NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2001
TOÀN TẬP
TÂM NHƯ TRÍ THỦ
--- o0o ---

TẬP 2
LUẬT TỲ
KHEO
YẾT MA YẾU CHỈ
Hòa thượng THÍCH TRÍ THỦ Soạn
CHƯƠNG NĂM
BỐ TÁT VÀ
THUYẾT GIỚI
TIẾT MỘT
DUYÊN KHỞI VÀ Ý NGHĨA
Luật Tứ
phần, chương nói về sự thuyết giới, có ghi duyên khởi thuyết giới như sau:
()
Lúc bấy
giờ, đức Phật trú tại Vương xá thành, nước Ma kiệt đà. Các nhóm ngoại đạo tại
đây cứ mỗi tháng trong các ngày mồng 8, 14, 15, 23, 29 và 30, cùng tập họp về
một chỗ để cùng giảng đạo, và thọ dụng các sự cúng dường các đệ tử tại gia.
Không khí sinh hoạt của họ vào ngày ấy rất thân mật.
Vào một
hôm, lúc vua Tần bà sa la, đệ tử tại gia của Phật đang ngự trên lầu hoàng cung,
nhìn thấy các nhóm ngoại đạo đang tụ tập về một chỗ như vậy, bèn tự nghĩ rằng:
"Trong thành này, những người Phạm chí mỗi tháng tụ họp sáu ngày, trong không
khí thân mật như thế. Nếu chúng tỳ kheo đệ tử Phật cùng tụ họp như vậy thì phước
lạc cho những người đệ tử tại gia biết bao.” Rồi nhà vua ngự đến chỗ Phật đang
ngụ, trình bày ý nghĩ của mình, đức Thế Tôn chấp nhận sự đề nghị bằng cách im
lặng.
Sau khi vua
Tần bà sa la rời chỗ ngồi trở về hoàng cung đức Thế Tôn gọi các tỳ kheo đến và
chấp thuận cho chúng tỳ kheo hành sự bố tát.
Bố tát
là dịch âm từ tiếng Phạn Posadha. Từ này là một dạng hỗn chủng của tiếng
Phạn Phật giáo; trong Pàli nó được nói là uposatha. Từ này trong tiếng Phạn tiêu
chuẩn được gọi là upavasatha, nghĩa đen của từ này là "sống gần" hay
"ngày phụng sự.” Nguyên lai trong truyền thống Vệ đà mỗi tháng thường có những
ngày hiến tế lễ Soma. Trước đó một ngày, tế sư phải dọn mình bằng cách nhịn ăn,
tiết chế các thứ dục lạc, và vào trong hỏa thất, tức ngôi nhà thờ lửa. do ý
nghĩa này, từ upavasatha được hiểu theo nghĩa bóng là "ngày kiêng cữ" hoặc "ngày
nhịn ăn" hoặc nói theo Hán "ngày trai.” Tục lệ các ngày trai như vậy có trong
nhiều tôn giáo. Ngay ở Trung quốc, khi các vua chúa muốn cử hành các lễ tế thiên
địa hay tông miếu, thường phải có những ngày gọi là trai giới.
Như vậy,
đức Phật đã chấp nhận ngày trai giới trong tập tục của truyền thống Vệ đà, nhưng
hướng đến mục đích khác hơn. Ngày đó các tỳ kheo cùng sống trong một cương giới
đều phải tập họp lại một chỗ để thuyết giới, tức đọc giới bổn Ba la đề mộc xoa.
Từ đó, bố tát và thuyết giới trở thành phận sự thường xuyên và định kỳ mà một tỳ
kheo không thể thiếu sót. Nếu thiếu sót, tỳ kheo ấy phạm tội ba dật đề và phải
được xử trị như pháp.
Luật tạng
cũng có kể rằng, vào một lúc nọ tôn giả Đại Kiếp tân na đang trú ở một nơi thanh
vắng, đến kỳ tăng thuyết giới, tôn giả tự nghĩ rằng mình vốn là người trì giới
thanh tịnh thì sự nghe thuyết giới xét ra không cần thiết. Nhưng biết được ý
nghĩa này, Phật đã đích thân đến bảo tôn giả rằng: "Này Kiếp tân na, quả thật
điều ngươi nghĩ dù ngươi có đến nghe thuyết giới hay không nghe thuyết giới thì
ngươi vẫn là người thanh tịnh bậc nhất. nhưng này Kiếp tân na, đối với việc
thuyết giới, ngươi phải cung kính, tôn trọng và chấp hành. Nếu ngươi không cung
kính, tôn trọng và chấp hành thì còn ai sẽ là người cung kính, tôn trọng, chấp
hành sự thuyết giới? ()
Nhưng
thuyết giới là thuyết những gì? Luật tạng cho biết đây cũng là câu hỏi mà các tỳ
kheo đã từng hỏi Phật, khi Ngài thiết lập sự thuyết giới định kỳ nửa tháng. Khi
được các tỳ kheo hỏi như vậy, Ngài chỉ dạy, đó là ngày chúng tỳ kheo hòa hiệp
tụng đọc ba la đề mộc xoa, và nội dung của Ba la đề mộc xoa ấy được rút gọn
trong bài kệ:
Không làm các điều ác,
Thực hành các điều thiện.
Giữa tâm ý trong sạch,
Chư Phật dạy như vậy.
Ba la đề
mộc xoa được lưu truyền giữa các bộ phái khác nhau không phải chỉ đơn giản có
như thế. Nó là một hệ thống những điều cấm kỵ, qui định những trường hợp vi phạm
và không vi phạm, cùng các hình thức xử trị và sám hối cho những tỳ kheo vi
phạm. Nói cách khác, đây là bộ luật của tăng. Khi bộ luật này được hoàn chỉnh
thành hệ thống gồm năm thiên và bảy tụ, thì việc thuyết giới không còn đơn giản
là đọc bài kệ bốn câu như đã nói. Thuyết giới kể từ bây giờ là đọc lại toàn bộ
ba la đề mộc xoa ấy. Tỳ kheo nào trong nửa tháng có vi phạm điều nào trong đó,
phải sám hối và tùy theo tội nặng nhẹ đã được quy định mà sám hối cho đúng pháp.
Tuy vậy,
định kỳ thuyết giới không có nghĩa là định kỳ sám hối. Bởi vậy, theo nguyên tắc
cơ bản của việc chấp hành các học xứ, thì khi nào một tỳ kheo tự thấy mình có
tội, hay được người khác chỉ cho biết, thì phải sám hối ngay. Nếu trong ngày hôm
đó mà không sám hối kịp, tội căn bản sẽ kéo theo một số tội tòng sinh khác, hoặc
phú tàng hay cố ý vọng ngữ nặng hay nhẹ tùy theo trường hợp.
Vậy thì,
định kỳ thuyết giới có mục đích gì?
Chúng ta
biết rằng, tăng đoàn đệ tử của Phật được thiết lập trên nguyên tắc hòa hiệp và
dân chủ. Ba la đề mộc xoa là sợi dây ràng buộc các thành viên của cộng đồng tăng
lữ bằng kỷ luật tu đạo vào đời sống hòa hiệp tập thể. Việc thuyết giới định kỳ
là biểu hiện của đời sống ấy. Nơi trú xứ mà các tỳ kheo không hòa hiệp thuyết
giới theo định kỳ nửa tháng, nơi ấy tăng đoàn được coi là bị chia rẽ. Do vậy,
việc thuyết giới định kỳ có mục đích chủ yếu là duy trì sinh mạng tồn tại của
tăng đoàn theo tinh thần hòa hiệp và thanh tịnh. Duy trì sự hòa hiệp và thanh
tịnh này là bổn phận tất yếu, không thể thiếu sót của bất cứ tỳ kheo nào.
Ngoài ra,
ngày bố tát không những chỉ giới hạn trong sự thuyết giới của tăng. Nó cũng được
mở rộng cho các đệ tử tại gia dưới hình thức thọ trì tám học xứ, gọi là giới cận
trụ, trong thời hạn một ngày một đêm. Chính do sự kiện này mà từ ô ba bà na
(upavasatha) hay bố tát (posatha) được hiểu theo một ý nghĩa rất rộng rãi. Ý
nghĩa này được phân tích theo luận Câu xá như sau: ()
Trước hết,
về từ ô ba bà sa, tiếng Phạn là Upavasatha xét về một từ nguyên, có nghĩa
là cận trụ, tức "sống gần', và sống gần ở đây có nghĩa là "gần gũi đời sống cao
thượng của thánh giả A la hán.” Như chúng ta đã biết, theo nguyên nghĩa, ngày
cận trụ là ngày một đệ tử dọn mình cho thanh tịnh để phụng sự, và do đó, cận
trụ, theo nghĩa bóng lại được hiểu là trai, tức kiêng cữ. Sự kiêng cữ chủ yếu là
tiết chế ăn uống và các sự hưởng thụ dục lạc khác. do vậy, tám giới cận trụ cũng
được gọi là bát quan trai giới.
Thứ nữa, về
từ bố tát, phiên âm của từ tiếng Phạn posatha. Đây là từ ngữ có hình thái
của tiếng Phạn hỗn chủng của đạo Phật, mà pàli đọc là uposatha, và tiếng
phạn cổ điển của nó là upavasatha như đã biết. Tuy vậy, từ posatha này
cũng được luận Câu xá giải thích rằng nó xuất phát từ hai động từ PUS: nuôi lớn,
và DHÀ: đặt để hay duy trì. Do ý nghĩa này, Hán dịch nó là trường tịnh, tức nuôi
lớn sự thanh tịnh hay các thiện pháp.
Nói tóm
lại, ngày bố tát theo phạm vi nghĩa rộng, là ngày trao giới để dọn mình, và
trường tịnh để nuôi lớn thiện pháp, là ngày mà các đệ tử tại gia tham dự đời
sống tu đạo để học tập theo nghĩa hẹp, giới hạn trong phạm vi sinh hoạt của
Tăng, thì đó là ngày định kỳ thuyết giới, để duy trì và phát triển sinh mạng của
Tăng trong tinh thần hòa hiệp và thanh tịnh.
---------------------------
TIẾT HAI
Ngày bố tát
của Tăng là ngày thuyết giới định kỳ, theo Phật chế, mỗi tháng hai lần, vào các
ngày mười lăm và ba mươi hoặc hai mươi chín nếu tháng thiếu (tháng âm lịch). Mặc
dù không được qui định rõ trong các bản luật, nhưng các luật sư Trung quốc thêm
vào một ngày dự kỳ sám hối, được tiến hành trước ngày thuyết giới định kỳ một
ngày. Mục đích của việc dự kỳ sám hối này là để kiểm điểm việc trì giới của các
tỳ kheo trong nửa tháng qua. Tỳ kheo nào có tội mà chưa kịp sám hối thì phải như
pháp mà sám hối. Tỳ kheo nào có tội nhưng không biết hay không nhớ do cố ý phú
tàng hay vị thông suốt các học xứ, sẽ được các tỳ kheo chỉ điểm cho để sám hối
cho trong sạch. Bởi vì việc chỉ điểm sự vi phạm học xứ không phải đơn giản,
không phải chỉ xét theo tội danh và tội tướng là đủ. Bằng sáu tội danh và tội
tướng còn phải xét đến các điều kiện hoàn cảnh, động cơ vi phạm, quá trình tâm
lý và hành động trước khi vi phạm, trong và sau khi vi phạm. Do những điều kiện
phức tạp ấy mà việc định tội thường gây tranh luận và tranh chấp, đôi khi nó đưa
đến sự chia rẽ trong Tăng. Để tránh sự kiện này có thể xảy ra ngay trong lúc
thuyết giới, làm tổn thương sự hòa hiệp của Tăng, do đó cần có dự kỳ sám hối.
Dự kỳ sám
hối nếu được thực hiện đầy đủ chi tiết thì nó cũng tương đương với sự thuyết
giới, duy chỉ không có tác pháp yết ma. Tức là, trong dự kỳ sám hối, kiểm điểm
xem các học xứ có tỳ kheo nào vi phạm mà không biết, hay biết mà cố ý che giấu
và không chịu sám hối. Khi một tỳ kheo bị kết tội, theo một tội danh nào đó, gồm
cả tội căn bản và các tội tòng sanh, vị ấy phải sám hội cho thanh tịnh trước khi
Tăng thuyết giới.
Các hình
thái vi phạm, các biện pháp xử trị, và các phương pháp sám hối, đều được qui
định trong giới bổn tỳ kheo, ở đây xin phép khỏi nhắc đến.
Trong
nguyên tắc sám hối, người có tội phải hướng đến người thanh tịnh, nói rõ tội
danh mình phạm mà sám hối. Nếu trong một trú xứ mà toàn thể Tăng đều phạm tội,
hay nghi ngờ có phạm tội mà chưa kịp có đủ thời gian để thẩm cứu, thì phải thỉnh
một tỳ kheo thanh tịnh ở trú xứ khác đến để tác pháp sám hối cho. Nếu không thể
thỉnh được tỳ kheo thanh tịnh nào đến, thì tăng ở đây phải sai hai hoặc ba tỳ
kheo sang trú xứ khác có tỳ kheo thanh tịnh mà xin tác pháp sám hối. Sau khi tác
pháp, các tỳ kheo này được coi là thanh tịnh, sẽ trở về trú xứ của mình mà tác
pháp cho các tỳ kheo khác. Thảng hoặc, không thể thỉnh cũng không thể sai, thời
gian gấp rút, hay vì lý do nào khác, toàn thể Tăng trong trú xứ này phải tac1
pháp yết ma sám hối tập thể.
Theo phạm
vi rộng rãi, thì mỗi tháng có từ 4 đến 8 ngày bố tát, gồm các ngày 7 và 8, 14 và
15, 22 và 23, 29 và 30. Đây là những ngày để cho chúng đệ tử tại gia thọ giới
cận trụ, học tập đời sống xuất gia. Nhưng trong sinh hoạt của Tăng, mỗi tháng
chỉ có hai ngày bốt tát, là những ngày định kỳ thuyết giới. Đây là định kỳ bắt
buộc.
Nếu có
những trường hợp nạn duyên, tức những tai họa bất ngờ xảy đến cho Tăng, không
thể giữ đúng hạn kỳ thuyết giới, thì ngày thuyết giới có thể triển hạn, dời sang
ngày khác. Những tai họa được kể là do vua chúa đưa đến, do đạo tặc, do nước, do
lửa, do bệnh, do người, do ma quỉ, hay do ác thú. Việc thuyết giới không tác
pháp được trong hai ngày theo định kỳ chính thức mà thực hiện trong khoảng giữa
hạn kỳ này với hạn kỳ sau, được gọi là trung gian bố tát. Trừ hai ngày chính
thức trong tháng, và một ngày trước ngày đó những ngày còn lại đều được gọi là
trung gian. Như vậy, nếu hạn kỳ 15 phải thuyết giới, nhưng do tai họa bất ngờ,
việc thuyết giới được dời sang ngày 16, hoặc ngày thuận tiện nào đó trong những
ngày tiếp theo, triển hạn lâu nhất đến ngày 28 hoặc 27 nếu tháng thiếu. Nếu
thuyết giới vào ngày 30 bị đình chỉ, thì sự triển hạn cũng tương tợ, và lâu nhất
là đến ngày 13. Theo đó thì việc thuyết giới không được tiến hành trong hai ngày
liên tiếp nhau; mà cần phải cách khoảng ít nhất một ngày. Có hai lý do cần phải
có ngày cách khoảng này. Thứ nhất, trong trường hợp phạm vi cương giới rộng rãi,
một tỳ kheo ở xa giới trường nhất phải đi bộ hết một ngày mới đến được địa điểm
thuyết giới, thì việc thuyết giới cách nhật như vậy mới có đủ thời gian để tập
hợp các tỳ kheo. Thứ hai, cũng nói là để có đủ thời gian tác pháp sám hối, hầu
có sự thanh tịnh và hòa hợp trong Tăng trước khi thuyết giới.
Như vậy,
nếu hạn kỳ chót của ngày trung gian bố tát mà Tăng vẫn chưa thuyết giới được,
thì sự thuyết giới của định kỳ trước sẽ được hợp làm một với định kỳ sau. Trong
một định kỳ, tại một trú xứ, không được thuyết giới hai lần. Sự thuyết giới hai
lần trong một định kỳ là dấu hiệu sự chia rẽ trong Tăng, do đó tuyệt đối không
được phép làm.
Việc triển
hạn ngày thuyết giới, ngoài lý do vì tám tai họa bất ngờ như đã kể, còn có một
lý do trọng yếu khác. Đó là tranh chấp giữa Tăng chưa được giải quyết. Sự tranh
chấp này phần lớn do tranh luận để kết tội một tỳ kheo vi phạm một học xứ nào
đó. Nếu sự tranh chấp này được giải quyết êm đẹp, khiến Tăng hòa hợp như cũ
trước khi thuyết giới, thì bấy giờ Tăng cần phải tác pháp yết ma đình chỉ tranh
chấp để cùng thuyết giới chung. Văn bạch yết ma như sau:
Đại đức
Tăng, xin lắng nghe. Chúng tăng do bởi tránh sự khiến xảy ra tranh chấp, khiến
Tăng không hòa hợp. Tăng bị tan vỡ, Tăng bị hoen ố, tăng bị chia rẽ thành hai
nhóm. Nay người phạm tội đã nhận biết mình phạm tội, và đã sám hối, sự hoen ố
của Tăng đã được diệt trừ. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay chấp
thuận hòa hiệp thuyết giới. đây là lời tác bạch.
Bạch yết ma
được thành tựu như vậy rồi. Tăng mới cùng hòa hợp thuyết giới như thường lệ.
Thảng hoặc, tại một trú xứ nào đó, các tỳ kheo ở đây đang hòa hợp và không có
dấu hiệu gì để phải triển hạn ngày thuyết giới. Nhưng bất ngờ các tỳ kheo ở đây
hay biết rằng có một số tỳ kheo ở các trú xứ khác ưa tranh chấp hay đang tranh
chấp và đang đến trú xứ này để thuyết giới. Muốn tránh sự tranh chấp có thể xảy
ra khiến Tăng không thể hòa hợp thuyết giới, thì các tỳ kheo ở trú xứ này nên
thuyết giới trước một ngày, trước khi các tỳ kheo các trú xứ kia đến. Như định
kỳ thường xuyên là ngày 15 thì việc thuyết giới nên nói vào ngày 14. Trường hợp
không tiên liệu trước sự việc xảy ra như vậy để thuyết giới trước, mà trong lúc
các tỳ kheo tại trú xứ này đang tập họp vào giới trường để tác pháp thuyết giới,
bấy giờ mới nhận biết, thì các tỳ kheo thường trú tại trú xứ này có thể âm thầm
rút lui khỏi giới trường, ra ngoài phạm vi đại giới, kết tiểu giới để thuyết
giới; nhường lại giới trường và cả đại giới cho nhóm tỳ kheo khách đang có vấn
đề tranh chấp ấy. Nếu có thể rút lui khỏi giới trường và đại giới, thì Tăng
thường trú nên tác pháp yết ma dời ngày thuyết giới. Văn bạch yết ma như sau:
Đại
đức Tăng, xin lắng nghe. nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận
ngày hôm nay tăng không thuyết giới, mà dời lại đến ngày 14 (hay
15) tháng đen (hay tháng trắng) sẽ thuyết giới. Đây là lời tác
bạch.
Sau khi tác
pháp dời ngày thuyết giới đến hết ngày triển hạn mà nhóm tỳ kheo khách vẫn chưa
dời đi chỗ khác khiến Tăng thường trú không thể hòa hợp thuyết giới, thì Tăng ở
đây lại tác pháp dời thêm ngày nữa. Văn bạch như sau:
Đại
đức Tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng. Tăng chấp thuận
ngày hôm nay Tăng không thuyết giới, mà dời lại đến ngày 15 (hay)
tháng trắng (hay tháng đen) sẽ thuyết giới. Đây là lời tác bạch.
Nếu dời
thêm một hạn kỳ như vậy nữa mà nhóm tỳ kheo khách vẫn chưa chịu đi khỏi, thì
Tăng thường trú cần áp dụng luật cưỡng bức các tỳ kheo khách ấy phải hòa hợp
thuyết giới.
Theo nguyên
tắc chung, mỗi loại yết ma đều có bốn trường hợp cần nghiệm xét để biết thành
tựu hay không thành tựu. Bốn trường hợp tổng quát này là:
1.
biệt chúng phi pháp;
2.
biệt chúng như pháp;
3.
hòa hợp phi pháp;
4.
hòa hợp như pháp.
Trong
đó, trường hợp thứ tư được nói là yết ma thành tựu. Yết ma thuyết giới cũng
không ngoàibốn trường hợp tổng quát vừa nêu. Chi tiết các trường hợp này đã được
nói trong chương I, nên không nhắc lại.
Để cho yết
ma thuyết giới được thành tựu, khi tác pháp cần phải cứu xét cẩn thận các trường
hợp biệt chúng và phi pháp. Trong văn để thuyết giới, vì đây là loại tác pháp
định kỳ thường xuyên, và là phận sự của tất cả tỳ kheo không trừ một ai, do đó
có một vấn đề riêng biệt không giống các loại yết ma khác.
Muốn cho
Tăng hoàn toàn hòa hợp thuyết giới, có bốn vấn đề cần lưu ý: địa điểm thuyết
giới, thời gian, nhân số và phương thức tập hợp. Địa điểm thuyết giới là giới
trường và đại giới sống chung của tỳ kheo trong cùng một trú xứ. Vấn đề này đã
được nói rõ trong chương II, về cương giới. Thời gian thuyết giới là các ngày
định kỳ bố tát của Tăng cũng đã được nói rõ ở đoạn trên. Nhân số, là số tỳ kheo
sống chung cùng trú xứ; trong đây có vấn đề kiểm điểm tăng số bằng phương pháp
hành xá la, tức đếm thẻ, và việc gởi dục của các tỳ kheo vì những duyên sự chính
đáng không dự nghe thuyết giới. Về phương thức tập họp, là sự đánh hiệu kiền
chùy; điều này cũng đã được nói rõ trong chương I, tổng quát về các thủ tục tiến
hành tác pháp yết ma. Trong mục này, sẽ chỉ nói riêng về vấn đề hòa hợp. Việc
kiểm điểm tăng số bằng cách đếm thẻ và việc gởi dục cũng như thuyết dục sẽ được
nói trong các mục kế tiếp.
Trước khi
đi vào một số chi tiết trong vấn đề tập tăng hòa hợp, ở đây cần nhắc lại điều đã
được nói trong chương I, đó là: hai phân loại tổng quát về Tăng, gồm tăng thường
trú và Tăng chiêu đề. Tăng thường trú là một cộng đồng gồm các tỳ kheo cùng sống
chung trong một cương giới già lam trong một khoảng thời gian nào đó. Đời sống
nguyên thủy của tỳ kheo, không hề định cư lâu dài tại một trú xứ. Do sự phát
triển chế độ tăng viện về sau, có những tỳ kheo định cư hoặc vĩnh viễn hoặc lâu
dài tại một trú xứ. Dù vậy trong tinh thần luật chế, tăng thường trú không phải
là chủ nhân của trú xứ ấy. Cho nên, khi có vấn đề tăng sự gì xảy ra cần giải
quyết theo các nguyên tắc của luật chế, tại một trú xứ nào, thì sự giải quyết
phải dựa trên tinh thần dân chủ và bình đẳng, không phân biệt tăng thường trú
hay tăng khách mà tất cả đều có những quyền lợi và những bổn phận ngang nhau.
Còn Tăng
chiêu đề, tức tăng bốn phương, chỉ cho các tỳ kheo không thuộc về một trú xứ nào
cả. Họ đến hay đi tùy sở thích, tùy nhu cầu hành đạo và hóa đạo. Nhưng khi họ
đến một trú xứ nào, thì họ được coi là thuộc trú xứ đó, cùng dự các tăng sự và
cùng được phân chia đồng đều các lợi dưỡng ngang như các tỳ kheo thường trú ở
đó. Quyền lợi và bổn phận của họ trong vấn đề thuyết giới cũng vậy.
Như vậy,
không có trú xứ nào thuộc hẳn về nhóm tăng nào làm chủ, dù là Tăng thường trú
hay tăng chiêu đề. Điều này cần ghi nhận để có thể hiểu rõ các sự việc có thể
xảy ra sau đây.
Về hạn
kỳ thuyết giới. Tại một trú xứ, các tỳ kheo thường trú ở đây tất nhiên có
định kỳ thuyết giới theo sự thuận tiện của họ. Nếu không có duyên sự bất ngờ nào
xảy ra, đến định kỳ thuyết giới, các tỳ kheo thường trú của trú xứ này tập tăng
hòa hợp thuyết giới theo thường lệ. Nhưng nếu vào ngày thuyết giới, có một số tỳ
kheo từ các trú xứ khác đến, hoặc các tỳ kheo thuộc tăng chiêu đề đến dự thuyết
giới, thì hạn kỳ thuyết giới cần được giải quyết linh động tùy theo yêu cầu. Thí
dụ, các tỳ kheo thường trú theo thông lệ thuyết giới vào ngày 15. Nhưng ngày 14
có các tỳ kheo đến, họ muốn thuyết giới vào ngày 14 để có thể phù hợp với hoàn
cảnh của họ. Trong trường hợp này, nếu số tỳ kheo thường trú ít hơn tỳ kheo
khách, thì thẩm quyền thuộc về sự đồng ý chung của các tỳ kheo khách, mà thuyết
giới vào ngày 14. Trái lại, nếu số tỳ kheo khách ít hơn họ phải tuân theo thông
lệ và quyết định của các tỳ kheo thoe thường trú. Chúng ta cũng nên nhắc lại
rằng, trong một nửa tháng, tại một trú xứ không được phép có hai ngày thuyết
giới trừ trường hợp trung gian thuyết giới nhưng cũng không được phép thuyết
giới trong hai ngày liên tiếp. Nói đơn giản, tỳ kheo thường trú không thể tự nói
mình là chủ nhân của trú xứ mà tự quyết định thuyết giới hay không thuyết giới
vào ngày nào, bất chấp ý kiến của tỳ kheo khách.
Về thể
thức thuyết giới: Trong khi các tỳ kheo đang thuyết giới, có một số các tỳ
kheo khách đến. Trường hợp này có một số chi tiết khác nhau.
Tỳ kheo
khách, bất kể là một hay nhiều, khi đến một trú xứ nào mà nơi đó tăng đang
thuyết giới, nhất thiết phải tham dự, không được phép ở ngoài. Nếu không tham
dự, tỳ kheo này phạm tội biệt chúng, và cần được xử trị như pháp. Nếu họ đến
trễ, khi Tăng đã tụng xong phần tựa, hay xong toàn bộ giới kinh, các tỳ kheo
khách này phải bạch Tăng rằng mình thanh tịnh. Trong trường hợp số tỳ kheo khách
bằng hay đông hơn số tỳ kheo đang thuyết giới, họ có thể yêu cầu thuyết lại từ
đầu, nhưng chỉ đọc từ phần tựa trở xuống chứ không bạch yết ma nữa.
Ở trú xứ
nào chỉ có một cho đến ba tỳ kheo thường trú, không thể tác pháp yết ma thuyết
giới, đến ngày thuyết giới các tỳ kheo này dọn sẵn các chỗ ngồi nghe thuyết giới
và chờ xem có tỳ kheo khách nào đến cho đủ số tăng thuyết giới. Nếu chờ không
được, họ tác pháp đối thủ với nhau. Lần lượt một tỳ kheo này hướng đến hai tỳ
kheo khác, hoặc lạy hoặc quỳ hoặc đứng chắp tay, tùy theo giới lạp lớn nhỏ và
bạch rằng:
Bạch
hai Đại đức, xin ghi nhận cho rằng, hôm nay là ngày 15 (hoặc 14)
tháng trắng (hoặc đen) ngày chúng tăng thuyết giới. Tôi tỳ kheo…
thanh tịnh. (nói ba lần)
Hai tỳ kheo
kia đáp: Thiện (hoặc nói: Lành thay)
Tỳ kheo tác
pháp bạch: Nhĩ.
Nếu chỉ có
hai tỳ kheo tác pháp với nhau thì chỉ nói: "bạch Đại đức…" bỏ
tiếng "hai.” Nếu chỉ có một tỳ kheo duy nhất thì tác pháp tâm niệm
thuyết giới; tự mình nói như vầy:
Hôm
nay là ngày 15 (hay 14) tháng trắng (hoặc đen) là
ngày chúng tăng thuyết giới. Tôi tỳ kheo… thanh tịnh. (nói ba lần)
Ngày thuyết
giới mà tỳ kheo nào không nói như vậy, phạm tội ba dật đề. Vào ngày thuyết giới,
khi các tỳ kheo đến một trú xứ nào, phải lưu tâm nhận xét Tăng ở đây đã thuyết
giới chưa. Khi đến một trú xứ, vào trong giới trường, thấy có dấu hiệu chuẩn bị
thuyết giới, nhưng không thấy có tỳ kheo thường trú nào ở đó, các tỳ kheo khách
phải đi tìm kiếm; nếu không tìm thấy, phải gọi lớn; nếu gọi mà cũng không thấy,
họ có thể cùng nhau hòa hợp tác pháp thuyết giới như là những tỳ kheo thường trú
vậy.
Còn các tỳ
kheo thường trú, sau khi thuyết giới có việc cần đi phải dặn người ở lại, hoặc
dặn sa di, hoặc dặn người giữ vườn rằng Tăng ở đây đã thuyết giới xong. Nếu hoàn
toàn không có ai để dặn như vậy cả, họ phải làm dấu như rải hoa, hay viết giấy
dán vào một chỗ nào đó để báo cho biết rằng ở đây đã thuyết giới. Như vậy, tránh
cho các tỳ kheo khách đến biết rằng trú xứ này Tăng đã thuyết giới, bèn không
hòa hiệp thuyết giới. Bởi vì cùng một trú xứ một ngày không được phép hai lần
thuyết giới.
Thủ tục
kiểm tăng số, danh từ luật gọi là hành xá la hay hành trù, nghĩa là phát và đếm
thẻ. Công dụng của việc hành xá la đã được nói trong chương I. Trong vấn đề
thuyết giới ở đây, việc hành xá la có mục đích kiểm điểm số tỳ kheo hiện diện.
Bởi vì tất cả các tỳ kheo cùng sống chung trong một trú xứ, trừ những vị có
duyên sự đặc biệt thì phải gởi dục, còn tất cả phải tập họp nghe thuyết giới.
Khi kiểm điểm tăng số nếu phát hiện có tỳ kheo nào vắng mặt không lý do, Tăng
phải cho đi tìm khắp trong cương giới của trú xứ. Nếu tỳ kheo ấy đã ra khỏi trú
xứ thì thôi, còn nếu đang ở trong phạm vi của trú xứ thì phải gọi đến. Tăng tập
họp thuyết giới mà thiếu một tỳ kheo trong cùng trú xứ, Tăng yết ma bất thành,
vì đây là dấu hiệu có sự chia rẽ trong Tăng.
Trong thời
kỳ đức Thích tôn tại thế, và cả trong thời luật tạng, được hình thành, do sự ghi
chép bằng văn tự chưa được phổ biến, cho nên phải dùng đến thẻ kiểm điểm tăng
số. Người phát thẻ và thâu thẻ để đếm phải được Tăng sai. Thẻ được phát cho tất
cả tỳ kheo hiện diện, luôn cả tỳ kheo thường trú và tỳ kheo khách, sau đó thâu
lại và đếm để biết số tỳ kheo đang hiện diện là bao nhiêu. Tỳ kheo hành xá la
xong, bạch trình Tăng biết kết quả.
Các công
việc hành xá la này đều có yết ma cả, và đều kể chung là yết ma thuyết giới. Do
đó, khi tác pháp chỉ có một tiền phương tiện chung. Tuy nhiên, ngày nay do sự
tiện lợi của việc ghi chép, vấn đề kiểm điểm tăng số được tiến hành đơn giản hơn
nhiều, và cũng rất chính xác. Bởi vì các tỳ kheo thường trú trong một trú xứ đều
có danh sách cả. Khi dò theo danh sách này, có thể biết ai khiếm diện, có hay
không có lý do chính đáng. Ngoài ra, các tỳ kheo khách từ các trú xứ khác đến,
đều có thể thông báo cho người chấp sự của trú xứ sự hiện diện của mình. Vì
những lý do như vậy nên hiện nay trong tác pháp yết ma thuyết giới mục hành xá
la không mấy khi được thực hiện. Người chấp sự của tăng có bổn phận kiểm điểm
tăng số, rồi trình tăng biết. Văn tác bạch tăng số như sau:
Bạch
Đại đức tăng, hôm nay là ngày… tháng… ngày chúng tăng thuyết giới. Tôi đã kiểm
điểm tăng số, gồm (bao nhiêu) sa di và (bao nhiêu)
tỳ kheo.
Sau khi
nghe tiếng hiệu kiền chùy, tất cả tỳ kheo trong cùng trú xứ phải vân tập vào
giới trường để nghe thuyết giới, không một ai được phép khiếm diện, trừ những vị
có duyên sự đặc biệt, như duyên sự Tam bảo, bịnh nặng, hay phải săn sóc người
bịnh. Những vị này phải gởi dục và thuyết tịnh. Gởi dục nghĩa là gởi ý muốn của
mình đến tăng. Ý muốn ở đây là sự nhất trí của mình về việc tăng yết ma thuyết
giới. Thuyết tịnh là nhờ người trình lên Tăng rằng mình thanh tịnh, không có
phạm học xứ nào. Khi gởi dục, gồm luôn cả thuyết tịnh.
Người nhận
dục phải là một tỳ kheo sẽ hiện diện khi tăng tác pháp yết ma thuyết giới. Vị tỳ
kheo nhận ducï có thể là hàng Thượng tọa hoặc trung tọa hay hạ tọa. Nhưng hàng
Thượng tọa có thể không nhận dục nếu không muốn; còn các tỳ kheo khác không được
phép không nhận dục. Tuy nhiên, để có sự thuyết dục giữa Tăng không phiền phức,
thường việc nhận dục do một tỳ kheo phụ trách.
Thời gian
để gởi dục và thuyết tịnh được thực hiện trong khoảng từ khi ánh sáng ban mai
bắt đầu cho đến khi Tăng tác pháp. Nếu gởi dục xong mà sau đó người gởi dục mới
ra khỏi phạm vi cương giới của trú xứ, trong lúc tăng đang thuyết giới thì sự
thuyết dục bất thành. Chỉ cần bước ra khỏi các đường ranh của trú xứ là việc
thuyết dục đã bất thành, chứ không đợi phải đi đâu xa.
Việc gởi
dục tổng quát có hai cách: bằng lời nói hoặc bằng cách ra dấu. Tức là, nếu người
bịnh nặng không nói được, khi muốn gởi dục chỉ cần phát biểu một cử chỉ nào đó,
bằng cách đưa tay ra dấu hay lấy mắt ra dấu, hay ra dấu bằng bất cứ động tác nào
của thân thể, để người khác biết rằng mình muốn gởi dục. Văn gởi dục, muốn nói
vắn tắt hay nói đầy đủ tùy ý, tùy hoàn cảnh của mình. Văn gởi dục đầy đủ được
nói như sau:
Đại
đức nhất tâm niệm. Tôi tỳ kheo… vì (duyên sự). Tăng sự như pháp,
xin gởi dục và thanh tịnh. (nói một lần)
Người nhận
dục đáp: Thiện.
Người gởi
dục nói: Nhĩ.
Trường hợp
tỳ kheo bịnh nặng, cho đến cả việc ra dấu để gởi dục cũng không làm được, thì
thế nào?
Theo luật
chế, Tăng phải cho người khiêng tỳ kheo bịnh ấy vào giới trường. Nếu không thể
khiêng, vì sự dao động làm đau nhức người bịnh và không có cách nào khác hơn
nữa, thì Tăng phải ra khỏi phạm vi cương giới của trú xứ, kết tiểu giới mà
thuyết giới. Nếu không có cách nào khác, thì không có thể biệt chúng thuyết
giới. Sự việc này có mục đích tránh bất cứ dấu hiệu chia rẽ nào có thể xảy ra
giữa Tăng.
Người nhận
dục, sau khi đã nhận dục của các tỳ kheo khác, có công việc bất ngờ xảy đến cần
phải ra khỏi trú xứ trước khi đi, phải chuyển việc thuyết dục đến một tỳ kheo
khác. Văn chuyển việc gởi dục như sau:
Đại
đức nhất tâm niệm. Tôi tỳ kheo… đã nhận sự gởi dục của tỳ kheo… Tỳ kheo kia, và
bản thân tôi, vì (duyên sự) tăng sự như pháp, xin gởi dục và thanh
tịnh. (nói 1 lần)
Tỳ kheo
cuồng si là người bất thường, nhưng không điên hay hoàn toàn mất trí. Vị ấy có
khi nhớ và biết rằng Tăng thuyết giới bèn đến dự; hoặc có khi không nhớ và không
đến dự. Nếu tỳ kheo tuy bất thường, nhưng luôn vẫn nhớ và biết việc Tăng thuyết
giới, hoặc ngược lại, hoàn toàn không hay biết gì về việc ấy cả. Trong cả hai
trường hợp vừa kể Tăng không tác pháp yết ma công nhận cuồng si cho tỳ kheo thứ
hai này. Chỉ tác pháp cho trường hợp tỳ kheo đầu. Tỳ kheo tâm tánh thất thường
nào đã được Tăng tác pháp yết ma công nhận là cuồng si rồi, khi Tăng thuyết
giới, có nhớ thì đến dự, nhược bằng không nhớ thì thôi và không cần gởi dục dù
vẫn ở trong phạm vi cương giới của trú xứ trong lúc Tăng thuyết giới mà không hề
mang tội biệt chúng. Văn bạch yết ma như sau, tập Tăng, vấn đáp tiền phương tiện
theo thông lệ. Tỳ kheo yết ma bạch Tăng:
Đại
đức tăng, xin lắng nghe. Tỳ kheo… kia tâm loạn cuồng si, hoặc nhớ hoặc không nhớ
việc thuyết giới, hoặc đến dự hoặc không đến dự. Nếu thời gian thích hợp đối với
Tăng, Tăng nay chấp nhận tác pháp yết ma công nhận tỳ kheo… kia là người tâm
loạn cuồng si. Nếu khi Tăng tác pháp yết ma thuyết giới, tỳ kheo ấy có thể nhớ
hay không nhớ, có thể đến dự hay không đến dự. Đây là lời tác bạch. Đại đức
tăng, xin lắng nghe, tỳ kheo… kia tâm loạn cuồng si, hoặc nhớ việc thuyết giới,
hoặc không nhớ việc thuyết giới, đến dự hoặc không đến dự. Tăng nay tác pháp yết
ma công nhận tỳ kheo ấy là người tâm loạn cuồng si. Nếu khi Tăng thuyết giới, tỳ
kheo ấy có thể nhớ, hoặc không nhớ, có thể đến dự hoặc không đến dự. Các trưởng
lão nào chấp thuận, Tăng nay tác pháp yết ma công nhận tỳ kheo ấy là người tâm
loạn cuồng si, nếu khi Tăng tác pháp yết ma thuyết giới, tỳ kheo ấy có thể nhớ
hay không nhớ, có thể đến dự hoặc không đến dự, thì im lặng. Ai không chấp thuận
hãy nói.
Tăng
đã chấp thuận, tác pháp yết ma công nhận tỳ kheo… là người tâm loạn cuồng ci, có
nhớ hoặc không nhớ, có đến hoặc không đến dự thuyết giới, vì đã im lặng. Tôi ghi
nhận như vậy.
Một thời
gian sau, nếu tỳ kheo đã được công nhận là bất thường đó hết bệnh, Tăng cần tác
pháp yết ma giải bịnh cuồng si, để vị ấy trở lại sinh hoạt bình thường như các
tỳ kheo khác.
Tập họp
Tăng, vấn đáp tiền phương tiện như thông lệ. Tỳ kheo khỏi bịnh ấy bước ra đảnh
lễ Tăng ba lạy rồi quỳ xuống, trình Tăng rằng mình đã lành bịnh cuồng si, yêu
cầu Tăng tác pháp giải bịnh cuồng si cho.
Vị tỳ kheo
yết ma nói:
Đại đức
đã khỏi bịnh cuồng si, Đại đức nên thỉnh cầu Tăng tác pháp yết ma giải bịnh
cuồng si. Nếu Tăng chấp thuận, sẽ vì Đại đức mà tác pháp.
Tỳ kheo
đương sự quì bạch Tăng:
Đại
đức tăng, xin lắng nghe. Con tỳ kheo… trước đây mắc bịnh cuồng si, khi thuyết
giới, hoặc nhớ hoặc không nhớ, hoặc đến dự hoặc không đến dự. Tăng đã vì con tác
pháp yết ma công nhận bịnh cuồng si. Nay con đã khỏi bịnh cuồng si, trí nhớ đã
phục hồi, cầu xin yết ma giải bịnh cuồng si. Ngưỡng mong Tăng vì con, tỳ kheo…
tác pháp yết ma giải bịnh cuồng si. Xin thương tưởng con. (nói ba lần)
Tỳ kheo yết
ma bạch Tăng:
Đại đức
tăng, xin lắng nghe. Tỳ kheo… này, trứớc đây mắc bịnh cuồng si, khi thuyết giới,
hoặc nhớ hoặc không nhớ, hoặc đến dự hoặc không đến dự. Tăng đã tác pháp yết ma
công nhận bịnh cuồng si ấy. Nay bịnh cuồng si đã khỏi, tỳ kheo này cầu xin yết
ma giải bịnh cuồng si. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng. Tăng nay chấp
thuận, Tăng tác pháp yết ma giải bịnh cuồng si cho tỳ kheo… này. Đây là lời tác
bạch.
Đại
đức tăng, xin lắng nghe. Tỳ kheo… này trước đây mắc bịnh cuồng si, khi thuyết
giới hoặc nhớ hoặc không nhớ, hoặc đến dự hoặc không đến dự. Tăng đã tác pháp
yết ma công nhận bịnh cuồng si ấy. Nay bịnh cuồng si đã khỏi, tỳ kheo này xin
cầu yết ma giải bịnh cuồng si. Các Trưởng lão nào chấp thuận, Tăng nay tác pháp
yết ma giải bịnh cuồng si cho tỳ kheo… thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.
Tăng
đã chấp thuận tác pháp yết ma giải bịnh cuồng si cho tỳ kheo… vì đã im lặng. Tôi
ghi nhận như vậy.
Mỗi nửa
tháng, các tỳ kheo ni phải sai người sang Đại tăng cầu thỉnh giáo thọ. Đây là
một trong tám kỉnh pháp, là nền tảng cho sự tồn tại của ni chúng. Theo tinh thần
của điều khoản này, đức Phật trao trách nhiệm giáo dục các tỳ kheo ni cho các tỳ
kheo về pháp và luật. Tỳ kheo nào không được tăng sai, không được phép tự ý sang
dạy dỗ ni chúng. Nếu làm trái, là phạm ba dật đề. Như vậy, bổn phận của ni chúng
là trong mỗi nửa tháng phải sai người sang tỳ kheo tăng thỉnh giáo thọ sư, và
bổn phận của tỳ kheo tăng là phải sai người giáo thọ ni theo lời thỉnh cầu ấy.
Người được
tăng sai giáo thọ ni phải đủ mười đức tánh:
1.
đã đủ hai mươi hạ;
2.
giới luật đầy đủ;
3.
đa văn, kiến thức rộng rãi;
4.
thông suốt hai bộ luật (tỳ kheo và tỳ kheo ni);
5.
quyết đoán không do dự, liên hệ đến các vấn đề pháp và luật;
6.
không xuất thân từ thành phần hèn hạ;
7.
dung mạo khả quan;
8.
giỏi thuyết pháp;
9.
có thể thuyết pháp khích lệ, khiến mọi người hoan hỉ;
10.
chưa từng phạm các giới trọng.
Ni tăng yết ma sai người thỉnh giáo
thọ
Ni chúng
tập họp, tác pháp tiền phương tiện như thông lệ. Vị tỳ kheo ni yết ma hỏi:
Trong
chúng đây ai có thể làm người thọ sai, sang Đại tăng thỉnh cầu giáo thọ?
Tỳ kheo ni
nào có khả năng làm người thọ sai, lên tiếng bạch:
Tôi tỳ
kheo ni… có thể đi thỉnh cầu.
Bấy giờ tỳ
kheo ni yết ma tác pháp sai người cầu giáo thọ.
Đại
đức ni tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp
thuận, sai tỳ kheo ni… thay tỳ kheo ni tăng đến Đại tăng cầu thỉnh giáo thọ theo
thông lệ nửa tháng. Đây là lời tác bạch.
Đại
đức ni tăng, xin lắng nghe. Tăng sai tỳ kheo ni… thay tỳ kheo ni tăng đến đại
tăng cầu thỉnh giáo thọ theo lệ nửa tháng. Các Trưởng lão ni nào chấp thuận Tăng
sai tỳ kheo ni… thay tỳ kheo ni tăng đến Đại tăng cầu thỉnh giáo thọ theo thông
lệ nửa tháng thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.
Tăng
đã chấp thuận, Tăng sai tỳ kheo ni… thay tỳ kheo ni tăng đến Đại tăng cầu thỉnh
giáo thọ theo thông lệ nửa tháng, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
Tỳ kheo ni
thọ sai cần có một hoặc hai tỳ kheo ni khác đi theo làm bạn đồng hành. Những
người đi theo không cần tác pháp yết ma. Theo luật ni, khi đi vào chùa tăng,
phải bạch trước, nếu không như vậy là phạm ba dật đề.
Việc bạch
tăng cầu thỉnh giáo thọ có thể trực tiếp trong lúc Tăng yết ma thuyết giới và
gọi vào; hoặc gián tiếp, tức nhờ một tỳ kheo chấp sự của Tăng, khi Tăng yết ma
thuyết giới, hỏi đến việc ai sai tỳ kheo ni đến thỉnh giáo giới, thì bạch Tăng
cầu thỉnh hộ. Nếu trực tiếp thỉnh cầu văn bạch sẽ được nói rõ sau trong mục yết
ma thuyết giới. Dưới đây là văn bạch chúc thỉnh, nghĩa là nhờ bạch tăng thỉnh
hộ.
Bạch
Đại đức (nói tên chùa ni) tỳ kheo ni tăng thanh tịnh hòa hợp, đảnh
lễ tỳ kheo tăng cầu thỉnh giáo thọ sư, ngưỡng mong Đại đức vì chúng con bạch
Tăng. Từ mẫn cố. (nói ba lần)
Tỳ kheo
được thọ chúc nhận lời thỉnh cầu của ni. Ngày hôm sau, khi Tăng tác pháp thuyết
giới, đến đoạn hỏi có ai sai tỳ kheo ni đến thỉnh cầu giáo thọ không, thì vị này
chuyển lời thỉnh cầu của ni chúng lên Tăng rằng:
Bạch
Đại đức tăng (nói tên chùa ni) tỳ kheo ni tăng thanh tịnh hòa hợp,
đảnh lễ tỳ kheo tăng cầu thỉnh giáo thọ sư. (nói ba lần)
Thượng tọa
hỏi khắp trong Tăng rằng ai có thể đảm nhiệm việc giáo thọ ni hay không. Nếu
không có tỳ kheo nào có thể đảm nhiệm việc này, Thượng tọa nói với tỳ kheo thọ
chúc:
Nay đã
thỉnh khắp trong Tăng nhưng không có ai đảm nhiệm việc giáo thọ ni. Nếu khi ni
chúng sai người trở lại, Đại đức chuyển lời giáo giới vắn tắt, của Tăng rằng
Tăng giáo sắc tỳ kheo ni tăng tinh cần hành đạo. Cẩn thận chớ buông lung.
Tỳ kheo thọ
chúc đáp:
Y giáo
phụng hành.
Sau đó, khi
ni chúng sai người trở lại để biết kết quả, tỳ kheo thọ chúc bảo cho ni chúng
biết giáo giới của Tăng như thế nào. Nếu Tăng không sai người giáo thọ ni, thì
tỳ kheo thọ chúc chuyển lời giáo giới của Tăng đến ni chúng như sau:
Hôm
qua (hay hôm nay) tôi đã vì ni chúng thỉnh giáo thọ sư. Nhưng
trong Tăng không có ai đảm trách việc giáo thọ ni. Tăng có lời giáo giới vắn tắt
cho ni chúng rằng: ni chúng hãy tinh cần hành đạo như luật mà hành trì, cẩn thận
chớ buông lung.
Tỳ kheo ni
thọ sai đáp:
Y giáo
phụng hành.
Trái lại,
trong trường hợp có Tăng sai tỳ kheo giáo thọ ni, thì người thọ chúc, sau khi
Tăng đã yết ma sai giáo thọ ni, đến vị tỳ kheo Tăng sai bạch rằng:
Đại đức
đã từ bi chấp thuận giáo thọ ni chúng. Xin Đại đức ấn định thời gian, tôi sẽ báo
cho ni chúng biết để tiện việc đón rước.
Tỳ kheo
được Tăng sai nói rõ ngày giờ thuận tiện đối với mình. Việc ổn định ngày sang
giáo thọ ni chúng cần tránh những ngày mồng 1, mồng 2, mồng 3, các ngày 14 và
15, tránh những ngày mà ni chúng có thể tác pháp thuyết giới.
Việc giáo
thọ trên đây là trình bày những điểm chính được qui định trong luật. Ngày nay,
nhất là trong hiện tình phát triển công tác giáo dục tăng ni, việc dạy kinh,
luật và luận cho cả ni và tăng đều có qui củ tương đối, và được thực hiện thường
xuyên, theo chương trình được ấn định cụ thể. Do đó, sự việc ni cầu giáo thọ sư
chỉ được chấp hành cho đúng nguyên tắc của luật chế mà thôi, chứ trong thực tế
thì không phải đợi mỗi nửa tháng mới có việc ni chúng sai người cầu giáo thọ.
Mỗi kỳ thuyết giới, ni chúng sai người sang tỳ kheo tăng thỉnh cầu giáo thọ là
một điều trong tám kỉnh pháp mà Phật đã chế định phải được chấp hành nghiêm
chỉnh, Do đó, dù Tăng có người sang giáo thọ hay không, việc thỉnh tỳ kheo tăng
sang ni chúng để giáo giới là phận sự của ni chúng không được xao lãng bỏ qua.
Theo tinh
thần luật chế, những người chưa thọ cụ túc không được phép dự nghe các tỳ kheo
thuyết giới. Các sa di cũng không ra ngoài qui định này. Tuy nhiên, vì đã dự vào
hàng xuất gia, mặc dù chưa thọ đại giới, nhưng những phận sự của tỳ kheo như
thuyết giới, an cư và tự tứ, sa di cũng cần phải tham dự. Do đó, trong các nghi
thuyết giới được hành trì ở Trung hoa, cũng như ở Việt nam. Các luật sư đều có
phần nói riêng về sự thuyết giới cho sa di. Việc thuyết giới này có một số điểm
khác nhau giữa Tứ phần hành sự sao của Đạo Tuyên ()
và Yết ma chỉ nam của Chiêu Minh luật sư. Thông lệ ở Việt Nam chấp hành theo
nghi thức Yết ma chỉ nam có thêm một số chi tiết như sau:
Sau khi
nghe tiếng hiệu kiền chùy họp Tăng thuyết giới, các sa di cũng theo thầy duy na
vào giữa Tăng. Duy na xướng:
Các
sa di theo thứ tự tấn đường.
Nghe
tiếng khánh chí thành đảnh lễ Đại tăng ba lạy.
Lạy xong,
quì xuống, nghe Thượng tọa giáo giới.
Thượng tọa
nói:
Này
các sa di, hôm nay là ngày… ngày chúng tăng hòa hợp thuyết giới. Các ngươi hãy
nghiêm xét trong nửa tháng vừa qua đối với mười giới sa di có điều nào trái phạm
hay không. Nay ta hỏi các ngươi, phải theo sự thực mà đáp. Không được phép che
dấu. Nếu che dấu tội lỗi của mình, tội lỗi càng thêm nặng, và các ngươi không
xứng đáng là đệ tử xuất gia của Phật.
Mười
giới của sa di là:
1.
Không được sát sinh. Các ngươi có trái phạm không?
2.
Không được trộm cắp. Các ngươi có trái phạm không?
3.
Không được dâm dục. Các ngươi có trái phạm không?
4.
Không được nói dối. Các ngươi có trái phạm không?
5.
Không được uống các thứ rượu say sưa làm loạn tánh tình. Các ngươi có
trái phạm không?
6.
Không được trang sức thân thể bằng các thứ hương hoa. Các ngươi có trái
phạm không?
7.
Không được ca múa hát xướng và cố ý xem nghe. Các ngươi có trái phạm
không?
8.
Không được nằm ngồi trên giường ghế cao rộng, phóng túng thân tâm. Các
ngươi có trái phạm không?
9.
Không được ăn phi thời, trừ bịnh duyên. Các ngươi có trái phạm không?
10.
Không được cất chứa vàng bạc, châu báu làm của riêng. Các ngươi có trái
phạm không?
Này
các sa di. Thân người khó được, giới pháp khó gặp. Thời gian trôi mau, đạo
nghiệp khó thành tựu. Các ngươi phải thanh tịnh thân khẩu ý, siêng học kinh luật
luận. Cẩn thận chớ buông lung.
Các sa
di đồng thanh đáp:
Y giáo
phụng hành.
Tiếp theo,
đồng đảnh lễ Đại tăng ba lạy, và theo thứ tự ra khỏi giới trường. Tại một nơi
ngoài giới trường, các sa di cùng tụng đọc giới kinh của sa di.
Nhưng theo
Hành sự sao 4 của Đạo Tuyên, thì sa di có thể dự nghe một phần giới kinh của tỳ
kheo. Một phần đây là phần đầu gồm các bài kệ tán khởi cho đến khi Tăng tác pháp
yết ma thuyết giới thì đi ra; và sau đó, khi Tăng thuyết giới đến hết bảy pháp
diệt tránh, các sa di lại được gọi vào để nghe phần cuối, sau các bài kệ giới
kinh của bảy đức Phật, tức từ các bài kệ tán thán giới cho đến hết. Trong phần
tác pháp thuyết giới sau đây sẽ được soạn theo quan điểm này của hành sự sao, có
thêm một số chi tiết.
TIẾT BA
CHÍNH THỨC THUYẾT GIỚI
Trừ nạn
duyên, tức ngoại trừ tám tai họa bất ngờ xảy đến, toàn bộ giới kinh, từ đầu đến
cuối, từ các bài kệ tán khởi, bốn pháp ba la di, cho đến bảy pháp diệt tránh,
cùng với các bài kệ giới kinh và những bài kệ tán thán giới, cần phải được tụng
đọc đầy đủ chi tiết. Người tụng giới phải là hàng Thượng tọa. Nếu Thượng tọa
không thuộc, có thể theo thứ tự từ trên xuống dưới, ai thuộc thì được cử làm
người tụng giới. Nếu chúng chỉ bốn người mà không ai thuộc, Thượng tọa phải đi
khỏi giới, tự mình tác pháp tâm niệm thuyết giới.()
ba vị còn lại trong giới, tác pháp đối thú thuyết giới với nhau. Đây là một hình
thức phạt Thượng tọa vì không thuộc giới kinh.
Người
thuyết giới không được đọc theo giọng ca, giọng tán, phải đọc bằng giọng nói
bình thường, đọc lớn, rõ, không quá nhanh và quá chậm, để mọi người đều có thể
nghe rõ chi tiết.
Có mấy điểm
quan trọng cần phải ghi nhớ trong tác pháp yết ma thuyết giới:
1.
Túc số tăng: tối thiểu từ bốn tỳ kheo trở lên. Dưới số này, từ ba vị trở
xuống, chỉ được phép tác pháp đối thủ thuyết giới. Nếu chỉ có một người, tâm
niệm thuyết giới.
2.
Ngồi gần nhau, để có thể người này với tay chạm đến thân thể người bên
cạnh.()
Cách ngồi này có công dụng là trong trường hợp phạm vi giới trường không đủ dung
số lượng các tỳ kheo đến nghe thuyết giới quá đông, cần ngồi lan ra ngoài đường
ranh của giới trường mới đủ chỗ, ngồi như vậy thì Tăng vẫn được coi là trong
cùng một giới trường. Trong lúc ngồi nghe giới, các tỳ kheo phải chăm chú nghe,
không được phép nhập định; cũng nên tránh cả việc lần chuỗi.
3.
Trong cùng một giới. Tức tất cả tỳ kheo phải tập họp trong phạm vi của
giới trường đã ấn định. Nếu không có giới trường, Tăng phải tác pháp yết ma kết
tiểu giới để thuyết giới. Các tỳ kheo đang có mặt trong cùng trú xứ đã được kết
giới cần phải được tập họp vào giới trường. Ai không tập họp, phạm tội biệt
chúng. Trừ những người có duyên sự cần phải gởi dục và thuyết tịnh.
4.
Tăng phải hoàn toàn thanh tịnh. Những người chưa thọ cụ túc, những người
dầu đã thọ cụ túc nhưng nếu Tăng phát hiện ra là thuộc vào một trong mười ba
trường hợp chướng pháp, hay già nạn (chi tiết xem chương III ở trên) và các tỳ
kheo phạm ba la di, tất cả đều phải được đuổi ra khỏi giới trường. Tỳ kheo nào
đang hành pháp phú tàng, sau khi Tăng hành xá la xong (nếu có hành xá la), hoặc
sau khi tác pháp tiền phương tiện xong, tức đến chỗ hỏi và đáp rằng: "Tăng nay
hòa hợp để làm gì? – yết ma thuyết giới" thì duy na gọi vị này ra trình bạch
Tăng rằng mình đang hành pháp phú tàng. Còn lại, những người phạm các điều khoản
khác cần phải sám hối như pháp cho thanh tịnh trước khi Thượng tọa bạch yết ma
thuyết giới.
Trong thể
thức thuyết giới chi tiết cuối mỗi phần của giới kinh đều có hỏi về sự thanh
tịnh của các tỳ kheo đối với các điều vừa nói xong. Như đã nói ở điều 4 trên đây
khi thuyết giới, Tăng phải hoàn toàøn thanh tịnh. Nhưng cũng có nhiều trường hợp
người phạm giới mà không ý thức về sự trái phạm của mình, hoặc do không biết,
hoặc do không nhớ, thì mỗi khi vị tụng giới hỏi đến sự thanh tịnh, người tự thấy
mình có phạm phải bước ra phát lồ sám hối. Tuy nhiên, trong khi Tăng đang chăm
chú theo dõi như vậy, người ấy đột nhiên bước ra nhận tội, có thể gây xáo trộn,
do đó, chỉ nên nói riêng với người bên cạnh, hoặc tự tâm niềm rằng "Tôi tỳ kheo…
phạm tội… chờ Tăng thuyết giới xong tôi sẽ sám hối.” Hoặc nếu cảm thấy có phạm
nhưng còn nghi ngờ, thì tự tâm niệm rằng: "Tôi tỳ kheo… đối với điều… còn nghi
ngờ. Chờ khi nào hết nghi ngờ, tôi sẽ như pháp sám hối."
Trên đây là
nói về thể thức thuyết giới chi tiết. Nếu gặp nạn duyên, có thể thuyết giới tóm
lược. Tùy theo nạn duyên sẽ đến nhanh hay chậm, đủ để thuyết giới đến mức nào,
phải tùy theo đó mà thuyết. Luật quy định có tất cả năm thể thức thuyết giới.
1.
Thuyết giới chi tiết: nói từ đầu đến cuối đầy đủ của giới kinh.
2.
Thuyết giới tóm lược: nói từ bài tựa, bốn ba la di, mười ba tăng
tàn, hai bất định, rồi nói tóm lược: Thưa các đại đức, tôi đã thuyết xong
tựa giới kinh, đã thuyết xong bốn pháp ba la di, đã thuyết xong mười ba pháp
tăng già bà thi sa, đã thuyết xong hai pháp bất định. Còn lại ba mươi pháp ni
tát kỳ ba dật đề, chín mươi pháp ba dật đề, bốn pháp ba la đề xá ni, một trăm
pháp chúng học, bảy pháp diệt tránh, như Tăng thường nghe.
3.
Thuyết giới tóm lược: nói từ tựa giới kinh, bốn ba la di, mười ba tăng
tàn, rồi tóm lược: Thưa các đái đức, tôi đã thuyết (…) còn
lại hai pháp bất định (…) như Tăng thường nghe.
4.
Thuyết tóm lược, nói từ tựa giới kinh, bốn ba la di rồi tóm lược (…)
5.
Thuyết giới tóm lược, chỉ nói bài tựa giới kinh rồi tóm lược, như trên.
Trong
thể thức tóm lược trên, thay vì lược bằng cách nêu tên hay danh mục của từng học
xứ của các phần còn lại như thế, cũng có thể tóm lược bằng một câu: Còn lại các
pháp như Tăng thường nghe.
1.
Tập tăng: Đến giờ thuyết giới, sa di hay các tỳ kheo nhỏ đánh hiệu
kiền chùy. Tất cả tỳ kheo và sa di đồng vân tập vào giới trường.
2.
Lễ Tổ lễ Phật: Tùy nghi, vì không phải là điều khoản bắt buộc.
Nhưng cần thiết phải sám hối cho thanh tịnh trước khi Tăng tác pháp.
3.
Kiểm tăng số: Tỳ kheo chấp sự hay duy na, sau khi kiểm điểm tăng
số, lễ Tăng và bạch:
Bạch
Đại đức tăng, hôm nay là ngày…. Ngày bố tát chúng tăng thuyết giới. Tôi đã kiểm
điểm tăng số, gồm (bao nhiêu) tỳ kheo và (bao nhiêu)
sa di.
4.
Đọc phần kệ tán khởi: Thượng tọa thăng tòa thuyết giới, đọc các
bài kệ tán khởi:
Cúi đầu lễ chư Phật.
Tôn pháp tỳ kheo tăng,
Nay nói tỳ ni pháp
Để chánh pháp thường tồn
…
Như lai lập cấm giới,
Nửa tháng nói một lần.
5. Tác
pháp riêng cho sa di
Duy na
xướng:
Các sa
di đi thứ tự xuất ban.
Các sa di
bước ra đảnh lễ đại Tăng ba lạy, rồi quỳ xuống, một sa di đại diện thay chúng
bạch rằng: ()
Bạch
Đại đức tăng sa di chúng con (mỗi người tự nói pháp danh) cúi đầu
đảnh lễ đâi Tăng. Sa di chúng con (mỗi người tự nói pháp danh) tự
nghĩ nay nhờ phước báo của túc duyên mà đời này được gặp ánh từ quang của đấng
Đại giác, được nghe di giáo vàng ngọc của đức Thế tôn; chúng con sám hối một
lòng mộ đạo, cắt ái từ thân, theo Phật xuất gia phụng sự Tam bảo. Phật chế sa di
học năm đức và mười pháp số, để làm rạng rỡ chánh đạo, kiểm nghiệm ngưòi tà. Nay
chúng con đối trước đại Tăng xin tụng đọc lại. Ngưỡng mong đại Tăng thùy từ
chứng giám.
Năm đức
của sa di theo kinh Phước điền là:
1.
Phát tâm lìa bỏ thế tục, vì hâm mộ chánh pháp.
2.
Hủy bỏ cái đẹp của hình hài, vì để thích ứng với pháp phục.
3.
Vĩnh viễn cắt bỏ ái ân, vì không còn thân thích nữa.
4.
Khinh thường tính mạng, vì tôn sùng Phật pháp.
5.
Chí cầu Đại thừa, vì để hóa độ chúng sanh.
Mười
giới của sa di là:
1.
Không sát sinh.
2.
Không trộm cắp.
3.
Không dâm dục.
4.
Không nói dối.
5.
Không uống rượu làm say loạn tính tình.
6.
Không trang sức thân thể bằng các thứ hương hoa như người thế tục.
7.
Không ca múa hát xướng và cố ý xem nghe.
8.
Không nằm ngồi trên giường ghế cao rộng.
9.
Không ăn phi thời, trừ bịnh duyên.
10.
Không cất chứa vàng bạc châu báu làm của riêng.
Chúng
con đã nói xong năm đức và mười giới. Cúi nguyện Tam bảo tồn tại lâu dài trong
thế gian để cứu vớt chúng sanh.
Nay
Tăng bố tát, diễn thuyết đại tỳ ni, là pháp tối tôn, tối thắng, mầu nhiệm, là
việc mà chúng con chưa được dự phần. Bởi vì chúng con tuổi đời còn thiếu, chướng
ngại giới pháp chưa sạch, cho nên không dám dự vào địa vị Tăng luôn thanh tịnh.
Nay chúng con cúi đầu đảnh lễ đại Tăng. Nguyện tăng từ bi, bố tát hoan hỷ.
Thượng tọa
giáo giới:
Này các
sa di, nay chúng tăng bố tát thuyết giới. Các ngươi chưa thọ cụ túc nên chưa
được dự nghe. Vậy hãy lui ra ngoài, theo phận sự của sa di mà tụng đọc giới
luật. chờ khi nào đánh khánh làm hiệu gọi vào. Hãy thứ tự trở lại giới trưòng.
Cẩn thận chớ buông lung.
Các sa di
đồng thanh đáp:
Y giáo
phụng hành.
Đảnh lễ đại
Tăng ba lạy, rồi lui khỏi giới trường. Cùng nhau đến một chỗ khác, tụng đọc giới
kinh của sa di. Chờ khi nghe tiếng khánh, Tăng gọi thì trở lại giới trường để dự
nghe phần cuối trong giới kinh của tỳ kheo.
Thượng tọa
tác pháp yết ma thuyết giới, hỏi:
- Tăng
đã họp chưa?
Duy na đáp:
-
Tăng đã họp.
- Hòa
hiệp không ?
- Hòa
hiệp.
-
Người chưa thọ cụ túc đã ra chưa?
- Đã
ra.
- Các
tỳ kheo không đến có thuyết dục và thanh tịnh không ?
Nếu không
có ai gởi dục và thanh tịnh thì đáp:
-
Không.
- Nếu
có, người thọ dục bước ra, lễ Tăng và bạch:
-
Bạch Đại đức tăng, con có nhận dục và thanh tịnh của tỳ kheo… tăng sự như pháp,
tỳ kheo ấy xin gởi dục và thanh tịnh.
-
Thiện.
-
Nhĩ.
Thượng tọa
hỏi tiếp:
- Có ai
sai tỳ kheo ni đến thỉnh giáo giới không?
Nếu có
người thọ chúc, thì bước ra lễ Tăng, và trình lại thỉnh cầu của ni chúng, như đã
nói ở trên. Nếu ni trực tiếp thỉnh thì cho gọi vào.
Các tỳ kheo
ni thọ sai đảnh lễ Tăng ba lạy, quỳ xuống và bạch:
Đại
đức tăng (nói tên chùa ni) tỳ kheo ni tăng thanh tịnh hòa hiệp,
Tăng sai tỳ kheo ni chúng con (…) đến trước đại Tăng, đảnh lễ Tăng
cầu thỉnh giáo thọ sư. Ngưỡng mong Tăng vì ni chúng giáo giới. Từ mẫn cố.
(nói ba lần)
Nếu không
có tỳ kheo nào đảm nhiệm việc giáo thọ ni, Thượng tọa nói với các tỳ kheo ni thọ
sai:
Nay lần
lượt thỉnh cầu khắp trong Tăng từ trên xuống dưới, nhưng không ai đảm nhiệm việc
giáo thọ ni. Tuy nhiên, Tăng nói rằng, ni chúng hãy y luật hành trì, cẩn thận
chớ buông lung.
Ni thọ sai
đáp:
Y giáo
phụng hành.
Sau khi ni
thọ sai đảnh lễ Tăng và ra khỏi giới trường, Thượng tọa hỏi tiếp:
-
Tăng nay hòa hiệp để làm gì?
- Yết
ma thuyết giới.
Ngay đây,
nếu có tỳ kheo đang hành pháp phú tàng, thì duy na gọi vị ấy ra đảnh lễ Tăng, và
tình Tăng rằng mình đang hành pháp phú tàng. Sau đó trở về chỗ cũ để nghe thuyết
giới.
Thượng tọa
bạch yết ma:
Đại
đức tăng, xin lắng nghe. Hôm nay là ngày… tháng … ngày bố tát, chúng tăng thuyết
giới. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng; Tăng nay chấp thuận hòa hiệp thuyết
giới. Đây là lời tác bạch. Thưa các đại đức, nay đang là mùa (xuân). Mùa này có
sáu kỳ (hoặc tám kỳ nếu có tháng nhuận) bố tát. Trong nửa tháng này, một kỳ bố
tát đang đi qua; có hai kỳ bố tát đã qua và còn ba kỳ bố tát sắp đến. Mong các
đại đức ghi nhớ như vậy. Tuổi già và sự chết đang gần kề, Phật pháp sắp tàn
diệt. Thưa các đại đức, vì chí cầu đắc đạo, hãy nên nhất tâm cần cầu tinh tấn.
Vì sao vậy? Chư Phật do nhất tâm cần cầu tinh tấn mà chứng đắc Vô thượng Bồ đề,
huống nữa là các thiện pháp khác. Mỗi người trong lúc đang khỏe mạnh, hãy nỗ lực
tu thiện; sao lại không cần cầu, đâu thể đợi đến già, ham muốn nào vui chi? Ngày
nay đã qua, mạng sống lần giảm, như cá thiếu nước nào có vui gì? Thưa các đại
đức, nay tôi sẽ nói ba la đề mộc xoa. Các đại đức hãy lắng nghe, khéo ghi nhớ
kỹ. Nếu tự biết mình cố phạm, hãy nên bày tỏ sám hối, ai không phạm thì im lặng.
Do sự im lặng mà tôi biết các đại đức thanh tịnh. Cũng như một người được ai hỏi
điều gì thì phải theo sự thực mà đáp. Cũng vậy, tỳ kheo nào ở trong chúng đã ba
phen hỏi, nhớ nghĩ mình có phạm mà không phát lộ, tỳ kheo ấy đắc tội cố ý vọng
ngữ. Đức Phật dạy hành sự cố ý vọng ngữ là pháp chướng đạo. Tỳ kheo nào nhớ nghĩ
mình có tội, muốn cầu sự thanh tịnh, cần phải phát lộ. Phát lộ thì an lạc.
Thưa
các đaị đức, tôi đã nói xong phần tựa. Nay hỏi các đại đức trong đây có thanh
tịnh không? (hỏi ba lần)
Các đại
đức trong đây thanh tịnh, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
Tiếp
theo nói tất cả chi tiết từ bốn ba la di cho đến bảy pháp diệt tránh. Cuối cùng
nói lời kết.
Thưa
các đại đức, tôi đã nói xong tựa giới kinh, đã nói bốn pháp ba la di, đã nói
mười ba pháp tăng già bà thi sa, đã nói hai pháp bất định, đã nói ba mươi pháp
ni tát kỳ ba dật đề. Đã nói chín mươi pháp ba dật đề, đã nói bốn pháp ba la đề
xá ni, đã nói các pháp chúng học, đã nói bảy pháp diệt tránh. Đây là giới kinh
do Phật nói, được ghi chép thành giới kinh, mỗi nửa tháng tụng một lần. Còn có
các Phật pháp khác nữa trong đây tất cả đều phải cùng hòa hiệp, cùng học tập.
Tiếp theo
trước khi đọc các bài kệ giới kinh của bảy đức Phật thì đánh hiệu gọi các sa di
vào để nghe tiếp các bài kệ tán thán sự trì giới:
Kẻ trí khéo giữ giới,
Hay được ba điều vui:
Danh dự và lợi dưỡng,
Khi chết được sanh thiên.
Tôi nay nói giới kinh
Công đức thuyết giới này,
Ban khắp cả chúng sinh
Đều trọn thành Phật đạo.
--- o0o ---
Mục Lục Toàn Tập
Tập 1
|
1
|
2-0
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
Tập 2
|
7
|
8
|
9-1
|
9-2
|
9-3
|
9-4
| 9-5
|
9-6
|
9-7
|
9-8
|
10
Tập 3 |
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
|
20
--- o0o ---
Source:
www.phatviet.net
Vi tính: Nguyên Trang, Nhị Tường - Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-06-2004