NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2001
TOÀN TẬP
TÂM NHƯ TRÍ THỦ
--- o0o ---
TẬP
3
HIỆP CHÚ
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
TỰA THUYẾT GIỚI
I.
KỆ TÁN:
i. QUY KỈNH:
1.
Cúi đầu lễ chư Phật,
Tôn Pháp,
Tỳ kheo Tăng;
Nay diễn
pháp tỳ ni,
Để Chánh
pháp trường tồn.
LƯỢC
GIẢI:
Từ đây trở
xuống, gồm 12 bài tụng, riêng biệt của luật Tứ phần, khác hẳn với các bộ
luật khác. Xem phần phụ chú sau.
Trong bài
tụng này, hai câu đầu, nói lời quy kỉnh Tam bảo; hai câu tiếp theo, nói mục đích
thuyết giới. Sự thuyết giới là biểu hiện tính thanh tịnh và hòa hiệp của Tăng,
tức bản thể tồn tại của Tăng. Chừng nào các Tỳ kheo không hòa hiệp thuyết giới,
bấy giờ bản thể của Tăng bị vỡ. Bản thể của Tăng bị vỡ, tức không có sự tồn tại
của Tăng. Tăng không tồn tại, Chánh pháp không được thực hành như thật; nghĩa
là, Chánh pháp không tồn tại. Do đó, tụng nói: “Nay diễn pháp tỳ ni, để Chánh
pháp trường tồn”.
ii.
NỘI DUNG THUYẾT GIỚI:
2.
Giới như bể không bờ;
Như báu,
cầu không chán,
Muốn hộ tài
sản Thánh,
Chúng họp
nghe tôi tụng.
3. Muốn trừ bốn tội khí,
Và diệt tội
tăng tàn,
Ngăn ba
mươi xả đọa,
Chúng họp
nghe tôi tụng.
LƯỢC
GIẢI:
Hai bài
tụng này thừa tiếp ý nghĩa trong nửa cuối bài tụng 1 ở trên, tức nói rõ nội dung
của mục đích thuyết giới.
+ Giới
như bể không bờ: Cũng như biển cả không dung nạp tử thi; trong biển Phật
pháp cũng vậy, người phá giới bị loại trừ, không thể thành tựu các đạo quả của
Niết bàn. Ý nghĩa này được nói rõ trong hai bài tụng thứ 15 và 16 trong phần mở
đầu cho Quảng luật của Tứ phần.
+ Như
báu, cầu không chán: Người trì giới sẽ thành tựu các thiện pháp thế gian và
xuất thế gian, các đạo quả của Niết bàn.
+ Tài
sản Thánh: Chỉ 37 Bồ đề phần, Thánh đạo 8 chi, các môn thiền định, tam muội,
giải thoát. Văn ý ở đây thừa tiếp câu 2 ở trên.
+ Bốn
tội khí: Tức 4 pháp ba la di, xem Chương I: Tội tăng tàn: hay 13 pháp
tăng già bà thi sa, xem Chương II. - 30 xả đọa: hay 30 ni tát kỳ ba dật
đề, xem Chương IV.
iii. THỨ TỰ TƯƠNG THỪA:
4. Tỳ Bà
Thi, Thi Khí,
Tỳ Xá, Câu
Lưu Tôn,
Câu Na Hàm
Mâu Ni,
Ca Diếp,
Thích Ca văn.
5. Các Đại
đức, Thế Tôn,
Vì tôi dạy
sự này,
Tôi nay
muốn nhắc rõ,
Các ngài
thảy cùng nghe.
LƯỢC
GIẢI:
Bảy Đức Như
Lai đều có truyền thọ Giới kinh, dưới hình thức gọi là lược thuyết Giáo giới;
xem Chương kết, đoạn sau.
+ Vì tôi
dạy sự này: đây là lời của vị kết tập Luật Tứ phần, xem lược giải ở
cuối bài tụng 12 đoạn sao. Sự: tức thể tài. Sự gồm có lược và quảng.
Lược, tức Giáo giới lược thuyết của bảy Đức Thế Tôn. Quảng, tức chi tiết gồm các
Thiên và Tụ của Giới kinh do Đức Thích Tôn quy định; nghĩa là các ba la di sự,
tăng già bà thi sa sự v.v...
+ Nhắc
rõ: văn hán: thiện thuyết, tức đọc tụng rõ ràng và mạch lạc; không
đọc thiếu sót; không đọc quá nhỏ khiến người khác nghe không rõ; không đọc giọng
ngâm nga như hát.
iv. HẬU QUẢ PHÁ GIỚI:
6. Ví như
người què chân,
Không thể
đi đâu được,
Người phá
giới cũng vậy,
Không thể
sanh trời, người.
7. Muốn
được sanh lên trời,
Hoặc sanh
vào cõi người,
Thường phải
giữ chân giới,
Đừng để bị
thương tổn.
8. Như xe
vào đường hiểm,
Lo hư chốt,
gãy trục,
Phá giới
cũng như vậy,
Khi chết
lòng sợ hãi.
LƯỢC
GIẢI:
+ Chân
giới, văn Hán: giới túc, giới như hai chân của người; thừa tiếp ý
nghĩa các câu tụng trên. Trong tụng 8, giới được dụ như cỗ xe.
v. Ý NGHĨA THUYẾT GIỚI:
9. Như
người tự soi kiếng,
Đẹp, xấu
sanh vui, buồn,
Thuyết giới
cũng như vậy,
Vẹn, hỏng
sanh mừng, lo.
10. Như hai
trận xáp chiến,
Gan, nhát
có tiến, thối,
Thuyết giới cũng như
vậy,
Tịnh, nhiễm
sanh vui, sợ.
LƯỢC
GIẢI:
Nghe thuyết
giới cũng giống như tự soi kiếng. Người soi kiếng thấy mình đẹp nên vui, cũng
vậy, người thấy mình trì giới toàn vẹn thì vui mừng. Soi kiếng thấy xấu thì
buồn; trì giới không toàn vẹn, sanh lo sợ.
Sự thuyết
giới cũng như hai trận xáp chiến: người trì giới thanh tịnh cũng như người dũng
cảm, tiến thẳng tới, người trì giới bị ô nhiễm, như kẻ khiếp nhược, chỉ muốn
tháo chạy.
vi. TÁN THÁN GIỚI KINH:
11. Thế
gian, vua là lớn,
Sông ngòi,
biển rộng hơn,
Các sao,
trăng sáng nhất,
Các Thánh,
Phật trên hết.
12. Trong
tất cả các luật,
Giới kinh
là tối thượng,
Như Lai lập
cấm giới,
Nửa tháng
tụng một lần.
LƯỢC
GIẢI:
Mở đầu
Quảng luật của Tứ phần gồm 46 bài tụng, trong đó chỉ tụng 1 đồng nhất với
tụng 1 trên đây. Lời ghi chú ở cuối 46 tụng ấy nói chúng là sáng tác của các vị
biên tập Luật tạng của bộ phái Đàm Vô Đức chứ không phải có từ sự kiết
tập của ngài Ca Diếp. Còn 12 bài tụng trên đây coi như là rút gọn ý nghĩa của 46
tụng của Quảng luật Tứ phần. Về tác giả của chúng, theo cước chú của luật
sư Đạo Tuyên trong Tỳ kheo hàm chú giới bản, là do Tôn giả Pháp Hộ. Pháp
Hộ là tên của Sơ tổ phái Đàm Vô Đức ().
Bộ phái ấy được gọi tên theo đó. Hán âm là Đàm Vô Đức, và dịch là Pháp Tạng,
hoặc Pháp Mật, hoặc Pháp Hộ.
PHỤ CHÚ:
Giới bản
của các bộ khác, gồm Ngũ phần, Tăng kỳ, Thập tụng thảy đều mở đầu với 7
bài tụng hoàn toàn đồng nhất nhau về cả văn lẫn nghĩa.
Căn bản
Thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ nại da mở đầu bằng 32 bài tụng thể thất ngôn,
tiếp theo là 5 tụng ngũ ngôn, nội dung khác hẳn các bộ khác.
Biệt
giải thoát Giới kinh mở đầu bằng 2 bài tụng; nội dung cũng khác hẳn các bộ
khác.
Dưới đây
trích dịch 7 bài tụng từ Thập tụng để tham khảo.
Trước các
bài tụng, có đoạn văn cảnh sách, và một đoạn vấn đáp tiền phương tiện của yết
ma.
Đại đức,
xin lắng nghe. Mùa đông này, thiếu một đêm nữa là qua hết một tháng, còn lại một
đêm và ba tháng. Già và chết gần kề, Phật pháp sắp diệt. Các Đại đức, vì để đắc
đạo, hãy nhất tâm cần tinh tấn. Vì sao? Chư Phật do nhất tâm cần tinh tấn mà
chứng đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, huống nữa là các thiện đạo pháp khác.
Hỏi: -
Người chưa thọ Cụ túc đã ra,
- Tăng
nay hòa hiệp, trước hết phải làm gì?
Đáp: - Bồ
tát thuyết giới.
- Thưa
các Đại đức, các Tỳ kheo không đến thuyết dục và thanh tịnh.
1. Chắp bàn
tay mười ngón,
Cúng dường
Thích Sư tử,
Tôi nay
muốn thuyết giới,
Tăng nên
nhất tâm nghe.
2. Nhẫn đến
trong tội nhỏ,
Hãy sanh
tâm lo sợ,
Có tội,
nhất tâm hối,
Về sau chớ
tái phạm.
3. Ngựa tâm
ruổi đường ác
Buông lung
khó kềm chế,
Vâng giữ
giới Phật dạy,
Như cương
vàm bền chắc.
4. Lời răn
dạy của Phật,
Người thiện
hay tín thọ,
Người ấy
ngựa đã thuần,
Hay dẹp
giặc phiền não.
5. Nếu
không vâng giáo sắc,
Cũng không
yêu kính giới,
Ngưòi ấy
ngựa không thuần,
Ngã trước
giặc phiền não.
6. Nếu
người thủ hộ giới,
Như trâu
mao tiếc đuôi,
Buộc tâm,
không buông lung,
Cũng như
vượn bị xích.
7. Ngày đêm
hằng tinh tấn
Vì cầu thật trí tuệ,
Người ấy
trong Phật pháp,
Sống đời
sống thanh tịnh.
Tiếp theo
là đơn bạch thuyết giới và tựa thuyết giới.
1. TIỀN
PHƯƠNG TIỆN
A.CHÁNH
VĂN:
Hỏi: -
Tăng họp chưa?
Đáp: -
Tăng đã họp.
Hỏi: -
Hòa hiệp không?
Đáp: -
Hòa hiệp.
Hỏi: -
Người chưa thọ Cụ túc đã ra chưa?
Đáp: -
Người chưa thọ Cụ túc đã ra.
Hỏi: -
Các Tỳ kheo không đến có thuyết dục và thanh tịnh không?
Đáp: (Nếu
không thì đáp Không. - Nếu có, thì thuyết dục như được nói trong Yết
ma yếu chỉ, Chương V, tiết 2.V).
Hỏi: -
Có ai sai Tỳ kheo Ni đến thỉnh giáo giới không?
Đáp: -
(Xem Yết ma yếu chỉ, Chương V, tiết 22. VII).
Hỏi: -
Tăng nay hòa hiệp để làm gì?
Đáp: -
Thuyết giới yết ma.
B. LƯỢC
GIẢI:
Tất cả các
pháp yết ma đều có tiền phương tiện như nhau. Ý nghĩa các vấn đáp của tiền
phương tiện, cùng các vấn đề lien hệ, xem Yết ma yếu chỉ, Chương I, tiết
2, VI và trọn Chương V.
2. ĐƠN
BẠCH THUYẾT GIỚI
A. CHÁNH
VĂN:
Đại đức
Tăng, xin lắng nghe, hôm nay là bạch (hay hắc) nguyệt, ngày thứ mười lăm (hoặc
mười bốn) chúng Tăng thuyết giới, nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng
chấp thuận hòa hiệp thuyết giới. Đây là lời tác bạch (hoặc: tác bạch như
vậy).
B. LƯỢC
GIẢI:
+ Bạch
nguyệt, ngày thứ mười lăm: Ngày thứ 15 của tháng trắng tức phần nửa của
tháng trong thời kỳ mặt trăng phát triển dần đến chỗ tròn đầy, ngày thứ 15 của
phần này tức ngày rằm theo lịch ta, Hắc nguyệt tháng đen, phần nửa của
tháng trong thời kỳ mặt trăng giảm khuyết dần, ngày thứ 15 của phần này tức ngày
30, và ngày thứ 14 tức ngày 29 theo lịch ta, hay nông lịch.
Giải thích
của Luật nhiếp 1 ():
Tháng đen hoặc tháng trắng, trong mỗi ngày cần phải ghi nhận số của ngày rồi
bạch cho chúng biết. Hoặc Thượng tọa bạch, hoặc Duy na bạch, hoặc bất cứ người
nào, bạch rằng: “Bạch các Đại đức, hôm nay là bạch (hoặc: hắc) nguyệt,
ngày (mấy)... (báo cáo công tác sẽ làm)”.
+ Nếu
thời gian thích hợp đối với Tăng: Hán: nhược tăng thời đáo; nơi khác
cũng nói: nhược tăng thời chí. Luật nhiếp 1: đây là thời gian để tác pháp
bố tát, không bị trở ngại bởi các việc khác.
A. CHÁNH
VĂN:
Thưa các
Đại đức, nay tôi sẽ tụng giới ba la đề mộc xoa. Các Tỷ kheo cùng tập họp tại một
chỗ. Hãy lắng nghe, suy nghiệm kỹ. Nếu ai tự biết có phạm, hãy tự phát lộ. Ai
không phạm thì im lặng, tôi biết các Đại đức thanh tịnh, như một người được kẻ
khác hỏi riêng điều gì thì như thật mà trả lời. Cũng vậy, Tỳ kheo nào ở trong
chúng, sau khi đã 3 lần hỏi, nhớ nghĩ mình có tội mà không phát lộ, vị ấy mắc
tội cố ý vọng ngữ. Phật dạy, cố ý vọng ngữ là pháp chướng đạo. Tỳ kheo nào nhớ
nghĩ mình có tội, muốn cầu thanh tịnh, hãy tự phát lộ. Do phát lộ mà được an
lạc.
Thưa các
Đại đức, tôi đã tụng xong tựa Giới kinh, nay hỏi các Đại đức trong đây có thanh
tịnh không? (hỏi 3 lần).
Các Đại
đức trong đây thanh tịnh, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
B. LƯỢC
GIẢI:
+ Ba la
đề mộc xoa, xem phần giới thiệu.
+ Các Tỳ
kheo cùng tập họp tại một chỗ, câu này không có trong Tứ phần luật Tỳ
kheo giới bổn, bổn tập của Hoài Tố().
Tứ phần Tăng giới bổn(),
văn có khác “chúng tập hiện tiến”. Ở đây, theo bản của Đạo Tuyên, Tứ
phần luật Tỳ kheo hàm chú giới bổn ().
+ Hãy tự
phát lộ văn Hán: ưng tự sám hối. Các từ sám hối trong Tứ
phần, ở các nơi khác đều dịch là phát lộ, nghĩa là tuyên bố hay bày
tỏ. Luật nhiếp 1()
có nêu ba hạng người nghe tụng giới: Như cái chậu để ngửa và sạch có thể chứa
đựng các vật dụng. Nếu lật úp hoặc dơ, không thể chứa đựng. Đại ý, người có tội
mà che giấu không bày tỏ, như cái chậu dơ lật úp.
+ Như
một người được kẻ khác hỏi... mà trả lời: Định nghĩa tội cố ý vọng ngữ.
Như một người: dẫn thí dụ, bất cứ người nào, trong bất cứ trường hợp
nào, ở đây không chỉ giới hạn một Tỳ kheo. Được kẻ khác hỏi riêng điều gì:
được người khác hỏi thẳng mình, và mình cần trả lời thẳng vấn đề cho người ấy.
Như thật mà trả lời: sự thật thế nào thì trả lời như vậy; nếu khác đi, tức
là cố ý vọng ngữ.
+ Cũng
vậy, Tỳ kheo nào... mắc tội cố ý vọng ngữ: Giải thích rõ tội cố ý vọng ngữ
trong trường hợp Tăng thuyết giới. Ở trong chúng: chỉ Tỳ kheo hiện diện
giữa Tăng khi Tăng thuyết giới. Ba lần hỏi: cuối mỗi thiên của giới bổn
đều có hỏi ba lần (Nay hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không?”).
Sau khi hỏi, Tỳ kheo nào nhớ nghĩ mình có phạm điều nào trong thiên vừa tụng thì
phát lộ, không phạm thì im lặng. Trái lại, có phạm mà im lặng là cố ý vọng ngữ.
Đây là loại vọng ngữ đặc biệt không do biểu nghiệp của ngữ, chỉ xảy ra trong khi
Tăng thuyết giới. Trong các trường hợp khác, có tội mà không nói là phú tàng,
tức che giấu. Trong trường hợp thuyết giới, im lặng không nói là cố ý vọng ngữ.
Các bộ phái có những giải thích khác nhau về bản chất của tội vọng ngữ này, ở
đây không cần thiết phải nêu chi tiết ().
Cố ý vọng
ngữ trong các trường hợp khác, bằng biểu nghiệp của ngữ, phạm ba dật đề,Hàm
chú giới bổn: khi Tăng thuyết giới, có tội mà im lặng, là cố ý vọng ngữ,
phạm đột kiết la ().
+ Pháp
chướng hàm đạo, chú giới bổn: chướng ngại sự chứng đắc tứ thiền, tam không,
tứ quả... Luật nhiếp 1: chướng ngại pháp, pháp gây chướng ngại
trong hai thời: trong hiện tại, nó chướng ngại các pháp thiện; trong đời vị lai,
nó chướng ngại sự tái sanh vào các cõi thiện ().
+ Tựa
Giới kinh: về Giới kinh, xem phần I (Chương mở đầu).
+ Tôi
ghi nhận như vậy, văn Hán, các dịch giả Hán khác, giống nhau: thị sự như
thị trì; riêng Nghĩa Tịnh: thị sự ngã như thị trì. Luật nhiếp 1(),
trì nghĩa là liễu tri, tức biết rõ hay ghi nhận. Huyền Tráng, Câu
xá 14, và các nơi khác, dịch trì là ức niệm, tức ghi
nhớ hay ghi nhận.
+ Toàn văn đoạn
kết này, Hán nói: Chư Đại đức thị trung thanh tịnh, mặc nhiên cố, thị sự như
thị trì, có thể dịch thoát nghĩa như sau: Thưa các Đại đức, do sự im lặng
ấy, tôi biết rõ các Đại đức trong đây thanh tịnh ().
--- o0o ---
Mục Lục Toàn Tập
Tập 1
|
1
|
2-0
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
Tập 2
|
7
|
8
|
9-1
|
9-2
|
9-3
|
9-4
|
9-5
|
9-6
|
9-7
|
9-8
|
10
Tập 3 |
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
|
20
--- o0o ---
Source:
www.phatviet.net
Vi tính: Nguyên Trang, Nhị Tường - Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-06-2004