ
tốn
phân
tích
cái
nào
là
đúng
pháp,
đúng
luật,
cái
nào
là
không
đúng
pháp,
không
đúng
luật.
Ðúng
pháp,
đúng
luật
thì
đem
đến
hạnh
phúc
cho
mình
và
người.
Không
đúng
pháp
và
luật
thì
đem
đến
xáo
trộn,
bất
hòa,
khổ
đau
cho
mình
và
cho
người.
Trí
tuệ
của
hai
vị
Ðại
Ðệ
Tử
quả
đã
như
một
ngọn
đèn
sáng
soi
rọi
vào
chỗ
tối
tăm,
làm
cho
những
kẻ
có
lỗi
tự
thấy
rõ
cái
lỗi
của
mình.
Khi
phân
xử
xong,
các
vị
tỳ-khưu
sai
trái
tự
xin
nhận
lấy
hình
phạt
để
tự
răn
mình,
có
vị
tình
nguyện
về
nhà,
có
vị
xin
sám
hối
và
nguyện
chừa
cải.
Sau
khi
từ
giã,
cả
hội
chúng
tỳ-khưu
ở
Kìtagiri
đều
nhìn
theo
với
đôi
mắt
đầy
cảm
phục.
Vì
vậy,
danh
tiếng
của
hai
vị
Ðại
Ðệ
Tử
càng
lúc
càng
vang
dội.
Về
tịnh
xá,
hai
Ngài
vào
đảnh
lễ
Ðức
Tôn
Sư,
kể
lại
kết
quả
công
việc
của
mình.
Ðức
Thế
Tôn
thấy
sự
phân
xử
sáng
suốt,
có
lý
có
tình,
lại
đặt
căn
bản
trên
tinh
thần
tự
giác
nên
Ngài
tán
thán
trước
hội
chúng
không
tiếc
lời.
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
tự
nghĩ:
"-
Nơi
nào
được
khen
thì
nơi
đó
sẽ
bị
chê.
Nơi
nào
có
yêu
mến,
kính
trọng
thì
sẽ
có
người
ganh
tị,
ganh
ghét
và
đố
kỵ.
Ta
hãy
biết
trước
những
pháp
tương
quan
phát
sanh
như
vậy."
Khi
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
bước
ra
thì
gặp
Trưởng
lão
Channa
(Sa-Nặc)
với
cái
nhìn
không
được
thân
thiện.
Trưởng
lão
Channa
ngó
lên
trời,
chấp
tay
sau
lưng,
nói
to,
nói
trống
không:
-
Kể
từ
độ
tôi
ra
đi
với
Ðức
Ðạo
Sư
cao
quý
của
tôi,
làm
một
cuộc
từ
bỏ
vĩ
đại
-
khi
ấy,
các
ông
ở
đâu?
Các
ông
ở
đâu
chui
ra
mà
bây
giờ
vỗ
ngực
tự
xưng
là
Ðại
Ðệ
Tử,
hả?
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
im
lặng.
Trưởng
lão
Channa
nói
tiếp:
-
Bám
sau
đuôi
của
con
ngựa
Kiền
Trắc,
vượt
qua
sông
A-Nô-Ma
mênh
mông
sóng
dữ,
thế
mà
tôi
không
hề
sợ
hãi.
Nhưng
bây
giờ
đi
đâu,
quốc
độ
này
sang
quốc
độ
kia,
thị
trấn
này,
làng
mạc
nọ...
Ở
đâu
cũng
nghe
người
ta
nhắc
đến
Xá
-Lợi-Phất
Ðại
Ðệ
Tử,
Mục-Kiền-Liên
Ðại
Ðệ
Tử...!
Ôi!
Quả
thật
cái
danh
kia
làm
tôi
sợ
hãi
vô
cùng!
Ngay
khi
ấy,
một
giọng
phạm
âm
trầm
hùng
như
sấm
dội
từ
Ðại
Giảng
Ðường
vọng
ra:
-
Channa!
Ông
hãy
vào
đây,
Như
Lai
bảo!
Ðức
Thế
Tôn
kêu
Trưởng
lão
Channa
vào
khuyên
răn,
la
rầy
đấy
là
ác
tri,
ác
kiến.
Channa
im
lặng
tỏ
vẻ
nhận
lỗi,
nhưng
sau
đó,
bất
cứ
đâu,
hễ
gặp
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
và
Ðại
Mục-Kiền-Liên
là
không
ngớt
lời
lăng
mạ,
phỉ
báng:
-
Xuất
thân
từ
giống
dòng
ngoại
đạo,
chân
ướt
chân
ráo
đến
Giáo
Hội
này
mà
làm
oai
làm
phách,
cứ
đóng
vai
như
Trưởng
lão
một
trăm
hạ
không
bằng!
-
Ðại
Ðệ
Tử
gì
chúng
nó.
Cái
vẻ
mặt
lúc
nào
cũng
giả
bộ
nghiêm
trang,
từ
hòa,
nhẫn
nhục...
Ngó
mà
ghét!
Ðược
Tăng
chúng
kể
lại,
lần
thứ
hai,
lần
thứ
ba
-
Ðức
Thế
Tôn
lại
kêu
Channa
đến
và
dạy
bảo:
-
Này
Channa,
ông
nên
nhớ
rằng
hai
vị
Ðại
Ðệ
Tử
của
Như
Lai
là
những
người
bạn
tốt,
tốt
nhất
trên
nhân
loại
này.
Ðược
làm
bạn
với
họ
là
hạnh
phúc
vô
cùng,
an
vui
và
lợi
lạc
vô
cùng.
Tuy
thế,
như
nước
đổ
đầu
vịt,
Trưởng
lão
Channa
vẫn
chứng
nào
tật
ấy.
Ðức
Thế
Tôn
quán
căn
cơ,
Ngài
biết,
bèn
nói
với
Ngài
Ànanda:
-
Này
Ànanda!
Không
ai
có
thể
khuyên
dạy
Channa
được
đâu.
Khi
trái
cây
đang
còn
xanh
thì
không
ai
có
khả
năng
bảo
trái
cây
kia
chín
được
cả.
Cũng
vậy,
khi
nào
cần
thiết,
ông
hãy
thay
mặt
Như
Lai
giáng
xuống
cho
Channa
một
hình
phạt
gọi
là
Brahmadanda
-
tức
là
cấm
không
cho
ai
giao
tiếp,
nói
chuyện
với
Channa
cả.
Chỉ
khi
ấy
Channa
mới
được
lợi
ích,
chính
nhờ
vậy
mà
Channa
sẽ
đắc
được
đạo
quả
A-La-Hán
cùng
với
những
thắng
trí
trước
khi
lâm
chung.
Khi
nghe
lời
Ðức
Thế
Tôn
dạy
Ðại
Ðức
Ànanda
như
vậy,
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
hướng
tâm
đến,
thấy
rằng:
"Kẻ
mà
hằng
lăng
mạ
ta
đây,
khi
sắp
chết
bị
căn
bệnh
dày
vò
đau
đớn
thì
chính
ta
đã
cùng
với
Trưởng
lão
Mahà
Cunda
đến
thăm,
tìm
thuốc
men
và
vật
thực
thích
hợp
cho
y.
Sau
đó,
y
quyết
định
chấm
dứt
mạng
sống
và
Niết
Bàn
luôn
tại
chỗ."
*
*
*
Xung
quanh
Kỳ
Viên
tịnh
xá
và
cả
thành
Xá-Vệ
người
ta
bàn
tán
nhiều
về
những
đức
tính
cao
thượng
của
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất.
Người
ta
bảo
rằng,
Tôn
giả
là
người
đã
làm
chủ
hoàn
toàn,
đầy
đủ
các
trạng
thái
tâm
vô
lượng
từ,
bi,
hỷ,
xả;
là
người
không
còn
ngã
mạn,
kiêu
căng,
không
còn
tham
ái,
đố
kỵ,
bất
bình,
nóng
giận...
Có
một
ông
Bà
la
môn
gia
chủ
đi
ngang
qua,
nghe
được,
chỏ
miệng
vào:
-
Ai
là
người
không
còn
nóng
giận
đâu,
chỉ
cho
tôi
coi
nào?
Mọi
người
bảo:
-
Ðó
là
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất,
Ðại
Ðệ
Tử
của
Ðức
Phật.
-
À!
Có
phải
là
cái
ông
độ
nọ
cùng
đến
đây
với
trưởng
giả
Cấp
Cô
Ðộc
xây
dựng
tịnh
xá
đó
phải
không?
-
Chính
vị
ấy.
Ông
Bà
la
môn
gia
chủ
kia
mỉm
cười:
-
Các
bạn
lầm
rồi.
Không
nóng
giận
là
vì
không
có
ai
khiêu
khích,
chọc
tức.
Ðã
là
con
người
trên
đời
này
thì
ai
cũng
có
lúc
phải
nóng
giận
cả,
không
nóng
giận
là
đồng
với
gỗ,
đá,
đất,
cát
sao?
Nếu
mà
gặp
tay
tôi,
tôi
sẽ
làm
cho
ông
Xá
Lợi
Phất
ấy
nóng
giận
cho
các
bạn
xem!
Tôi
rất
sành
về
phương
cách
chọc
giận
người
ta
mà!
Ông
Bà
la
môn
nói
huyên
thuyên
vậy,
nhưng
cách
chọc
giận
của
ông
ta
cũng
bình
thường:
ông
rình
khi
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
đang
đi
khất
thực
trên
đường
phố,
bất
thần
từ
phía
sau,
ông
lấy
gậy
đánh
lên
lưng
Ngài
một
cái
rất
mạnh.
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
bất
cứ
đâu,
bất
cứ
lúc
nào
Ngài
cũng
chánh
niệm,
tỉnh
giác,
đôi
lúc
Ngài
trú
"không
định"
-
nên
cái
đánh
kia
không
ảnh
hưởng
gì
tới
Ngài.
Vẫn
với
bước
chân
chậm
rãi,
từ
tốn,
với
đôi
mắt
thản
nhiên,
thanh
bình
-
Tôn
giả
vẫn
không
hề
quay
lại.
Cảm
thấy
vô
cùng
hối
hận,
ông
Bà
la
môn
quăng
gậy,
quỳ
mọp
xuống
dưới
chân
Tôn
giả
để
tạ
tội.
Ngài
ngạc
nhiên,
dịu
dàng
hỏi:
-
Có
gì
vậy
hở
ông
Bà
la
môn?
Hãy
đứng
lên
rồi
nói
chuyện.
-
Vì
muốn
thử
lòng
nhẫn
nhục
của
Ngài,
vì
muốn
xem
Ngài
có
nổi
nóng
không
nên
tôi
đã
mạo
phạm
lấy
gậy
đánh
Ngài.
Xin
Ngài
tha
thứ
tội
lỗi
cho
tôi.
-
Ðược
rồi!
Vậy
là
ta
đã
tha
thứ
cho
ông
rồi!
-
Nếu
Ngài
tha
thứ
cho
tôi
thì
bắt
đầu
từ
bây
giờ,
xin
Ngài
hãy
đến
nhà
tôi
khất
thực
để
cho
tôi
được
dịp
cúng
dường.
Nói
xong,
ông
Bà
la
môn
cúi
đầu,
cung
kính
nâng
cái
bát
của
Tôn
Giả,
Tôn
giả
cũng
nhẹ
nhàng
thuận
trao
cho,
rồi
đi
theo
ông
ta
về
nhà.
Cả
khu
phố
bu
quanh,
chứng
kiến
tận
mắt
một
câu
chuyện
đẹp
mắt:
kẻ
chọc
giận
người
lại
được
người
nhiếp
phục!
Thế
nhưng,
chuyện
đến
tai
cận
sự
nam
nữ
trong
thành
phố
lại
khác:
có
một
ông
Bà
la
môn
tên
vậy,
tên
kia,
ở
khu
phố
nọ,
đã
dùng
gậy
đánh
Ngài
Xá
Lợi
Phất
bị
thương
nặng!
Không
mấy
lúc,
cả
hàng
chục
người
với
gậy
và
đá
cầm
tay
đến
bao
vây
căn
nhà
của
ông
Bà
la
môn
với
quyết
tâm
là
giết
chết
kẻ
hung
ác.
Nghe
xôn
xao,
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
bước
ra,
ông
Bà
la
môn
hai
tay
trịnh
trọng
ôm
bát
theo
sau.
Nhóm
cận
sự
nam
nữ
la
lên:
-
Bạch
Ngài!
Ngài
có
sao
không?
-
Thưa
Tôn
Giả!
Tôn
giả
hãy
đứng
qua
một
bên.
-
Ông
Bà
la
môn
hung
ác
kia!
hãy
bước
ra
đây!
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
nhìn
mọi
người,
hỏi:
-
Này
các
đạo
hữu!
Này
các
cư
sĩ
tại
gia!
Có
chuyện
gì
vậy?
Họ
trả
lời:
-
Tên
Bà
la
môn
đê
tiện,
độc
ác
kia
đã
dùng
gậy
đánh
Ngài,
đánh
lén
sau
lưng
khi
Ngài
đi
trì
bình
khất
thực.
-
Chúng
con
đến
đây
là
để
trị
tội
đích
đáng,
hắn
đã
xâm
phạm
đến
Trưởng
lão,
bậc
thầy
nhân
ái
của
chúng
con.
-
Dùng
gậy
trả
lại
gậy.
Hãy
đánh
cho
chết
hắn
ta!
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
mỉm
cười
cho
đám
đông
yên
tâm,
xua
tay
rồi
nói:
-
Các
đạo
hữu
hãy
an
tâm!
Một
chuyện
hiểu
lầm
nho
nhỏ
thôi
-
Bạch
Ngài!
Nhưng
chính
Ngài
đã
bị
đánh!
-
Ðúng
vậy!
Ông
ta
đánh
bần
đạo
chớ
có
đánh
các
đạo
hữu
đâu.
Và
ông
ta
đã
sám
hối.
Ta
cũng
đã
chấp
nhận
sự
sám
hối
ấy
rồi.
Các
ngươi
xem!
Ông
ta
đã
ôm
bát
một
cách
kính
cẩn
sau
khi
đã
cúng
dường
vật
thực
cho
ta!
Từ
rày
hãy
coi
ông
ta
như
một
bạn
đạo.
Ðám
đông
nhìn,
thấy,
hiểu
tự
sự
-
nên
họ
đã
tự
động
giải
tán.
-
Noi
gương
hỷ
xả
của
Trưởng
lão
-
chúng
tôi
tha
thứ
cho
cái
mạng
của
ông
đấy,
ông
Bà
la
môn.
Ráng
mà
tu
hành
cho
đàng
hoàng!
Ông
Bà
la
môn
sợ
quá,
lắp
bắp:
-
Vâng,
vâng,
tôi
sẽ
đàng
hoàng!
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
thản
nhiên,
ôm
bát
lặng
lẽ
trở
về
Kỳ
Viên
tịnh
xá.
Tối
đến,
trên
pháp
tòa,
câu
chuyện
ấy
được
Ðức
Thế
Tôn
kể
lại
để
giáo
giới
cho
đại
chúng.
Ai
cũng
tấm
tắc
khen
ngợi
đức
hạnh
nhẫn
nhục
vô
song
của
tôn
giả
Xá-Lợi-Phất.
*
*
*
Hôm
nọ,
cuối
mùa
mưa,
sau
khi
an
cư
xong,
một
số
rất
đông
tỳ-khưu
đến
chào
từ
giã
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
để
lên
đường.
Theo
thông
lệ,
Ngài
hay
ưu
ái
gọi
các
vị
tỳ-khưu
bằng
tên
của
gia
đình
họ
đặt,
gọi
tên
theo
giới
hạnh
hoặc
pháp
hạnh
của
vị
ấy.
Ví
dụ:
-
Này
hiền
giả
Mangalo!
Hiền
giả
an
vui
chứ?
-
Này
con
của
bà
Dhanì!
Có
khỏe
không?
-
Vị
Ðại
Hoan
Hỷ
đây
rồi!
-
Ðại
Ðức
Tinh
Thông
Tạng
Luật
đây
rồi!
-
Thượng
Tọa
Ðộc
Cư
Khổ
Hạnh
đây
rồi!
v.v...
Thấy
Tôn
Giả,
Bậc
Tướng
Quân
Chánh
Pháp
niềm
nở,
vui
vẻ,
thân
tình
với
tất
cả
mọi
người
như
vậy,
ai
cũng
hoan
hỷ,
ai
cũng
cảm
thấy
mình
được
quan
tâm,
được
biết
tiếng.
Và
họ
hãnh
diện
về
điều
đó.
Có
một
vị
tỳ-khưu
trẻ,
mà
hoàn
toàn
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
thấy
lạ
hoắc,
không
biết
gọi
tên
sao,
nên
Ngài
đành
phải
bỏ
qua.
Nhưng
vị
tỳ-khưu
ấy
không
bỏ
qua,
cảm
thấy
buồn,
cảm
thấy
bực
tức,
bất
mãn,
tự
nghĩ:
"-
Ngài
khinh
thường
ta,
coi
thường
ta,
Ngài
đã
thiên
vị,
đã
không
đối
xử
thân
thiện
với
ta
như
những
vị
khác."
Bất
đồ,
lúc
ấy
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
đứng
dậy,
bước
qua,
chéo
y
của
Ngài
phất
đụng
vị
tỳ-khưu
trẻ
nọ.
Lòng
bất
mãn
càng
tăng,
vị
tỳ-khưu
trẻ
qua
Ðại
Giảng
Ðường
bạch
Phật:
-
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
khi
không
Ngài
lại
đánh
con!
Chắc
hẳn
Tôn
giả
ấy
nghĩ
rằng
mình
là
một
Ðại
Ðệ
Tử
oai
phong
lẫm
liệt
nên
muốn
làm
gì
thì
làm
sao!
Xin
Ðức
Thế
Tôn
hãy
phân
xử
cho
công
minh.
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
đã
đánh
con
một
bạt
tai
-
đến
nổi
tai
con
như
bị
bỏng,
bị
điếc!
Sau
khi
làm
vậy
rồi,
Ngài
chẳng
tỏ
vẻ
gì
là
hối
lỗi,
thản
nhiên
bước
đi
không
thèm
đếm
xỉa
gì
con
cả!
Xin
Ðức
Thế
Tôn
hãy
phân
xử,
oan
con
lắm!
Tăng
chúng
được
uy
tụ
trở
lại
Ðại
Giảng
Ðường.
Câu
chuyện
đuợc
lan
truyền
rất
nhanh
qua
miệng
của
nhiều
người.
Lúc
ấy
Ðại
Mục-Kiền-Liên
và
Tôn
giả
Ànanda
biết
rõ
là
đã
có
một
sự
cáo
oan
xảy
ra
cho
huynh
trưởng
của
mình.
Nhưng
không
sao,
cả
hai
Tôn
giả
đều
rất
vui,
đã
tuyên
bố
trước
hội
chúng
tỳ-khưu
của
mình:
"-
Này
chư
hiền!
Hãy
cố
gắng
tụ
họp
ở
Ðại
Giảng
Ðường
cho
đông
đủ!
Hãy
đến
đấy
và
nghe!
Khi
sư
huynh
của
ta,
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
mà
đối
diện
với
Ðức
Bổn
Sư
rồi
-
chư
hiền
mới
cảm
nhận
được
thế
nào
là
tiếng
gầm
của
con
sư
tử."
Trước
cả
hàng
ngàn
tỳ-khưu
có
mặt,
Ðức
Thế
Tôn
hỏi:
-
Này
Xá
Lợi
Phất!
Có
phải
như
vậy
chăng,
ông
đã
thô
bạo
đánh
vị
tỳ-khưu
này
một
bạt
tai
làm
điếc
cả
lỗ
tai
rồi
bỏ
đi
không
thèm
đếm
xỉa
đến?
Mọi
người
hồi
hộp
trước
lời
chất
vấn
của
Ðức
Ðạo
Sư.
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
chẳng
chấp
nhận
cũng
chẳng
chối
từ
tội,
Ngài
cất
giọng
trầm
hùng
vang
vang
như
chuông
ngân:
-
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Khi
một
thiện
gia
nam
tử
xuất
ly
cần
cầu
an
ổn
mọi
khổ
ách,
y
đã
từ
bỏ
gia
sản,
vinh
hoa
phú
quý
-
thì
đối
với
y
chỉ
có
một
mục
đích
duy
nhất
là
giải
thoát
mọi
khổ
đau
trên
trần
thế.
Khi
một
Sa
môn
tấn
tu
phạm
hạnh,
đã
đứng
vững
chắc
trong
đạo
quả,
kẻ
ấy
hoàn
toàn
làm
chủ
được
chính
mình,
hoàn
toàn
với
tứ
vô
lượng
tâm:
tư,
bi,
hỷ,
xả.
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Những
người
như
vậy
có
thể
nào
làm
đau
đớn
đồng
đạo
của
mình
mà
bỏ
đi
thản
nhiên
không
một
lời
xin
lỗi.
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Một
người,
khi
mà
trong
tâm
không
còn
sân
hận,
ác
độc,
hiềm
hại
ai,
kẻ
ấy
bao
giờ
cũng
có
được
đức
tính
trầm
lặng,
khiêm
nhu,
nhẫn
nại...
tâm
vị
ấy
như
mặt
đất,
mặc
cho
ai
chà,
ai
đạp,
ai
bước
tới,
bước
lui,
quăng
lên
đấy
tất
cả
mọi
dơ
uế
bất
tịnh,
ai
đại
tiện,
tiểu
tiện
lên
đấy
cũng
được
hết!
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Một
người,
khi
mà
tự
coi
tâm
mình
như
nước,
thì
nước
ấy
mặc
tình
ai
uống,
ai
tắm,
ai
rửa
đồ
dơ
dáy,
nước
ấy
cũng
không
vui,
không
buồn,
vẫn
bình
lặng
và
an
nhiên!
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Một
người,
khi
mà
tự
coi
tâm
mình
như
lửa,
thì
lửa
ấy
mặc
tình
người
ta
thắp
để
cúng,
để
thờ,
mặc
tình
người
ta
lấy
để
đốt
tử
thi,
nấu
ăn,
đốt
cỏ
rác,
đốt
đồ
dơ
uế,
lửa
ấy
cũng
chẳng
vui,
chẳng
buồn,
vẫn
bình
lặng
và
an
nhiên!
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Một
người,
khi
mà
tự
coi
tâm
mình
như
gió,
thì
gió
ấy
đâu
phải
vì
qua
tha
ma,
mộ
địa
mà
chồn
chân;
gió
ấy
đâu
phải
vì
qua
chỗ
phú
quý,
cao
sang
mà
dừng
lại?
Dơ,
sạch
gió
ấy
không
phân
biệt;
buồn,
vui
gió
ấy
có
biết
đâu.
Muôn
đời
nó
vẫn
bình
lặng
và
an
nhiên
như
thế!
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Một
người,
khi
đã
tự
coi
mình
như
miếng
vải
chùi
chân,
thì
ai
chùi
chân
cũng
được
cả,
nó
chẳng
bao
giờ
phàn
nàn
sao
lau
vật
này
mà
không
lau
vật
kia!
Miếng
vải
chùi
chân
là
cái
thân
của
vị
ấy,
cái
tâm
của
vị
ấy,
ở
chỗ
dơ
uế
nhất
nào
dám
khinh
khi
ai,
ác
ý
với
ai,
sân
hận
với
ai?
Không!
Bao
giờ
nó
vẫn
như
vậy,
bình
lặng
và
an
nhiên!
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Một
người,
khi
đã
tự
coi
mình
như
một
hạng
người
thấp
kém
nhất
trong
xã
hội,
như
một
gã
chiên-đà-la
cùng
đinh,
hạ
liệt,
thì
ai
muốn
đánh,
muốn
chửi;
cho
chí
họ
có
giết
chết
cũng
vô
tội,
người
đó
luôn
luôn
ý
thức
giá
trị
thấp
hèn
của
mình
dầu
có
bị
đối
xử
thế
nào,
vẫn
không
than
van
bao
giờ!
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Một
người,
khi
đã
tự
ví
mình
như
một
con
bò
rụng
sừng,
thì
nó
rất
sợ
đụng
chạm
đến
vật
cứng,
nó
không
bao
giờ
dám
gây
hấn
với
ai,
báng
húc
ai.
Sống,
nó
muốn
thu
rút
cái
sừng
của
mình
lại,
đó
là
cái
thân
của
vị
ấy,
cái
tâm
của
vị
ấy!
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Một
người,
khi
đã
tự
ví
mình
như
con
rắn
mang
cái
xác
nặng
nề,
trườn
tới
trườn
lui
không
ra
khỏi
cái
xác.
Cũng
vậy,
người
ấy
đã
tự
thấy
rõ
cái
thân
này
gồm
ba
mươi
hai
thể
trược
bất
tịnh,
lại
chứa
sẵn
bao
nhiêu
bệnh
tật
ở
trong,
lại
còn
ốm
đau,
già
chết,
vị
ấy
chỉ
mong
cầu
tu
tập
để
sớm
quẳng
bỏ
cái
xác
nặng
nề,
hôi
hám
ấy,
có
đâu
còn
rảnh
thì
giờ
để
cho
khi
mạn,
ác
ý
phát
sanh
lên
đem
đến
phiền
não
cho
người!
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Một
người,
khi
đã
tự
ví
tâm
mình
như
chén
mỡ
đặc
thì
chén
ấy
còn
đựng
được
gì?
Có
thể
nào
chén
mỡ
đặc
lại
đựng
thêm
được
tham,
nộ,
si,
ganh
ghét
và
thù
oán?
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Chín
điều
ấy
là
con,
con
chính
là
chín
điều
ấy.
Tất
cả
mọi
phẩm
hạnh,
mọi
đức
tính
của
một
Sa
môn
mà
Ðức
Tôn
Sư
hằng
giáo
giới,
dẫu
con
chưa
thành
tựu
vẹn
toàn
nhưng
con
vẫn
đang
đi
từng
bước
một,
vững
chắc
và
ổn
định.
Từ
khi
thấy
đạo,
thấy
quả
đến
nay,
con
chưa
hề
hổ
thẹn
một
điểm
nào
về
giới
luật
để
đến
nổi
phải
tự
khiển
trách
chính
mình.
Xin
Ðức
Thế
Tôn
và
cả
đại
địa
minh
chứng
cho
con
sự
thật
ấy."
Khi
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
nói
xong,
địa
cầu
dày
bốn
mươi
do
tuần
rung
chuyển
như
chấn
động.
Ðại
Giảng
Ðường
lặng
ngắt
như
tờ.
Có
rất
nhiều
vị
tỳ-khưu
cảm
động
quá
đến
chảy
nước
mắt.
Người
mà
khiêm
tốn
đến
cùng
tận
như
vậy
thì
thế
gian
không
có
người
thứ
hai.
Chợt
nhiên,
vị
tỳ-khưu
trẻ
sợ
hãi,
bước
tới,
quỳ
mọp
xuống
chân
Ðức
Ðạo
Sư:
-
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Chính
con
là
kẻ
nói
dối!
Chính
con
đã
tự
dựng
nên
câu
chuyện
để
nói
xấu
đến
Bậc
Tướng
Quân
Chánh
Pháp.
Ðấy
là
lỗi
lầm
không
thể
tha
thứ
của
con.
Ðức
Phật
nói:
-
Này
Xá
Lợi
Phất!
Ông
hãy
bi
mẫn
tha
lỗi
cho
ông
tỳ-khưu
ngu
dại
này
-
nếu
không,
cái
đầu
của
ông
ta
sẽ
vỡ
tan
thành
bảy
mảnh.
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
trả
lời:
-
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Tự
nhiên
là
đệ
tử
đã
tha
thứ
cho
vị
tỳ-khưu
này
rồi.
Rồi
với
hai
bàn
tay
chấp
lại,
Ngài
hướng
đến
vị
tỳ-khưu
trẻ,
nói
rằng:
-
Ngoài
ra
cũng
xin
hiền
giả
hoan
hỷ
xá
lỗi
cho
tôi
nếu
tôi
vô
tình
có
làm
điều
gì
đó
mếch
lòng
hiền
giả.
Tiếng
rống
của
con
sư
tử
và
những
hành
động
sau
đó
của
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
làm
cho
Tăng
chúng
ai
nấy
cũng
đều
cảm
phục.
Họ
bàn
luận
với
nhau:
-
Này
huynh
đệ,!
Hãy
xem
những
đức
tính
siêu
việt
của
Bậc
Tướng
Quân
Chánh
Pháp.
Ðối
với
vị
tỳ-khưu
vu
khống
mình,
đầy
ác
tri,
ác
ngữ
như
thế
kia
mà
Ngài
không
tỏ
vẻ
gì
là
nóng
giận
hay
oán
ghét
ông
ta.
-
Vị
Ðại
Trưởng
lão
của
chúng
ta
thật
là
tuyệt
vời!
Vị
tỳ-khưu
kia
có
lỗi,
thay
vì
phải
quỳ
xuống
ôm
chân
bụi
của
Ngài
mà
sám
hối
trước;
ở
đây,
Trưởng
lão
của
chúng
ta
lại
chấp
tay,
cung
kính
xin
lỗi
mặc
dầu
Ngài
không
có
lỗi.
-
Huynh
đệ
có
nghe
rõ
tiếng
rống
của
Ngài
trước
Ðức
Thế
Tôn
và
Tăng
chúng
không?
Ôi!
Quả
đất
kia
không
chịu
đựng
nổi
giới
đức
của
Ngài
nên
phải
rung
động
đến
từng
mảy
vi
trần
cát
bụi.
Ðức
Thế
Tôn
nói
với
đại
chúng:
-
Này
các
thầy
tỳ-khưu!
Dĩ
nhiên
con
trai
trưởng
của
Như
Lai
đã
chấm
dứt
trọn
vẹn
lòng
sân
hận,
bực
tức,
bất
mãn;
chấm
dứt
trọn
vẹn
mọi
luyến
ái
trên
cuộc
đời
này.
Tâm
hồn
con
trai
trưởng
của
Như
Lai
ổn
định
như
quả
đất
vĩ
đại,
vững
chắc
như
những
trụ
cột
của
một
tòa
cổ
thành
và
yên
lặng
như
một
hồ
nước
trong
không
gợn
sóng.
Với
một
con
người
như
vậy,
giới
đức
thanh
tịnh
như
vậy,
định
tĩnh
tựa
Tu-Di
sơn
như
vậy
thì
Ma
vương
không
còn
tìm
thấy
dấu
vết
và
vòng
luân
hồi
tử
sanh
chẳng
còn
mảy
may
hiệu
lực
gì
đối
với
vị
ấy.
Với
A-Nậu-Ðà-La
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
là
người
bạn
tốt
của
tất
cả
mọi
người,
rất
nhu
thuận,
hiền
hòa,
kham
nhẫn;
luôn
luôn
biết
chịu
khó
lắng
nghe.
Nhưng
gặp
trường
hợp
Ngài
cũng
rất
cương
trực,
thẳng
thắn,
sẵn
sàng
vạch
rõ
những
sai
lầm
của
bạn
mà
không
khoan
nhượng.
Ðấy
là
đối
với
trường
hợp
Ngài
A-Nậu-Ðà-La
(Anuruddha).
Ðại
Ðức
A-Nậu-Ðà-La
là
một
trong
sáu
ông
hoàng
cũng
xuất
gia
một
lần
sau
hai
năm
Ðức
Phật
thành
đạo,
đó
là
Bhaddiya,
Ànanda,
Bhagu,
Kimbala
và
Devadatta.
A-Nậu-Ðà-La
rất
kính
mến
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
và
Xá
Lợi
Phất
đối
với
A-Nậu-Ðà-La
cũng
vậy.
Tuy
nhiên,
lắm
lúc
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
thấy
A-Nậu-Ðà-La
còn
những
ngã
mạn
và
những
ô
nhiễm
vi
tế
ở
nội
tâm
mà
chưa
có
cơ
hội
nói
thẳng
với
bạn.
Hôm
kia,
vào
buổi
sớm,
Ðại
Ðức
A-Nậu-Ðà-La
đến
viếng
thăm
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất,
sau
khi
chào
hỏi
rất
lễ
độ,
Ðại
Ðức
A-Nậu-Ðà-La
ngồi
xuống
một
bên.
-
"Người
có
con
mắt
thần
thân
mến"
-
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
chậm
rãi
nói
-
Hôm
nay,
hiền
giả
sao
không
đi
ngao
du
vào
một
ngàn
thế
giới
mà
lại
đến
viếng
thăm
liêu
cốc
chật
hẹp
của
ngu
huynh
như
thế?
Ðại
Ðức
A-Nậu-Ðà-La
cười
thoải
mái:
-
Không
dám
đâu,
thưa
hiền
huynh!
Ðệ
quá
ít
công
việc
mà
hiền
huynh
lại
quá
nhiều
công
việc.
Nghe
nói
hiền
huynh
không
được
khỏe
nên
đệ
đến
viếng
thăm.
Sao
hiền
huynh
không
buông
bỏ
gánh
nặng
trên
vai
xuống,
sống
thảnh
thơi,
thanh
tịnh,
vô
sự
một
đời
như
đệ
không
hơn
sao?
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
hỏi
lại:
-
Theo
hiền
giả
cái
gì
là
gánh
nặng
cần
phải
buông
bỏ?
-
Công
việc
của
Giáo
Hội
là
gánh
nặng,
thuyết
pháp
là
gánh
nặng,
bôn
ba
đây
đó
để
giải
quyết
mối
bất
hòa
giữa
Tăng
chúng
là
gánh
nặng;
sắp
xếp,
cắt
đặt
công
việc
từ
bên
trong
ra
bên
ngoài
là
gánh
nặng,
đi
thăm
viếng
vị
này,
vị
kia
là
gánh
nặng,
hướng
tâm
đâu
đó
để
đi
bát
gieo
duyên
là
gánh
nặng,
hóa
độ
người
là
gánh
nặng
v.v...
Ôi!
hiền
huynh
quá
nhiều
gánh
nặng
phải
làm
trên
đời
này!
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
kiên
nhẫn,
chăm
chú
lắng
nghe
rồi
hỏi
tiếp:
-
Vậy
cái
gì
là
không
gánh
nặng?
-
Thưa
hiền
huynh!
Ðiều
ấy
Ðức
Ðạo
Sư
đã
dạy
rồi!
Vị
tỳ-khưu
vào
buổi
sáng,
chánh
niệm
tỉnh
giác
đi
vào
làng
để
trì
bình
khất
thực.
Rồi
kia
là
cội
cây,
là
ngôi
nhà
trống;
sau
khi
độ
thực,
vị
ấy
an
trú
chánh
niệm
trước
mặt.
Vị
ấy
nhất
tâm
chú
mục
vào
hơi
thở,
lìa
trạo
cử,
phóng
tâm,
cắt
đứt
hôn
trầm,
giải
đãi,
đạt
tâm
phỉ,
tâm
an,
nhập
vào
sơ
thiền
do
ly
dục
sanh...
Cứ
thế
không
tầm,
không
tứ,
vị
ấy
vào
định
nhị
thiền...
tam
thiền...
tứ
thiền.
Với
sự
định
tĩnh
sâu
xa,
vững
chắc
không
xao
động,
vị
ấy
hướng
tâm
đến
một
thế
giới,
hai
thế
giới,
thấy
rõ
chúng
sanh
ở
đấy
y
báo
là
vậy,
chánh
báo
là
vậy...
Với
tâm
định
tĩnh
như
Tu-Di
sơn,
vị
ấy
nhìn
qua
phương
Ðông,
phương
Tây,
phương
Nam,
phương
Bắc,
trên
và
dưới
thấy
rõ
được
một
trăm
thế
giới,
hai
trăm
thế
giới,
một
ngàn
thế
giới,...
rõ
ràng
như
nhìn
những
chỉ
tay
trong
lòng
bàn
tay
của
mình.
Như
một
vị
vua
Sát-đế-lị
giàu
mạnh
và
oai
hùng,
buổi
sớm
leo
lên
lầu
cao,
nhìn
xuống
lâu
đài,
dinh
thự,
làng
mạc,
phố
chợ,
nhà
cửa
v.v...
Cũng
vậy,
khi
nội
tâm
đã
trong
sạch,
không
còn
nhơ
bợn;
khi
trí
tuệ
đã
được
huấn
luyện,
đã
được
tập
trung,
đã
được
làm
cho
thuần
thục;
với
nghị
lực
vững
chắc
và
mắt
nhìn
sắc
bén,
tinh
tường...
vị
ấy
đứng
trên
đỉnh
cao
của
sự
tiến
hóa,
trên
đỉnh
cao
của
sự
tu
tập,
thì
dưới
cõi
trần
xôn
xao
bất
tịnh
kia
đều
được
thấy
rõ,
chẳng
có
gì
có
thể
che
dấu
được
vị
ấy...
Thưa
hiền
huynh!
ấy
gọi
là
làm
xong
việc
phải
làm,
ấy
gọi
là
không
còn
gánh
nặng
trên
cõi
đời
này!
Nghe
sự
thuyết
minh
tràng
giang
đại
hải
của
A-Nậu-Ðà-La,
Ngài
Xá
Lợi
Phất
cảm
thấy
thương
xót
cho
bạn.
Tôn
giả
nói:
-
Này
A-Nậu-Ðà-La!
Tôi
rất
mừng
cho
hiền
giả
đã
có
con
mắt
nhìn
thấy
một
ngàn
thế
giới.
Ấy
là
hiền
giả
đã
có
được
"thiên
nhãn
thuần
tịnh
siêu
nhân"!
-
Không
dám!
-
Nhưng
mà
này
hiền
giả
thân
mến!
Tôn
giả
Ðại
Mục-Kiền-Liên
là
người
có
thiên
nhãn
vĩ
đại
hơn
nữa
kia!
Tôn
giả
ấy
lại
nhìn
được
một
trăm
ngàn
thế
giới,
hai
trăm
ngàn
thế
giới
trong
lúc
hiền
giả
chỉ
mới
nhìn
thấy
được
một
ngàn
thế
giới!
A-Nậu-Ðà-La
biết
thực
sự
vậy
nên
Ngài
nín
lặng.
-
Lại
nữa,
Ðại
Mục-Kiền-Liên
không
những
chỉ
có
thiên
nhãn
thông,
mà
Tôn
giả
ấy
lại
có
cả
thiên
nhĩ
thông,
tha
tâm
thông,
sinh
tử
thông,
thần
túc
thông
và
cả
biến
hóa
thần
thông
...
A-Nậu-Ðà-La
lại
nín
lặng.
-
Với
ngũ
thông
vĩ
đại
và
siêu
nhân
như
vậy
nhưng
chưa
bao
giờ
Tôn
giả
ấy
lại
nói
rằng
mình
có
con
mắt
tinh
tường,
đứng
trên
đỉnh
cao
của
sự
tiến
hóa;
chưa
bao
giờ
tự
nhận
mình
trí
tuệ
đã
được
huấn
luyện,
đã
làm
cho
thuần
thục...
mà
Tôn
giả
ấy
luôn
luôn
cảm
thấy
mình
còn
thiếu
sót,
nông
cạn,
luôn
luôn
tầm
cầu
và
học
hỏi.
A-Nậu-Ðà-La
ngồi
im
sững
như
hóa
đá.
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
nghĩ
là
phải
thời,
nên
đập
mạnh,
đánh
mạnh
không
còn
nương
tay
nữa.
-
Hiền
giả
thân
mến!
Cho
dù
ngũ
thông
kia
có
đến
chỗ
thuần
thục
viên
mãn
thì
đấy
cũng
chỉ
là
trò
chơi,
là
cái
vỏ
cây,
cái
giác
cây,
chưa
phải
là
tinh
tủy
của
Giáo
Pháp.
Ngoại
đạo
cũng
có
khả
năng
đắc
ngũ
thông
ấy.
Cứu
cánh
của
Sa
môn
hạnh
là
phải
tận
diệt
cho
được
những
nhiễm
ô,
phiền
não.
Cứu
cánh
của
Sa
môn
hạnh
là
giác
ngộ
giải
thoát.
Vậy
tại
sao
hiền
giả
lại
tự
đắc,
tự
phụ
với
con
mắt
nhìn
thấy
một
ngàn
thế
giới
của
mình?
Sao
hiền
giả
không
tự
thấy
rõ
những
vi
tế
nhiễm
ô
đang
ngủ
ngầm
trong
tâm
hiền
giả
mà
ôm
cứng,
dính
chặt
nơi
cái
sở
đắc
nhỏ
nhoi
của
mình?
Chính
quan
niệm
gánh
nặng
và
không
gánh
nặng
của
hiền
giả
là
do
tâm
biếng
nhác,
ích
kỷ
của
hiền
giả.
Chính
nội
dung
cái
thuyết
minh
dài
dòng
của
hiền
giả
chứng
tỏ
hiền
giả
bị
buộc
chặt
rất
kiên
cố
bởi
ba
kiết
sử:
ngã
mạn,
phóng
tâm
và
vô
minh!
Hiền
giả
phải
biết
rõ
mình
chứ?
Phải
biết
trung
thực
chứ?
Cho
đến
bao
giờ
mười
kiết
sử
đều
được
thấy
rõ,
đều
được
cắt
đứt
như
thân
cây
sa-la
cụt
ngọn
không
còn
sanh
khởi
trong
tương
lai
thì
khi
ấy
mới
dám
nói
là
buông
bỏ
gánh
nặng
trên
vai
xuống!
A-Nậu-Ðà-La
thân
mến!
Tôi
nói
thẳng
thắn
quá,
xin
hiền
giả
bỏ
qua
cho!
Mọi
sự
thật
đã
được
vạch
trần.
Chưa
bao
giờ
A-Nậu-Ðà-La
nghe
được
một
thời
pháp
thấm
thía
như
vậy,
đau
xót
đến
tận
tim
tủy
mà
tri
ân
cũng
đến
tận
tim
tủy.
Ngài
quỳ
xuống
sát
đất,
nằm
dài
ra
đất
và
ôm
bàn
chân
bụi
của
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
mà
bạch
rằng:
-
Bạch
tôn
huynh
vĩ
đại
khả
kính!
Những
đòn
đánh
mạnh
của
tôn
huynh
đã
cho
kẻ
ngu
si
này
một
bài
học
ngàn
đời.
Ðệ
thấy
rõ
tất
cả
rồi,
không
còn
hoài
nghi
gì
nữa
cả.
Tháng
ngày
còn
lại
này,
đệ
sẽ
độc
cư,
một
mực
tinh
tấn
để
làm
xong
công
việc
cần
phải
làm.
Ðệ
hứa
chắc
như
vậy.
Nếu
không
thành
tựu
được
mục
đích
cuối
cùng,
đệ
không
bao
giờ
dám
gặp
mặt
tôn
huynh
nữa!
Ðúng
như
lời
hứa,
ngày
hôm
sau,
A-Nậu-Ðà-La
xin
phép
Ðức
Thế
Tôn,
rời
tịnh
xá
ẩn
dật
trong
rừng
sâu
và
tinh
tấn
thiền
quán.
Không
bao
lâu
sau,
Ngài
trở
về
trình
diện
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
với
nụ
cười
rạng
rỡ,
nói
rằng:
-
Thưa
tôn
huynh!
Ðệ
hôm
nay
nhìn
thấy
rõ
một
ngàn
thế
giới,
vững
chắc
không
xao
động.
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
mỉm
cười:
-
Ðúng
thế,
hiền
giả
thân
yêu!
Hiền
giả
đã
nói
vậy
thì
không
thể
sai
được!
Vĩnh
cửu,
chân
phúc
đang
có
mặt
giữa
hai
vị
Tôn
Giả.
Với
Tôn
giả
Ànanda
Hôm
nọ,
Bậc
Tướng
Quân
Chánh
Pháp
đang
đi
khất
thực
ở
thành
Xá-Vệ,
Ngài
chợt
thấy
một
đứa
bé
không
một
mảnh
vải
che
thân,
đang
bới
tìm
vật
thực
trong
đống
rác
như
một
con
quỷ
ăn
bùn,
thân
hình
ốm
tong
teo
tựa
que
củi.
Tôn
giả
tự
nghĩ:
"-
Không
biết
nó
là
con
ai?
ở
đâu?
lại
sống
đời
lang
thang
đói
khổ
không
nhà
không
cửa
như
vậy?"
Khởi
lòng
từ
mẫn
đối
với
nó,
Ngài
gọi:
-
Này
con,
hãy
đến
đây
coi
nào!
Ðứa
bé
nhìn
thấy
dung
nghi
trang
nghiêm
của
Trưởng
lão,
sợ
hãi,
đứng
khép
nép
một
bên.
-
Con
sống
ở
làng
nào?
Cha
mẹ
con
ở
đâu?
-
Thưa
Ngài
-
đứa
bé
lễ
phép
nói
-
con
không
có
nơi
nương
tựa.
Cha
mẹ
con
vì
con,
vì
con
là
số
đen
nên
đời
sống
quá
khốn
khổ.
Hôm
nọ,
mẹ
con
trao
cho
con
một
cái
bát,
đẩy
con
vô
chợ
rồi
trốn
đi!
Tôn
giả
ân
cần
hỏi:
-
Hiện
giờ
con
có
đói
không?
Con
có
muốn
ăn
chút
gì
không?
-
Dạ,
con
đói,
con
luôn
luôn
đói!
Tôn
giả
ngồi
xuống,
mở
bình
bát
-
trong
ấy
chỉ
có
cái
bánh
-
lấy
cho
đứa
bé
rồi
nói:
-
Con
hãy
ăn
đi!
Ðứa
bé
sung
sướng
cầm
cái
bánh,
cắn
một
miếng.
Bất
chợt
một
con
chó
đi
ngang,
đớp
cái
bánh
rồi
chạy
mất.
Ðứa
bé
nhìn
theo,
khóc
tấm
tức.
Tôn
giả
phải
dỗ:
-
Thôi
được
rồi,
rồi
con
sẽ
được
ăn
no.
-
Dạ!
-
Con
có
muốn
sống
đời
xuất
gia
như
ta
không?
-
Con
muốn
lắm,
nhưng
ai
sẽ
nhận
một
kẻ
khốn
nạn
như
con?
-
Ta,
ta
sẽ
nhận
con!
Ta
sẽ
cho
con
xuất
gia!
Với
đứa
bé
bên
chân,
Tôn
giả
lại
đi
bát
tiếp
tục.
Nhưng
lạ
lùng
sao,
cả
thành
phố
Xá-Vệ
vốn
rất
kính
trọng
và
đặt
đức
tin
nơi
Tôn
giả
mà
sáng
hôm
ấy
Tôn
giả
chẳng
có
chút
vật
thực
nào.
Về
lại
tịnh
xá,
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
đến
gặp
Tôn
giả
Ànanda:
-
Này
hiền
đệ!
Hiền
đệ
hãy
xem
đứa
bé
khốn
khổ
này!
Tôn
giả
Ànanda
rất
giàu
lòng
từ
tâm,
thấy
đứa
bé
Ngài
vô
cùng
thương
xót,
lấy
bánh
cho
ăn.
Nhưng
đứa
bé
chỉ
ăn
được
cái
bánh
thứ
nhất,
qua
cái
thứ
hai
thì
một
con
chim
diều
hâu
bay
qua,
tha
cái
bánh
đi
mất.
Thấy
chuyện
lạ
lùng,
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
kể
chuyện
ngoài
đường
phố
cho
Tôn
giả
Ànanda
nghe.
Cả
hai
thừ
người
ra
suy
nghĩ.
Chợt
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
nói:
-
Bây
giờ
chúng
ta
sẽ
tắm
rửa,
mặc
y
áo
rồi
cạo
đầu
xuất
gia
cho
nó.
Xong
xuôi,
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
lại
ôm
bát
ra
đi,
chỉ
mới
vài
con
đường
nhỏ,
Ngài
đã
đầy
bát.
Trở
lại
tịnh
xá,
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
nói
vơi
Ngài
Ànanda:
-
Bây
giờ
hiền
đệ
ngồi
một
bên,
ta
ngồi
một
bên;
cầm
cái
bát
trong
tay
rồi
chúng
ta
sẽ
cho
đứa
bé
ăn.
Ngài
Ànanda
không
hiểu:
-
Tại
sao?
-
Ðứa
bé
này
nghiệp
rất
nặng,
suốt
đời
phải
chịu
quả
báo
rất
khốc
liệt,
nó
sẽ
không
bao
giờ
được
ăn
no.
Ðứa
bé
bây
giờ
đã
trong
tăng
tướng
một
sa-di,
trông
sáng
sủa
hơn
một
chút
nhưng
gầy
gò,
ốm
yếu
rất
tội
nghiệp.
-
Hãy
ăn
đi,
này
con!
Hãy
ăn
cho
no!
Ðược
khuyến
khích,
nó
bốc
bánh
ăn,
bốc
cơm
ăn.
Nhưng
vừa
mới
ăn
được
một
ít
nó
liền
bị
đau
bụng
ỉa
chảy,
nó
chạy
một
mạch
ra
nhà
xí.
Ðến
khi
nó
giặt
y
nội,
hết
đau
bụng
thì
đã
quá
ngọ.
Tội
cho
hai
vị
Tôn
Giả,
hôm
đó,
cả
hai
vị
đều
không
ăn!
*
*
*
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
kể
cho
Tôn
giả
Ànanda
nghe:
"-
Thời
Phật
Ca-Diếp,
trong
một
tịnh
xá
kia
có
một
tỳ-khưu
giữ
giới
trong
sạch,
chuyên
tu
thiền
quán,
tính
tình
bộc
trực,
hồn
nhiên.
Hôm
kia,
qua
làng
là
một
Trưởng
lão
lục
căn
thanh
tịnh,
người
thí
chủ
của
vị
tỳ-khưu
trông
thấy
thỉnh
về
nhà,
cúng
dường
món
ăn
rồi
nghe
pháp.
Buổi
chiều,
người
thí
chủ
thỉnh
Trưởng
lão
về
tịnh
xá
nghỉ
ngơi.
Mấy
ngày
hôm
sau,
thí
chủ
dâng
cúng
thực
phẩm
thượng
vị
vào
buổi
trưa,
dâng
cúng
những
loại
nước
trái
cây,
hương
hoa...
vào
buổi
chiều.
Thấy
vậy,
vị
tỳ-khưu
tâm
tư
không
được
vui,
nghĩ
rằng
tâm
người
thí
chủ
hôm
nay
đã
bị
chia
hai
.
Ðến
lúc
nào
đó
người
thí
chủ
sẽ
không
cần
đến
ta
nữa.
Vậy
làm
thế
nào
để
đuổi
vị
Trưởng
lão
kia
đi.
Quán
tâm,
vị
Trưởng
lão
biết
tâm
của
vị
trụ
trì,
đêm
ấy
Ngài
ngồi
trọn
đêm,
thọ
hưởng
lạc
về
thiền,
lạc
về
quả.
Gần
sáng,
Ngài
dọn
dẹp
sàng
tọa,
quét
dọn,
cất
đặt
mọi
thứ
xong
xuôi,
cầm
bát
bay
qua
hư
không
đi
về
một
trú
xứ
khác.
Vị
trụ
trì
không
biết,
buổi
sáng,
lấy
móng
tay
cào
nhẹ
nơi
cái
chuông,
gõ
nhẹ
nơi
cánh
cửa
rồi
đến
nhà
thí
chủ.
Thí
chủ
hỏi
tin
về
vị
khách
tăng,
vị
trụ
trì
đáp:
-
Bần
đạo
không
rõ.
Sáng
ngày
bần
đạo
đã
đánh
chuông,
đã
gõ
cửa
nhưng
không
thể
đánh
thức
vị
ấy
được.
Có
lẽ
món
ăn
thượng
vị
hôm
qua
chưa
tiêu
hóa
hết
nên
vị
ấy
đến
giờ
còn
say
ngủ
chăng?
Vị
thí
chủ
sau
khi
dâng
cúng
một
phần
vật
thực
cho
vị
trụ
trì,
gói
thêm
một
phần
khác
nhờ
vị
trụ
trì
mang
về
cho
vị
khách
tăng.
Trên
đường
về,
tâm
tư
vị
tỳ-khưu
kia
phiền
muộn,
nghĩ
rằng:
"Nếu
hắn
ta
được
ăn
mãi
những
món
thượng
vị
như
thế
này
thì
có
ai
nắm
cổ
đuổi
đi
hắn
cũng
không
chịu
đi
đâu.
Giờ
đem
cho?
Sẽ
bị
bại
lộ!
Ðổ
xuống
nước?
Sanh
tô
sẽ
nổi
lên
và
sẽ
bị
thấy!
Quăng
trên
đất?
Lũ
quạ
sẽ
tụ
họp,
kẻ
qua
đường
sẽ
biết!"
Cuối
cùng,
khi
đi
qua
một
đám
ruộng
đang
được
đốt,
vị
tỳ-khưu
khều
cả
đống
than
đỏ
hừng
hực
rồi
thiêu
cháy
phần
vật
thực.
Y
khoan
khoái,
xoa
tay
hài
lòng.
Về
lại
tịnh
xá,
mở
cửa
nhìn
chỗ
khách
tăng,
thấy
đâu
đó
sạch
sẽ,
ngăn
nắp,
vị
trụ
trì
giật
mình:
vậy
là
y
đã
biết
rõ
tâm
tư
của
ta.
Vì
biết
rõ
tâm
tư
của
ta,
y
đã
không
quấy
nhiễu,
lặng
lẽ
như
tâm
của
một
vị
Thánh,
bỏ
đi
nơi
khác.
Nghĩ
vậy,
nỗi
sợ
hãi
nổi
lên,
tâm
y
như
bị
thiêu
đốt.
Suốt
thời
gian
dài
cho
đến
lúc
mạng
chung,
vị
tỳ-khưu
kia
luôn
luôn
dằn
vặt,
khổ
sở,
ưu
sầu;
luôn
luôn
nhu
có
một
lò
lửa
nằm
ở
trong
ruột
gan.
Chấm
dứt
thọ
mạng,
vị
tỳ-khưu
kia
rơi
xuống
địa
ngục,
bị
đốt,
bị
nấu
mấy
trăm
ngàn
năm."
Nghe
quả
báo,
Tôn
giả
Ànanda
nói:
-
Vì
một
miếng
ăn
mà
khổ
thế
đấy.
Thế
rồi
sau
đó
ra
sao
hở
hiền
huynh?
-
Sau
đó,
năm
trăm
kiếp
làm
Dạ-Xoa
đói,
không
được
ăn
no
bụng
dầu
chỉ
một
ngày.
Có
một
bữa
được
no
bởi
ăn
đồ
ố
nhiễm
của
thai
bào.
Hết
năm
trăm
kiếp
Dạ-Xoa
là
năm
trăm
kiếp
làm
chó
đói,
chẳng
bao
giờ
được
no
bụng,
chỉ
có
một
bữa
no
do
ăn
đồ
ói
mửa
của
người
khác.
Hết
kiếp
chó,
nó
sinh
ra
trong
ngôi
làng
nghèo
đói,
vào
một
gia
đình
cùng
khổ
nhất.
Từ
khi
nó
sinh
ra,
gia
đình
kia
trở
nên
nghèo
đói
cùng
cực,
cuối
cùng
phải
đuổi
nó
đi.
Rồi
cứ
thế,
nó
bị
tống
từ
nơi
này
sang
nơi
khác.
Ở
một
ngôi
làng
biên
địa,
nó
làm
thuê
sinh
sống,
lấy
một
người
đàn
bà
bần
khổ
và
sinh
được
hai
con.
Từ
khi
nó
ở
đây,
ngôi
làng
này
bị
vua
xử
phạt
bảy
lần,
nhà
cửa
bị
cháy
bảy
lần
và
sông
hồ
bị
khô
hạn
bảy
lần.
Dân
làng
biết
nó
là
con
số
đen
nên
tống
cổ
nó
đi.
Ðến
một
ngôi
rừng,
một
phi
nhân
ăn
thịt
vợ
và
hai
con
của
nó.
Lại
đau
khổ,
lang
thang,
nó
đến
một
vùng
biển,
xin
làm
thuê
trên
một
chiếc
tàu.
Tàu
đi
bảy
ngày
thì
bị
đứng
yên
như
bị
mắc
cạn.
Họ
rút
thăm
xem
ai
là
con
số
đen.
Cả
bảy
lần
thăm
đều
rơi
vào
tay
nó.
Người
ta
quăng
nó
xuống
chiếc
bè
trên
biển
rồi
bỏ
đi.
Tôn
giả
Ànanda
nghe
đến
sởn
tóc
gáy.
-
Ôi!
Quả
báo
thật
là
khủng
khiếp.
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
lại
tiếp
tục:
"-
Vậy
mà
đã
hết
đâu.
Suốt
năm
trăm
kiếp
nó
sinh
làm
người
khốn
khổ
như
vậy.
Kiếp
này,
nó
sinh
trong
một
làng
đánh
cá
ở
nước
Kosala.
Từ
khi
nó
ở
trong
thai
bào,
cả
ngàn
gia
đình
đánh
cá
ấy
rơi
vào
nghèo
đói.
Ðã
thế,
cả
làng
bị
vua
xử
phạt
bảy
lần,
làng
bốc
cháy
bảy
lần.
Họ
bèn
tìm
con
số
đen.
Họ
phân
thành
hai
nhóm,
một
nhóm
năm
trăm
gia
đình.
Thế
rồi
năm
trăm
gia
đình
kia
được
sung
túc,
năm
trăm
gia
đình
có
nó
lại
nghèo
đói.
Họ
phân
chia
nữa,
cuối
cùng
tìm
ra
được
gia
đình
nó,
tẩn
xuất
ra
khỏi
làng.
Khốn
khổ
thay
người
đàn
bà
bụng
mang
dạ
chửa,
lê
lết
tấm
thân
đi
xin
ăn
không
bao
giờ
đủ
no.
Khi
sinh
đứa
bé
đã
biết
đi,
biết
chạy,
người
mẹ
giao
cho
nó
một
cái
bát,
đẩy
vào
trong
chợ
rồi
bỏ
trốn...
Chính
lúc
ấy,
ta
thấy
nó
và
dẫn
nó
về
đây!"
Kể
xong,
không
khí
như
lặng
lại.
Tôn
giả
Ànanda
nói:
-
Cái
bánh
ngoài
đường
phố
-
chó
ăn!
Cái
bánh
ở
đây
-
diều
hâu
tha!
Khi
chúng
ta
cầm
bát
muốn
cho
nó
ăn
no
-
thì
nó
đau
bụng!
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
nói:
-
Từ
trước
đến
nay,
hiền
đệ
thường
thích
nhận
trọng
trách
cho
xuất
gia
sa-di,
đến
tuổi
thọ
đại
giới,
hiền
đệ
thường
dẫn
đến
ta
làm
thầy
tế
độ.
Ðệ
tử
chung
của
chúng
ta
đến
nay
có
thể
lên
đến
năm
trăm
vị
rồi.
Riêng
đứa
bé
này
quá
đặc
biệt,
ta
cho
nó
xuất
gia,
nhưng
hiền
đệ
chịu
khó
lưu
tâm
một
chút.
Sở
dĩ
huynh
phải
kể
dong
dài
về
quá
khứ
như
vậy
là
vì
nhờ
có
một
thời
y
tu
hành
tinh
tấn,
duyên
ấy
giúp
y
sẽ
thành
tựu
đạo
quả
A-La-Hán
vào
cuối
đời!
-
Thưa
vâng,
hiền
huynh!
Ðã
dặn
dò
Tôn
giả
Ànanda
kỹ
lưỡng
như
vậy
mà
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
lại
còn
dẫn
chú
sa-di
đến
gặp
A-La-Hán,
kể
tóm
tắt
cho
A-La-Hán
nghe,
rồi
nói:
-
Vậy
con
cố
gắng
chăm
sóc
cho
chú
tân
sa-di
này
nhé!
Vật
thực,
cơm,
cháo,
bánh
gì
đó
-
con
hằng
lưu
tâm
chia
xớt
cho
chú
với
nhé!
Chú
đã
khổ
sở
quá
nhiều
kiếp
sống
rồi.
Ðại
gia
đình
của
Ðức
Tôn
Sư
sẽ
là
mái
nhà
ấm
cúng
nhất
cho
chú
làm
nơi
nương
tựa.
*
*
*
Tình
cảm
của
Tôn
giả
Ànanda
đối
với
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
rất
sâu
đậm,
và
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
đối
với
Tôn
giả
Ànanda
cũng
vậy.
Không
phải
hai
vị
chỉ
liên
hệ
với
nhau
bởi
đám
môn
đồ
mà
vì
quý
trọng,
thương
mến
phẩm
cách
của
nhau.
Tôn
giả
Ànanda
dầu
chưa
đắc
được
quả
vị
cuối
cùng
nhưng
đã
được
Ðức
Thế
Tôn
tán
thán
trước
đại
chúng
rằng:
-
Này
các
thầy
tỳ-khưu!
Có
năm
lý
do
mà
Như
Lai
coi
Ànanda
như
là
một
Ðại
Ðệ
Tử.
Năm
lý
do
ấy
là
gì?
Thứ
nhất,
Ànanda
có
sức
học
uyên
thâm,
ngoại
trừ
Xá
Lợi
Phất
ra,
không
ai
bì
được.
Thứ
hai,
Ànanda
có
một
trí
nhớ
thật
phi
thường,
chẳng
ai
trong
Giáo
Hội
này
sánh
được.
Thứ
ba,
Ànanda
giữ
giới
luật
và
phẩm
hạnh
rất
trong
sạch,
cao
thượng.
Thứ
tư,
Ànanda
là
một
Sa
môn
rất
kiên
trì
học
hỏi,
kiên
trì
công
việc
và
kiên
trì
trong
việc
giáo
giới
người
khác.
Và
thứ
năm,
là
Ànanda
luôn
luôn
chuyên
tâm
cần
mẫn
trong
mọi
việc
dầu
nhỏ
hay
lớn.
Bởi
có
năm
phẩm
chất
lỗi
lạc
ấy
mà
Như
Lai
coi
trọng
Ànanda,
khen
ngợi
Ànanda!
Còn
đối
với
Xá-Lợi-Phất,
có
lần
Ðức
Thế
Tôn
hỏi
Ànanda
rằng:
-
Này
Ànanda!
Trong
hàng
tứ
chúng
có
rất
nhiều
người
quý
trọng,
cảm
mến
Xá-Lợi-Phất,
còn
ông
thì
sao?
Ông
có
bằng
lòng
vị
Sa
môn
ấy
không?
Tôn
giả
Ànanda
đáp:
-
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Ai
mà
không
bằng
lòng
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
trừ
phi
người
ấy
khờ
dại,
ngu
muội
hoặc
tinh
thần
thấp
kém,
tối
tăm
và
hư
hỏng.
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Sa
môn
Xá
Lợi
Phất
là
một
vị
tỳ-khưu
hoàn
toàn
siêu
việt,
có
một
sức
học
và
một
trí
tuệ
vô
biên.
Thế
gian
này
khó
kiếm
ra
được
một
người
có
kiến
thức
quảng
bác,
một
tâm
hồn
trong
sáng,
một
lý
trí
sắc
bén,
một
tấm
lòng
quảng
đại,
bao
dung...
như
Tôn
giả
ấy.
Ngoài
ra,
vị
sư
huynh
của
con
là
tấm
gương
chói
lọi
nhất
về
một
đòi
sống
ít
ham
muốn,
biết
đủ,
vắng
lặng,
ưa
tĩnh
cư,
không
thích
nơi
ồn
ào,
huyên
náo.
Bậc
Tướng
Quân
Chánh
Pháp
lại
là
người
giàu
nghị
lực,
giàu
ý
chí,
có
tài
biện
luận
chưa
hề
thua
ai
trong
tam
giới.
Ðại
huynh
của
con
còn
có
cả
nghệ
thuật
biết
lắng
nghe
người
khác,
lắng
nghe
một
cách
chăm
chú,
đầy
hiểu
biết.
Là
bậc
luôn
tự
chế,
luôn
luôn
chánh
niệm,
tỉnh
giác,
luôn
luôn
kiểm
soát
một
cách
trọn
vẹn
và
thù
thắng
thân,
khẩu,
ý
của
mình.
Lại
là
người
luôn
luôn
có
nét
mặt
trong
sáng,
dịu
dàng,
cởi
mở,
vui
tươi...
Ôi!
Phi
Ðức
Thế
Tôn,
trong
Giáo
Hội,
Ngài
ấy
là
ngôi
sao
sáng
về
tất
cả
mọi
phương
diện
vậy.
Sự
tán
thán,
ca
tụng
của
Tôn
giả
Ànanda
về
vị
huynh
trưởng
của
mình
có
lẽ
là
hết
chữ
nghĩa,
vả
chăng,
điều
ấy
cũng
là
đúng
sự
thật.
Những
tâm
hồn
cao
cả
thường
yêu
mến
những
tâm
hồn
cao
cả.
Chính
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
khi
được
người
ta
dâng
cúng
vật
gì
quý
báu,
cũng
để
dành
lại,
trao
tặng
Tôn
giả
Ànanda.
Mà
Ðại
Ðức
Ànanda
cũng
vậy.
Lần
nọ,
Tôn
giả
Ànanda
được
một
ông
Bà
la
môn
dâng
cúng
một
bộ
y
quý
giá,
Ngài
muốn
để
dành
dâng
đến
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
mà
không
biết
làm
sao
-
vì
theo
luật,
một
vị
tỳ-khưu
không
được
phép
giữ
y
lâu
nếu
chưa
xả
y
cũ
-
mà
lúc
ấy
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
lại
đi
công
tác
Phật
sự
xa,
mười
hôm
sau
mới
về!
Thế
là
Tôn
giả
Ànanda
bèn
bạch
Phật,
trình
bày
lại
sự
việc.
Thấy
tấm
lòng
thành
khẩn
và
chí
tình
của
Tôn
giả
Ànanda,
Ðức
Tôn
Sư
đành
phải
"du
di"
thay
đổi
lại
giới
luật:
-
Thôi
được
rồi,
Ànanda!
Nếu
Xá-Lợi-Phất
mười
hôm
nữa
mới
về
-
thì
bắt
đầu
từ
hôm
nay,
Như
Lai
cho
phép
chư
tỳ-khưu
được
giữ
y
trong
vòng
mười
hôm
vậy.
Ôi!
Các
điều
luật
của
Ðức
Ðạo
Sư
mà
tình
lý
trọn
vẹn,
dễ
mến
xiết
bao!
*
*
*
Có
một
số
vị
tỳ-khưu
bàn
tán
rằng,
vì
Tôn
giả
Ànanda
là
bậc
hữu
học
nên
mới
có
những
tình
cảm
riêng
tư
như
vậy
đối
với
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất.
Ðiều
ấy
là
sai
lầm.
Tôn
giả
Ànanda
thường
tôn
kính
và
yêu
mến
tất
cả
những
vị
Ðại
Trưởng
lão
giới
hạnh
trong
sạch
và
trí
tuệ
uyên
thâm.
Mà
đại
biểu
cao
cả
cho
giới
hạnh
và
trí
tuệ
ấy,
trong
Giáo
Hội,
không
ai
bằng
được
Xá-Lợi-Phất.
Ðôi
khi,
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
lại
còn
khiển
trách
nhẹ
nhàng
Tôn
giả
Ànanda
là
khác
nữa.
-
Này
hiền
giả
Ànanda!
Hiền
giả
tiếp
xúc
với
Ni
giới
nhiều
quá
đấy!
-
Biết
làm
sao
được
hở
sư
huynh,
khi
Ni
giới
họ
có
cảm
tình
với
đệ!
-
Tại
sao
lại
có
cảm
tình?
-
Vì
từ
khi
đệ
xin
cho
nữ
giới
được
xuất
gia,
họ
coi
đệ
như
ân
nhân
của
họ.
-
Rất
nhiều
vị
trong
Ni
giới
là
những
mệnh
phụ
phu
nhân,
xuất
thân
cành
vàng
lá
ngọc,
vương
giả,
triệu
phú...
Họ
đẹp
đến
chim
sa,
cá
lặn
-
hiền
giả
có
thấy
như
thế
không?
-
Thưa
vâng!
-
Vậy
khi
tiếp
xúc
với
họ,
mắt
hiền
giả
để
ở
đâu?
-
Thưa
hiền
huynh!
Ðệ
dường
như
không
thấy!
-
Vậy
nếu
khi
đã
lỡ
thấy
thật
sự
rồi?
-
Thì
đệ
sẽ
không
nói
chuyện!
-
Vậy
giả
dụ
họ
có
hỏi
chuyện
thì
phải
làm
sao?
-
Thì
đệ
sẽ
đề
phòng,
cương
quyết
lấy
chánh
niệm
làm
người
canh
cửa!
-
Lành
thay!
Hiền
giả
thật
là
tuyệt
vời!
Nhưng
không
biết
đấy
có
phải
là
những
điều
do
hiền
giả
tự
nghĩ
ra
không?
Bỗng
Tôn
giả
Ànanda
chấp
tay
xá
lạy:
-
Chẳng
có
gì
dấu
được
đôi
mắt
sắc
bén
của
hiền
huynh!
Chính
Ðức
Thế
Tôn
đã
chỉ
dạy
phương
pháp
đối
trị
ấy
cho
đệ
đấy!
-
Nhưng
mà
hết
Ni
giới
làm
phiền
-
bây
giờ
lại
đến
nữ
giới,
ai
họ
đến
đây
cũng
tìm
cho
bằng
được
Trưởng
lão
Ànanda!
Tôn
giả
Ànanda
thở
dài:
-
Ðây
là
sự
thật.
Tuy
nhiên,
mỗi
người
như
vậy
có
một
hoàn
cảnh
thật
đáng
thương.
Ðệ
đã
dạy
đạo
cho
họ,
an
ủi
họ,
sách
tấn
họ.
-
Vậy
là
tốt!
Nhưng
mà
này
hiền
giả
thân
mến
-
chính
vì
tình
cảm
ấy
nên
hiền
giả
cứ
mãi
loay
hoay
bên
này
bờ
hữu
học,
hiền
giả
biết
chứ?
-
Thưa
vâng!
-
Còn
tăng
tướng
của
hiền
giả
cũng
đẹp
quá.
Hiền
giả
như
một
nụ
hoa
tỏa
hương
thơm
ngào
ngạt
nên
ong
bướm
các
nơi
lũ
lượt
tìm
đến.
-
Ðiều
ấy
không
phải
lỗi
ở
đệ.
Ðức
Thế
Tôn
còn
đẹp
hơn,
hiền
huynh
cũng
đẹp
đẽ
không
kém
vậy.
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
chợt
nói
to:
-
Vậy
là
hiền
giả
hiểu
sai
ý
của
ta
rồi.
Cái
đẹp
không
phải
là
điều
đáng
khiển
trách.
Ta
muốn
nói
rằng:
càng
đẹp
thì
phải
càng
tinh
tấn
hơn,
giác
tỉnh
hơn,
nghị
lực,
dõng
mãnh
nhiều
hơn.
Phải
có
một
nỗ
lực
phi
thường
để
thắng
lướt
tất
cả
mọi
chướng
ngại.
Sự
thành
tựu
sau
này
của
hiền
giả,
vì
vậy,
sẽ
là
một
ngọn
đèn
lớn
soi
rạng
cho
hằng
hằng
thế
hệ,
chẳng
phải
tầm
thường
đâu.
-
Tri
ân
huynh
đã
quá
khen!
Ðến
đây,
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
nắm
tay
Tôn
giả
Ànanda
ân
cần
nói:
Bổn
phận
của
ta
đối
với
Giáo
Hội
chỉ
là
một
giai
đoạn
ngắn,
còn
bổn
phận
của
hiền
giả
đối
với
Giáo
Hội
thì
vô
tận,
không
thể
đo
lường
được,
hiền
giả
biết
không?
Ðừng
hiểu
lầm
ý
ta
nhé!
Ôi!
Thật
là
rất
đạo
tình,
rất
thắm
thiết,
trách
gì,
sau
này,
khi
nghe
tin
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
nhập
diệt,
Tôn
giả
Ànanda
đã
khóc
lóc,
kêu
lên:
"Ôi!
Khi
mà
người
bạn
cao
thượng
của
tôi
đã
ra
đi
rồi,
thì
đối
với
tôi,
cuộc
đời
như
chìm
vào
trong
đêm
tối
tăm
vĩnh
viễn!"
--- o0o ---
Mục
lục - [01] -
[02]
- [03] - [04]
- [05]
[06]
- [07]
- [08] - [09]
- [10] - [11]
--- o0o ---
| Mục lục Tác giả |
Tủ sách Phật Học
|
Chân thành
cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng tập sách này
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-04-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục