NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2001
TOÀN TẬP
TÂM NHƯ TRÍ THỦ
--- o0o ---
TẬP I
PHÁP MÔN TỊNH ÐỘ
LỜI NÓI ÐẦU
(CHO TẬP SÁCH TỊNH ĐỘ)
Giáo pháp của Đức Bổn Sư hiện được lưu truyền khắp thế giới gồm có nhiều pháp
môn. Ở nước Việt Nam ta phổ biến nhất duy chỉ có pháp môn Tịnh độ. Pháp môn này
cơ hồ như lấn át luôn cả Thiền tông là pháp môn chính truyền từ phái Tỳ ni đa
lưu chi cho đến Tổ Thiệt Diệu Liễu Quán.
Hiện nay, trong từ các đại đức tăng ni, ngoài đến tín đồ hội viên các hội Phật
giáo cư sĩ, không ai là không thực hành pháp môn này. Thậm chí các đơn vị Phật
giáo ở cấp xã thôn tại Trung Việt đều lấy hai chữ ‘tịnh độ’ đặt tên chung cho
đơn vị.
Nhân thấy nơi nơi đều thực hành pháp môn tịnh độ, để cho ý nghĩa và phương pháp
hành trì pháp môn này được thêm sâu rộng và để góp phần công đức cao dày, tôi
phỏng theo quyển ‘Tịnh pháp khải thuật’ soạn ra sách này hầu mong giúp các Phật
tử sơ cơ hiểu rõ thêm cái pháp môn vi diệu mà mình đang thực hành.
Sách này gồm tám yếu điểm ở ba bộ kinh: Thập lục quán, Vô lượng thọ Phật thuyết
A Di Đà do chính kim ngôn đức Thích Tôn dạy, và một bộ luận là Luận Vãng sanh do
ngài Bồ tát Vô Trước soạn. Về đời nhà Tùy có ngài Lô Sơn tức Tổ sư Huệ Viễn, dựa
vào ba kinh và một luận nói trên mà lập tông Tịnh độ. Từ bấy giờ tông này không
ngớt bành trướng và lan khắp các nước Phật giáo ở miền Đông Á.
Vậy trong tòa nhà Tịnh độ mà hiện nay quí vị đang kiến tạo, họa đồ là của đức
Bổn sư, gạch ngói và công xây dựng là của quí Phật tử, tôi nguyện xin góp vào đó
một ít đường mật cho vôi gạch chóng ăn nhau hầu mong tòa nhà sớm thành tựu.
Có
đạt được sở nguyện cỏn con ấy không là tùy lượng quí Phật tử hưởng ứng nhiều hay
ít. Riêng soạn giả tự cho là đã làm xong một việc đáng làm.
Soạn giả cẩn chí.
THÍCH TRÍ THỦ, 1961.
CHƯƠNG I
Ý NGHĨA TỊNH ÐỘ
A- SAO GỌI LÀ TỊNH ÐỘ?
Tịnh độ là chỉ
cho quốc độ trang nghiêm tịnh khiết an tịnh quốc, độ ấy tối thiểu phải có những
điều kiện về nhân dân và thổ địa như sau:
a) Về nhân dân (Chánh báo)
1) An lạc vô
bệnh
2) Thọ mạng lâu
dài
3) Thân tướng
đẹp đẽ
4) Không có sự
bất bình đẳng về giàu nghèo, sang hèn.
5) Tâm tánh nhu
hòa, đạo đức cao thượng.
6) Ðạo tâm kiên
cố
7) Mọi người đều
do hóa sanh mà có, không do thai sanh là kết quả của dâm dục ô trược.
8) Không có sự
sai khác về nhở lớn, già trẻ, mạnh yếu.
9) Không dơ bẩn
ô uế.
10)Tâm trí phóng khoáng, thông đạt.
11)Hết luân hồi trong lục đạo.
12)Ðủ sáu món thần thông.
13)Ðầy đủ huệ nhãn, chánh kiến.
Mười ba món trang nghiêm thanh tịnh trên đây thuộc phần chúng
sanh thế gian (Chánh báo)
b) Về thổ địa (Y báo)
1) Ðất đai bằng
phẳng đầy châu ngọc trong suốt, không có khe hố núi gò lởm chởm và ao rãnh sông
ngòi hủng hê.
2) Không có các
nạn thiên tai như lụt bão, sấm sét, đại hạn, địa chấn, gây ra mất mùa đói rét.
3) Bầu trời luôn
luôn quang đãng, không cần ánh sáng mặt trời mặt trăng hay đèn nến.
4) Tất cả vật
dụng luôn luôn mới mẻ, không vỡ, không hư, không mục nát, không cũ nhớp.
5) Phong cảnh
xinh tươi, cây hoa đẹp đẽ lầu gác mỹ lệ, không cần nhọc công kiến trúc trang
hoàng mà tự nhiên hiện thành.
6) Khí trời luôn
luôn mát mẽ.
7) Âm nhạc nhiệm
màu hòa tấu tự nhiên hay ngưng tùy theo sở thích người nghe.
8) Không có động
vật nào khác, ngòai loài người, trừ sự biến hóa của Phật.
9) Hồ nước trong
thơm ngọt ngào; cạn sâu ấm mát tùy từng sở thích.
10)Cảnh vật tiếp xúc gây được khoái cảm nhẹ nhàng mà không làm chao động đạo
niệm.
11)Bảy báu và vật dụng tự nhiên thành tựu để cung ứng đầy đủ mà không cần đến
sức người.
12)Không có các sự trần lao phiền não.
13)Không có nạn nhân mãn, mặc dù dân số vãng sanh mỗi ngày mỗi tăng.
14)Nhân dân sống trong thái bình an lạc, không có tà ma ngoại đạp bức hiếp.
Mười bốn món trang nghiêm thanh tịnh thứ hai này thuộc phần “khí thế gian” (Y
báo).
Có đầy đủ cả hai phầùn “chúng sanh thế gian” và “khí thế gian” trang nghiêm
thanh tịnh như thế mới được gọi là Tịnh độ.
B- CÁC CÕI TỊNH ÐỘ TRONG MƯỜI PHƯƠNG.
Trong mười phương hư không có vô lượng vô số quốc độ với những
trạng huống khổ vui ngàn sai muôn khác. Nguyên nhân thành tựu các quốc độ sai
khác ấy tuyệt đối không do một sức thần thánh nào khác hoặc một sự ngẫu nhiên
nào tạo thành.
Quốc độ tuy nhiều, nhưng khái quát có thể chia hai loại:
1) Quốc độ do
cộng nghiệp của chúng sanh duyên khởi. Cộng nghiệp ấy cảm thành quốc độ y báo
chung, để chúng sanh tùy từng biệt nghiệp thiện hay ác mà thọ quả báo hoặc vui
hoặc khổ.
2) Quốc độ do
Phật và Bồ tát hiện ra để dùng làm chốn đạo tràng độ sanh.
Loại trước gọi là uế độ. Vì nguyên nhân trong quá khứ, chúng
sanh làm điều phước đức ít, mà gây điều tội ác nhiều nên cảm báo thành quốc độ
vui ít khổ nhiều
Loại sau thành Tịnh độ. Vì nguyên nhân tạo nên quốc độ này là
do sức phước hệ của Chư Phật Bồ tát, sức gia trì của bốn tâm vô lương: Từ, bi,
hỷ, xả. Thêm vào các nguyên nhân ấy lại có tăng thượng duyên là công đức tu tập
của chúng sanh hồi hướng nguyện sanh về các cõi ấy. Có sự cảm ứng đạo giao giữa
nội nhơn và ngoại duyên ấy liên hệ với nhau nên mới duyên khởi quốc độ trang
nghiêm thanh tịnh thuần vui không có khổ nhơn tội báo xen vào
Trong mười phương thế giới có vô số uế độ nhưng cũng có vô số
Tịnh độ. Trong các uế độ, thế giới Ta bà của chúng ta mới chỉ là một. Nếu chúng
ta tưởng rằng chỉ có một uế độ này thôi thì đó là một sự đại lầm lẫn. Cũng như
trong các Tịnh độ, thế giới Cực lạc của Ðức A Di Ðà cũng mới chỉ là một. Nếu
không hiểu rằng giữa hư không vô tận còn có vô lượng Tịnh độ khác của Chư Phật,
đó lại cũng làm một sự đại lầm lẫn khác nữa.
Trong ba bộ kinh nói về Tịnh độ sở dĩ Ðức Phật chỉ chuyên nói
về thế giới Cực lạc là chỉ vì một lý do sẽ nói sau. Ngoài ra trong kinh “Dược sư
lưu ly bản nguyện công đức”. Ngài còn nói đến cõi Tịnh độ Tịnh lưu ly của Ðức
Dược sư Như Lai; trong kinh “Ðại Bửu tích” Ngài còn nói đến cõi Tịnh độ Diệu hỷ
của Ðức Bất Ðộng Như Lai; hay trong kinh “Di Lặc thượng sanh” Ngài còn nói đến
cõi Tịnh độ Ðâu Suất của Ðức Di Lặc Bồ tát. Tuy nhiên, đó cũng chi mới sơ lược
kể qua vài ba cõi mà thôi. Kỳ thật, trong mười phương thế giới có hằng hà sa số
chư Phật thì cũng có hằng hà sa số cõi Tịnh độ. Những chúng sanh nào được sanh
về Tịnh độ ấy đều do nhơn duyên riêng và tại mỗi cõi đều có phương pháp tu hành
khác nhau, phù hợp với từng nhơn duyên. Tu hành y theo Phật pháp nào thì đến
khi thuần thục sẽ được vãng sanh về cõi Tịnh độ đó. Phương pháp tu hành cầu vãng
sanh Tịnh độ thì được gọi làphép tu Tịnh độ.
Các cõi Tịnh độ trong mười phương có nhiều vô lượng mà pháp tu
cũng có nhiều vô số. Vậy ai theo phương pháp của cõi nào cũng đều có thể tùy
nguyện được vãng sanh ở cõi ấy.
Ở đây riêng đối với thế giới Cực lạc Tây phương, Ðức Phật đặc
biệt tán thán và giới thiệu một cách tường tận hơn cả là vì chúng sanh ở nõi
này, lòng tham dục quá nặng, đức tin quá yếu nên tâm chí loạn động; trong tình
trạng đó, nếu giới thiệu nhiều cõi Tịnh độ quá thì sợ khó thành tựu. Cho nên,
chỉ đặc biệt nói nhiều về một cõi Tây phương Cực lạc, khiến nghe chuyên nhất tập
trung ý chí hướng về một mối mới ghi nhớ dễ dàng và thâu hoặch có hiệu quả.
C- CÁC LOẠI TỊNH ÐỘ SAI KHÁC
Tịnh độ hay uế độ tuy hình như thuộc ngoại cảnh nhưng sự thật
thì đều do nhứt tâm biến hiện. Chư Phật khi lấy diệu dụng của tịnh thức biến
hiện ra Tịnh độ, vì tác dụng có sai khác nên danh nghĩa Tịnh độ cũng tùy đó mà
có sai khác.
Căn cứ vào Tây phương Hiệp luận đã ghi chép thì Tịnh độ có 10
loại không đồng nhau:
1) TỶ LÔ GIÁ NA
TỊNH ÐỘ
Tỷ lô giá na tức là pháp thân của Chư Phật. Hán dịch là Biến
nhứt thế xứ (nghĩa là cùng khắp nơi chốn). Cõi tịnh độ này bất luận ở đâu cũng
hóa hiện được, vì ở đâu cũng có vô lượng hóa Phật. Ðây cũng tức là báo độ của
chư Phật.
2) DUY TÂM TỊNH
ÐỘ
Loại Tịnh độ này tùy tâm biến hiện. Tâm uế thì quốc độ uế, tâm
tịnh thì quốc độ tịnh. Như trong kinh Duy Ma Cật dạy: “Trực tâm là Tịnh độ của
Bồ tát; khi Bồ tát thành Phật những chúng sanh trung trực đều vãng sanh về cõi
ấy... Nếu Bồ tát muốn được quả Tịnh độ phải tịnh lòng mình; tùy lòng mình tịnh
thì cõi Phật tịnh.”
Ðó là nghĩa của Duy tâm Tịnh độ.
3) HẰNG CHƠN
TỊNH ÐỘ
Hằng chơn Tịnh độ tức như cảnh giới mà Ðức Phật đã thị hiện
trên hội Linh Sơn để hướng dẫn hàng tam thừa quyền giáo Bồ tát, cho họ biết
rằng ở cõi này tuy ô uế nhưng cũng chính là cõi thanh tịnh vậy. Trong kinh chép
rằng trên hội Linh Sơn, các đệ tử hỏi Phật vì sao cảnh giới của Ngài hiện đương
sống lúc bấy giờ (núi Linh thứu) lại cũng ô uế bất tịnh, thế thì nhơn địa tu
hành của Ngài cũng bất tịnh chăng? Phật liền lấy ngón chân ấn xuống đất, cảnh uế
độ liền biến thành trang nghiêm thanh tịnh.
Như vậy cảnh hằng chơn Tịnh độ này là một cảnh hằng thường,
nhưng biến hiện tùy theo nghiệp nhơn của chúng sanh mà thấy có tịnh hay có uế.
4) BIẾN HIỆN
TỊNH ÐỘ
Biến hiện Tịnh độ là do sức gia cảm của Phật mà có biến hiện.
Như trong kinh Bát nhã nói Ðức Phật dùng thần lực biến thế giới này thành một
thế giới như ngọc lưu ly, có đủ bảy báu trang nghiêm và hoa sen rải khắp mặt
đất. Cảnh giới ấy tức là cảnh giới mà Ðức Phật tạm thời biến hiện để cho chúng
ta thấy rằng bản lai diện mục của uế độ tức cũng chính là Tịnh độ vậy.
5) KÝ BÁO TỊNH
ÐỘ
Luận Khởi Tín chép rằng: “Khi Bồ tát hoàn mãn công đức, sanh
lên cung trời Sắc Cứu Kính thì hiện ra thân tướng rất cao lớn. Trước khi bổ xứ
kế vị thành Phật, Bồ tát tạm ký thác báo thân ở dó một thời gian, nên gọi là
cung trời ấy là Ký báo Tịnh độ”, như cung trời Ðâu Suất của đức Bồ tát Di Lặc
hiện an trú trước khi bổ xứ thành Phật.
6) PHÂN THÂN
TỊNH ÐỘ
Theo kinh Niết bàn. Phật bảo Ương Quật rằng: “Ngươi không biết
rằng ta đã an trú trong thực tại vô sanh. Nếu ngươi không tin, cứ qua Ðông
phương hỏi Ðức Phật ở đấy tên gì thì Ngài tự giới thiệu: “Thích Ca là ta”!
Không có gì đáng ngạc nhiên cả, vì nên biết rằng pháp thân của
Phật đã an trú trong thực tại vô sanh thì đức Phật ở Ðông phương hay ở cùng khắp
mười phương đều cũng chỉ là phân thân của một đức Phật mà thôi vậy.
7) Y THA TỊNH ÐỘ
Kinh Phạm Võng: “Nay ta là Lô Xá Na ngồi trên đài sen gồm có
ngàn hoa. Trên ngàn hoa ấy lại thị hiện ngàn thân Thích Ca. Mỗi hoa lại bién
thành trăm ức cõi Phật và trong mỗi cõi lại hiện ra một Thích Ca”.
Các cõi được thị hiện như vậy nên gọi là báo thân tha thọ dụng
(hiện báo thân cho người khác thọ dụng) mà chỉ có Ðăng địa Bồ tát mới thấy.
(Ðăng địa nghĩa là đã lên từ nhứt địa tới thập địa)
8) THẬP PHƯƠNG
TỊNH ÐỘ
Thập phương Tịnh độ là các cõi Tịnh độ trong mười phương. Như
ở Ðông phương thì có các cõi Tịnh độ của đức Phật A Súc, Ðức Phật Dược Sư, Ðức
Phật Tu Di Ðăng Vương... Nam phương Tịnh độ của Ðức Phật Nhật Nguyệt Ðăng...,
Thượng phương có cõi Tịnh độ của Ðức Phật Hương Tich v.v...
Mỗi Ðức Phật đều an trú trong một cõi Tịnh độ thanh tịnh trang
nghiêm không còn có cấu trần.
9) NHỨT TÂM TỊNH
ÐỘ
Loại Tịnh độ này nương nơi tâm mà biến hiện và tùy theo công
năng tu chứng cao thấp nên có phân ra bốn bực không đồng.
a) Phàm Thánh
đồng cư Tịnh độ
Ðây là quốc độ của hàng nhị thừa và nhơn thiên. Nhị thừa là
Thánh; nhơn thiên là Phàm. Thánh phàm cùng ở chung nên gọi là Phàm Thánh đồng
cư, lại vì tính chất tịnh uế không đồng mà có chia thành hai thứ. Như cõi Ta bà
là đồng cư uế độ; cõi Cực lạc là đồng cư Tịnh độ.
b) Phương
tiện hữu dư Tịnh độ
Ðây là cảnh giới an trú của hàng tiểu thừa. Hàng tiểu thừa nhờ
đoạn được phiền não của kiến hoặc và tư hoặc nên thoát ra khỏi tam giới. Kiến
hoặc là sự mê lầm về kiến thức, tư hoặc là sự mê lầm về tư tưởng. Trên con đường
tu chứng, đoạn trừ kiến hoặc và tư hoặc chỉ là mới đạt được phương tiện chứ chưa
đạt được cứu cánh. Còn cần phải tiến lên nữa và phải đoạn hai món mê lầm là
Trần sa hoặc là sự mê lầm cội gốc do căn bản vô minh gây nên. Ðoạn kiến hoặc và
tư hoặc chỉ là mới đạt được phương tiện, nên hành giả còn phải tu tiến thêm nữa;
vì vậy gọi là phương tiện hữu dư. Hữu dư nghĩa là còn sót, chưa rốt ráo.
c) Thật báo
vô chướng ngại Tịnh độ.
Ðây là cảnh giới an trú của các vị đại Bồ tát. Các vị đại Bồ
tát nương theo pháp chơn thật mà tu hành cảm được quả báo thù thắng chơn thật;
sắc giới (vật chất) cũng như tâm giới (tinh thần) không còn gây chướng ngại đối
với Bồ tát nên gọi là thật báo vô chướng ngại. Cảnh giưói của các vị Bồ tát đã
tu chứng.
d) Thường
tịch quang Tịnh độ
Ðây cũng tức là cảnh giới đại Niết bàn của Chư Phật an trú.
Thể tánh của cảnh giới anỳ thường vắng lặng mà vẫn thường quang minh vì do trí
huệ của Phật hằng thường tỏa chiếu cùng khắp. Vì thế nên gọi là thường tịch
quang độ. Thường tịch nghĩa là thường vắng lặng, thường quang nghĩa là thường
soi sáng.
10)BẤT KHẢ TƯ NGHÌ TỊNH ÐỘ
Bất tư nghì Tịnh độ tức là cảnh giới Cực lạc của Ðức Phật A Di
Ðà để thâu nhiếp, tiếp nhận chúng sanh trong mười phương. Sức thâu nhiếp ấy
không thể nghĩ bàn, vì ngoài sức tư tưởng và luận bàn của chúng sanh.
Ðây là chỉ đứng về nghĩa thù thắng của cảnh giới Cực lạc mà
nói, chứ sự thật thì tất cả các cõi Tịnh độ trong mười phương đều có công năng
thâu nhiếp tiếp nhận và đều có tác dụng bất khả tư nghì như thế.
Tóm lại 10 cảnh Tịnh độ trên này tuy có sai khác nhau về danh
từ, nhưng cùng đồng nhất tâm biến hiện, vì cõi Tịnh độ nào cũng đều lấy sự thâu
tiếp nhận chúng sanh bất khả tư nghì làm căn bản. Cho nên, nói một cõi tức gồm
đủ cả bốn cõi: đồng cư, phương tiện, thật báo và tịch quang. Sự lập danh sai
khác chẳng qua là tùy theo mỗi phương tiện mà thôi.
Ở đây chỉ riêng chú trọng về cõi Tịnh độ Cực lạc của Ðức Phật
A Di Ðà là vì cõi ấy rất có quan hệ mật thiết với chúng ta, như Ðức Thích Ca đã
dạy.
Vì vậycõi Cực
lạc Tịnh độ là mục tiêu chính để chúng ta tập trung tất cả lực lượng tư tưởng
vào đó. Nếu thật chứng được một cõi Tịnh độ thì bao nhiều cõi Tịnh độ khác cũng
đều chứng được.
CHƯƠNG II
PHẠM VI CÕI CỰC LẠC
TIẾT MỘT
Y BÁO VÀ CHÁNH BÁO TRANG NGHIÊM
Kinh Vô lượng thọ chép rằng: Ðức Phật A Di Ðà khi còn đương làm Tỳ kheo. Tỳ kheo
Pháp Tạng nhắm mục đích trang nghiêm cõi Tịnh độ để dễ giáo hóa các loài hữu
tình, nên đã từng xin với Ðức Phật Thế Tự Tại dạy cho biết tướng trạng (hình
thức) vào nội dung 210 ức quốc độ của Chư Phật. Nghe xong, Ngài lại yêu cầu biến
hiện cho thấy để y cứ vào đó mà tham khảo làm ấn tượng trong khi tu hành.
Sau khi thấy nghe tường tận bao nhiều cảnh giới quốc độ Chư Phật, Tỳ kheo Pháp
Tạng mới bắt đầu vận hết tinh thần tu nhơn “tạo quốc độ”. Trải 5 kiếp tư duy
nhiếp thủ. Ngài mới thành tựu thế giới Cực lạc.
Xét kỹ về mặt kiến lập, các thế giới trong mười phương đều do cộng nghiệp của
chúng sanh tạo thành vào đều chỉ do thức biến hiện, tất cả đều nương bên ngoài
in tuồng như có, nhưng sự thật thì chỉ do nội thức biến chuyển, nghĩa là đều quy
về nhứt tâm cả. Ở dây Chư Phật là những bậc đã tịnh hóa được tâm thức, dùng tâm
thức thanh tịnh ấy mà biến hiện thì tạo thành Tịnh độ. Nếu chúng sanh nhứt tâm
niệm Phật tức là gieo chánh niệm vào tịnh thức của Phật, như đổ một chậu nước
vào biển cả. Nước chậu dung hòa vào biển cả. Nước chậu dung hòa với nước biển,
cùng chung một hương vị. Cũng thế, khi chúng sanh đã sinh vào quốc độ của chư
Phật, y báo và chánh báo của chúng sanh cũng trở thành trang nghiêm như Phật và
cũng sẽ được dung thông vô tận vậy.
Bây giờ, chúng ta thử tìm hiểu vì sao Ngài Tỳ kheo Pháp Tạng phải trải qua năm
kiếp tư duy nhiếp thủ mới hoàn thành được cảnh giới Cực lạc. Ta hãy cử một thí
dụ cho rõ nghĩa: thí dụ về cách tạo nhơn để thành tựu một cây bửu thọ.
Ngài Pháp Tạng Tỳ kheo trong lúc tu quán, tập trung tư tưởng ào một khoảng hư
không. Trong khoảng hư không ấy vốn không có gì hết, nhưng Ngài tưởng tượng ra
một cây bửu thọ gốc vàng, cành bạc, nhánh lưu ly, chồi thủy tinh, lá san hô, hoa
mã não, trái xà cừ, sự tưởng tượng như thế gọi là tư duy. Khi tư duy đã thuần
thục, cây bửu thọ đã hoàn thành, Ngài nắm lấy tư tưởng ấy không phóng xả; cây
bửu thọ ấy cũng sẽ do đó mà vĩnh viễn tồn tại!
Bấy giờ Ngài mới mong ý muốn cho cây bửu thọ “chết” ấy thoát khỏi trạng thái
tỉnh để trở nên sống động: Muốn nó nở hoa kết quả, nó liền nở hoa kết quả; muốn
nó phát ra thanh âm, nó liền phát ra thanh âm.v.v... Cứ y như thế mà hành trì
thì gọi là nhiếp thủ nghĩa là thu hoạch và giữ lấy.
Ðối với cây bửu thọ kia, chỉ có Phật nhãn mới biết cây bửu thọ nó là hư huyễn
không thật, kỳ dư chúng sanh trong chín cõi khác, kể từ địa ngục sắp lên và Bồ
tát sắp xuống hết thảy đều thấy cây bửu thọ là thật có. Chúng sanh dùng mắt mà
trông thì nó có sắc thật; dùng thân mà sờ thì nó có chất thật; dùng mũi mà ngữi
thì có mùi thật; dùng lưỡi mà nếm thì nó có vị thật; dùng ý mà suy nghĩ thì nó
có hình dáng thật. Sở dĩ có cảm giác như thật ấy vì sự cấu tạo cây bửu thọ đã
hoàn thành rồi.
Lấy sự tạo thành của một cây bửu thọ đơn cử ra đây chẳng qua là để làm thí dụ
cho ta hiểu rằng sự hoàn thành cả cõi Tịnh độ đòi hỏi công phu và thời gian lâu
dài đến bực nào. Ở thế giới Cực lạc không riêng gì một cây này mà tất cả sự vật,
hình hình sắc sắc ngàn sai khác, thảy đều có một nguồn gốc tạo thành giống như
thế cả.
Còn lý do khiến Ngài Pháp Tạng Tỳ kheo phát tâm tu tập tư duy nhiếp thủ để tạo
cảnh giới Tịnh độ là cốt nhằm xây dựng một chốn đạo tràng thanh tịnh trang
nghiêm để tiếp độ chúng sanh. Ngài đã vận hết tinh thần trải qua năm đại kiếp
mới thành tựu xong. Ðến nay, thế giới Cực lạc là nơi quy túc (về nghỉ)
của chúng ta về sau. Sanh về đó là nấc thang thoát ly sanh tử luân hồi để cho
chúng ta bước lên đường cứu kính giải thoát. Vậy xem đó, chúng ta có thể ý niệm
được lòng từ bi vô hạn của Ðức Phật A Di Ðà đối với chúng sanh là nhường nào
vậy.
Phật học chia quả báo làm hai loại: quả báo hiện trong tự thân là chánh báo,
quả báo hiện ngoài tự thân, như hoàn cảnh, quốc độ và tất cả sự vật chung quanh
là y báo.
Sự tôn nghiêm của y báo và chánh báo ở cõi Cực lạc đại khái đều có chép trong ba
bộ kinh dạy về pháp môn Tịnh độ (Vô Lượng Thọ, Thập Lục Quán và A Di Ðà)
nhưng trong ba mộ kinh ấy cũng mới giải bày một cách khái quát mà thôi, và những
điều của ba bộ kinh ấy trình bày chẳng qua cũng chỉ như một giọt nước so với bể
cả mênh mông! Nếu nói cho rõ ràng đầy đủ, tưởng e cùng kiếp mãn đời cũng không
bao giời nói hết được.
Tuy không tài nào diễn tả được hết, nhưng đại phàm “trăm nghe không bằng một
thấy”, người tu hành nếu kiên cố nhất tâm niệm Phật, trong tương lai được vãng
sanh Tịnh độ rồi, khi tự thân mình đã an trú trong cảnh giới đó, tất nhiên tự
mình trong thấy rõ ràng khỏi cần ai thuyết giáo nhiều lời.
Trong khi chờ đợi một sự thân chứng đích xác hơn, bây giờ ta hãy tạm y cứ vào
kinh điển để biết một cách khái lược về trạng thái trang nghiêm của thế giới Cực
lạc .
a) Chánh báo trang nghiêm
Chánh báo trang nghiêm gồm có các chi tiết lược kê như sau:
1) Thân tướng trang nghiêm. Nhân dân trong cõi Tịnh độ, thân sắc vàng, có
đủ 32 tướng tốt, hình mạo giống nhau, không kẻ đẹp người xấu, dung sắc vi diệu,
cao lớn khôi ngô, vô cùng xinh đẹp.
2) Thọ mạng vô hạn. Sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp (a tăng kỳ
kiếp = vô số), tự chủ hoàn toàn, tùy theo bản nguyện.
3) Có phép thần thông. Từ thiên nhãn (thấy suốt tất cả) đến thiên nhĩ
thông (nghe suốt tất cả), tha tâm thông (biết suốt tâm niệm kẻ khác), túc mạng
thông (biết rõ kiếp trước), thần túc thông (đi lại tự tại); nếu chứng được quả
vị A La Hán còn được lâu tận thông (dứt sạch nghiệp luân hồi)
4) Thường an trú trong chánh định. Tâm trí luôn luôn an định, không bị
hoàn cảnh chi phối tán động.
5) Không còn đọa vào ác đạo. Ðã sanh Tịnh độ thì không bao giời còn bị sa
đọa vào ba đường dữ tại: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
6) Hoa sen hóa sanh. Nhân dân ở Tịnh độ đều hóa sanh từ hoa sen mọc ở hồ
bảy báu; tuyệt nhiên không do ái dục giữa nam và nữ và thành.
7) An vui thanh tịnh. Thân tâm được an lạc như các vị Tỳ kheo đã chứng
quả A La Hán (lậu tận không).
8) Không còn có tên bất thiện. Ở cõi Tịnh độ không còn có gì được gọi là
bất thiện; danh từ bất thiện cũng không có, huống nữa là sự bất thiện.
9) Ðạo tâm bất thoái. Ðược sanh về cõi Tịnh độ, tâm niệm luôn luôn dũng
mãnh tinh tấn, một mạch thẳng tiến đến đạo quả vô thượng Bồ đề, không còn thoái
chuyển.
10) Trí tuệ biện tài. Ðọc tụng kinh văn thọ trì giáo pháp một cách tinh
tế và có đủ biện luận vô ngại.
11) Ðược vô sanh nhẫn. Chứng được quả vô sanh pháp nhẫn tức là phá trừ
hết ngã chấp và pháp chấp, đạt được chân trí, và chơn trí ấy xứng hợp với chơn
lý; lý và trí không hai.
12) Oai lực tự tại. Có đủ năng lực lớn lao và thần thông tự tại như các
bậc Thanh văn và Bồ tát đủ năng lực nắm tát cả thế giới vào trong lòng bàn tay.
13) Thân sáng chói lọi. Hàng Thanh văn thần thì chiếu sáng được một tâm:
hàng Bồ tát thì thân chiếu sáng được từ một trăm do tuần cho đến tam thiên đại
thiên thế giới.
14) Vô số Thanh văn trong hội đầu tiển Ðức Phật A Di Ðà đã giáo hóa, số
chúng sanh chứng quả Thanh văn không thể kể xiết. Số Bồ tát cũng vậy. Về số
lượng Thanh văn và Bồ tát chứng quả này. Ðức Thích Ca bảo cho Ngài A Nan hay
rằng: “Có sức thần như Mục Kiền Liên và dùng sức thần thông ấy trải qua trăm
ngàn muôn ức vô số kiếp, cũng không thể biết được số lượng Thanh văn Bồ tát
chứng quả trong đại hội đầu tiên của Ðức A Di Ðà giáo hóa: dù cho có biết được
một phần nào mà nếu đem so với số chưa biết được thì cũng không khác nào một
giọt nước so với biển cả.”
15) Vô số bổ xứ Bồ tát. Ở quốc độ Cực lạc, chúng sanh đều bất thoái
chuyển: trong sô bất thoái chuyển đó, số người sẽ bổ xứ “bổ xứ = sắp thành Phật”
không thể đếm hết được.
b) Y Báo trang nghiêm (1)
Y báo trang nghiêm gồm có các chi tiết lược kê như sau:
1) Quốc độ bằng phẳng thanh tịnh: Toàn quốc không có bụi nhơ, không có
núi Tu Di và các non gò đống khác; cũng không có biển lớn biển nhỏ mênh mông
hoặc khe ngòi hang hố trập trùng.
2) Mặt đất do bảy báu tạo thành: Ở quốc độ Cực lạc, ngọc lưu ly rải khắp
mặt đất, xen lộn với bảy báu, trong suốt từ trong ra ngoài. Dưới đáy đất có đế
bằng vàng, kim cang và thất bảo chống đỡ đất lưu ly. Xung quanh đế, trong tám
phương có tám góc; mỗi góc khảm bằng chất thất bảo; mỗi thứ trong thất bảo chiếu
ra trăm ngàn ánh sáng có tám vạn bốn ngàn màu sắc chói sáng rực rỡ lên mặt đất
lưu ly có dây chuyền vàng bủa giăng, xen lộn với thất bảo, tạo thành những ranh
giới ngay thẳng phân minh, rộng rãi bao la mênh mông bát ngất, tráng lệ thanh
kỳ, trang nghiêm tuyệt diệu!
3) Khí hâu ôn hòa: Khí hậu không lạnh không nóng mát mẻ quanh năm, không
phân chia bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông.
4) Lưới báu bủa giăng: Vô lượng lưới báu giăng khắp cõi Phật. Dây giăng
toàn bằng vàng, kết tủa bằng ngọc trân châu, xen lẫn với trăm ngàn thứ ngọc báu
khác xinh đẹp lạ lùng. Chung quanh bốn phía lưới có treo các linh báu khác xinh
đẹp lạ lùng. Chung quanh bốn phía lưới có treo các linh báu sáng ngời chói lọi
vô cùng tráng lệ. Mỗi khi gió dịu thổi qua, linh báu phát ra vô lượng phất âm
khiến chúng sanh ở đấy, hễ nghe tiếng linh thì tự nhiên sanh tâm niệm Phật, niệm
Phật, niệm Tăng.
5) Sáu thời mưa hoa: Ngày đêm chia sáu thời có gió dịu phảng phất; đồng
thời từ trên trời, hoa mạn đà la rơi xuống cùgn khắp bờ cõi thơm tho mát dịu.
Mỗi lần mưa hoa, chân bước xuống lún bốn tất, như đi trên nệm gấm nhưng theo
bước chân dở lên, lớp hoa lại hợp liền lại như cũ. Tuần tự trước sau, hoa ấy héo
dần rồi biến mất, mặt đất trở lại sạch sẽ. Ngày đêm có sáu lần cảnh tượng ấy
diễn đi diễn lại như thế.
6) Sen báu đầy dẫy: Các thứ hoa sen báu mọc lên cùng khắp cả cõi Phật.
Mỗi một hoa sen báu lại có trăm ngàn ức cạnh. Từ các cạnh, sức chói sáng của hoa
ánh ra vô lượng màu sắc. Sắc xanh phóng ra hào quang xanh; sắc trắng phóng ra
hào quang trắng; các sắc huyền, vàng, đỏ, tía, mỗi mỗi đều phóng một loại hào
quang riêng vô cùng rực rỡ chói lọi, lấn áp cả ánh sáng mặt trời.
7) Hóa Phật thuyết pháp: Từ mỗi hoa sen báu tuôn ra ba mươi sáu trăm ngàn
ức hào quang: trong mỗi hào quang hiện ra ba mươi sáu trăm ngàn ức đức Phật, lại
phóng ra vô số hào quang chiếu khắp mười phương và nói pháp nhiệm màu cho mười
phương nghe.
8) Cây đạo tràng của Phật: Cây đạo tràng của Ðức Phật A Di Ðà là do các
báu hợp thành. Ngoài lại dùng trân châu mã não trang sức thêm. Chung quanh cây,
trên các nhánh lớn cành con, các thứ chỗi ngọc treo lỏng thỏng, tỏa ra trăm ngàn
vạn sắc tân kỳ. Trên cây đạo tràng, lưới báu xinh đẹp bủa giăng; hết thảy đều
trang nghiêm và tùy ý ứng hiện.
9) Cây báu phát âm thanh: Vô số cây báu mọc cùng khắp cõi Tịnh độ. Có cây
chỉ do một ngọc báu tạo thành, có cây do hai, ba cho đến bảy loại ngọc báu xen
lẫn nhau mà đúc lên. Các loại cây báu ấy mọc từng hàng ngang nhau, trổi từng
cánh đối nhau, đâm từng nhánh so nhau lá lá hướng với nhau, hoa hoa giao với
nhau, trái trái tương đương nhau, xanh tươi xinh đẹp không thể tả xiết. Khi một
làn gió nhẹ thoảng qua, từ cành lá, từ hoa, từ quả mỗi mỗi đều phát ra năm thứ
thanh âm hòa những như trăm ngàn điệu nhạc hòa tấu một cách tự nhiên. Nhạc điệu
du dương tuyệt diệu hơn gấp trăm ngàn muôn ức lần tiếng nhạc của cung trời Lục
dục và phát ra vô lượng thanh âm mầu nhiệm. Nghe tiếng nhạc ấy rồi chúng sanh
liên lần lượt chứng nhập giáo pháp sâu xa, tiến lên bậc bất thoái, tiến mãi cho
đến khi thành tựu qủa Phật. Nghe tiếng nhạc ấy rồi thì tai trở nên thanh tịnh
không còn các khổ hoạn, mắt trông thấy thấy được sắc cây, mũi ngửi được hương
cây, miệng nếm được vị cây, thân tiếp xúc được ánh sáng của cây tỏa ra, ý suy
nghĩ hình dáng của cây. Sáu căn đã lãnh hội được hoàn toàn cây báu rồi thì liền
đó ngộ được thậm thâm pháp nhẫn mà lên bậc bất thoái. Từ đó mãi cho đến khi
thành đạo quả, không còn có sự não hại và lực căn luôn luôn được thanh tịnh.
10) Muôn vật nghiêm lệ: Hết thảy muôn vật đều trang nghiêm thanh tịnh,
sáng suốt xinh đẹp, hình sắc đặc biệt và lộng lẫy một cách vi diệu, không thể tả
xiết.
11) Không có ba đường dữ : Không có các khổ nạn của ba cảnh giới địa
ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
12) Cung điện trang nghiêm: Hết thảy nhà cửa như giảng đường tịnh xá,
cung điện, lầu gác tự nhiên thành tựu và đều trang hoàng bằng bảy thứ báu. Trên
nhà cửa cung điện còn có giăng phủ một lớp mặt võng làm bằng các thứ báu trân
châu, ma ni, minh nguyệt. Lại nữa nhà cửa cao thấp rộng hẹp, lớn nhỏ và được xây
cất bằng một, hoặc hai, hoặc vô lượng thứ báu, hết thảy đều tùy sở nguyện mà
liền có ứng hiện.
13) Quốc độ thanh tịnh: Quốc độ thanh tịnh trong suốt như một thế giới
pha lê, chiếu tỏa khắp mười phương, khiến từ đó có thể trông thấy được vô lượng
vô biên vô số thế giới của Chư Phật bất khả tư nghì.
14) Hồ tắm trong thơm: Nước trong các hồ tắm yên lặng trong suốt, bản
chất thanh tịnh mùi vị thơm tho như nước cam lồ và có đầy đủ tám tính chất gọi
là “bát công đức thủy.” Nếu là hồ hoàng kim thì dưới đáy là cát bạch ngân; nếu
là hồ bạch ngân thì dưới đáy là cát vàng; nếu hồ là thủy tinh thì dưới đáy là
cát lưu ly; nếu hồ là lưu ly thì dưới đáy là cát thủy tinh; nếu hồ là san hô thì
dưới đáy cát là hổ phách; nếu hồ là hổ phách thì dưới đáy là cát san hô; nếu hồ
là xa cừ thì dưới đáy cát là lưu ly; nếu hồ là lưu ly thì dưới đáy cát là xa cừ;
nếu hồ là bạch ngọc thì cát dưới đáy là vàng tía; nếu hồ là vàng tía thì cát
dưới đáy là bạch ngọc. Các nhóm báu ấy còn thay đổi tùy theo ý muốn: hoặc do hai
thứ báu, hoặc do ba, bốn cho đến bảy thứ báu mà hợp thành hồ.
15) Nước hồ lên xuống tùy nguyện: Nhân dân ở quốc độ Cực lạc, mỗi khi
bước chân xuống hồ, mực nước lên xuống cao thấp đều theo ý nguyện. Cũng tùy theo
ý nguyện mà nước hồ có ấm lạnh một cách tự nhiên. Tắm xong, tinh thần thấy sảng
khoái và tẩy trừ hết tâm cấu nhiễm. Mỗi khi bước xuống tắm bốn phía bờ hồ có
tiếng sóng vỗ lao xoa như một điệu nhạc, phát ra tiếng niệm Phật niệm Pháp niệm
Tăng tiến tịch tịnh xa vắng, tiếng vô ngã, tiếng đại từ bi, tiếng ba la mật.
Những tiếng phát ra như vậy rất xứng hợp với người nghe và khiến người nghe sanh
tâm hoan hỷ vô lượng.
16) Hương xông ngào ngạt: Từ mặt đất lên đến hư không, hết thảy cung
điện, lầu gác hồ sen, cây hoa v.vv... Cho đên tất cả vạn vật đều xông ướp trong
trăm ngàn thứ hương thơm, kết hợp do vô lượng tạp bảo đặc biệt. Hương ấy tỏa
khắp mười phương thế giới; Bồ tát ngửi thấy mùi hương liễu dũng mãnh tu theo
hạnh Phật.
17) Thức ăn tinh khiết: Thức ăn gồm các thứ hương hoa vô cùng tinh khiết
và thù thắng hơn cả cảnh trời. Khi muốn ăn, chén bát thất bảo tự nhiên hiện ra
với trăm thức ăn uống đầy đủ. Cách ăn không như ở cảnh giới chúng ta,mà chỉ bằng
tác ý và bằng mắt thấy tai nghe, tức thời tự nhiên bảo mãn. Ăn xong, thức ăn
tiêu hóa; đến giờ ăn sau những thức ăn mới lại tự nhiên hiện ra như trước.
18) Y phục tùy niệm: Y phục của nhân dân tùy niệm tùy hiện, không cần
may, cắt, giặt, nhuộm.
19) Chim biết thuyết pháp: Các thứ chim ở cõi này đều là hóa thân của
Ðức A Di Ðà. Ngài biến hóa ra các thứ chim tạp sắc kỳ diệu như bạch hạc, khổng
tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già, cọng mạng, chim phù, chim nhạn, chim oan
ương v.vv... ngày đêu sáu thời, kêu tiếng hòa nhã. Tiếng ấy giảng giải pháp ngũ
căn, ngũ lực, bảy phẩm bồ đề, tám pháp chánh đạo v.vv... khiến người nghe đều
phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
TIẾT HAI
48 LỜI NGUYỆN
Như trong một đoạn trước đã nói, Ðức Phật A Di Ðà, trong thời làm thầy Tỳ kheo.
Lấy pháp danh là Pháp Tạng. Pháp Tạng Tỳ kheo, sau khi được nghe giảng về quốc
độ thanh tịnh của Chư Phật, liền đến quỳ trước Ðức Phật Thế Tự Tại Vương, phát
48 lời đại nguyện cứu độ chúng sanh. Bốn mươi tám lời đại nguyện ấy có ghi chép
trong kinh Quán Vô Lượng Thọ. Tinh thần các lời thề nguyện thật là bao la bát
ngát. Ở đây chỉ riêng trích những lời có liên hệ mật thiết với sự tu hnàh của
chúng ta, hầu giúp chúng ta có sự quan cảm và sách lệ trên bước đường tu tập.
Một khi chúng ta đã rõ được phần nào ân đức rộng rãi bao la của Phật, chúng ta
há lại không nỗ lực tinh tấn để khỏi phụ lòng từ bi vô hạn của Phật ư?
Nguyện thứ nhất: Trong nước không có ba ác đạo
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật
mà trong quốc độ còn có ba ác đạo: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.”
Nguyện thứ 2: Người trong nước khi thọ chung không còn đọa ba ác đạo
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật
mà thiên nhơn trong quốc độ sau khi thọ chung còn đọa lạc vào ba ác đạo.
Nguyện thứ 3: Người trong nước đều toàn sắc vàng.
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật
mà thiên nhơn trong quốc độ không được sắc vàng như chơn kim”.
Nguyện thứ 4: Người trong nước đều có hình tướng xinh đẹp giống nhau.
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật
mà thiên nhơn trong quốc độ còn có hình tướng kẻ đẹp người xấu không đồng”.
Nguyện thứ 5: Người trong nước đều được túc mạng thông.
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật
mà nhân dân trong quốc độ không chứng được túc mạng thông, không biết suốt trăm
ngàn ức kiếp về trước.
Nguyện thứ 6: Người trong nước đều được thiên nhãn thông.
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật
mà nhân dân trong quốc độ không chứng được thiên nhãn thông, không thấy suốt
được trăm nghìn muôn ức quốc độ Chư Phật trong mười phương”.
Nguyện thứ 7: Người trong nước đều được thiên nhĩ thông
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật
mà thiên nhơn trong quốc độ không chứng được thiên nhĩ thông, không nghe suốt
trăm ngàn muôn ức lời thuyết pháp Chư Phật trong mười phương và không thọ trì
được tất cả lời thuyết pháp”.
Nguyện thứ 8: Người trong nước đều được tha tâm thông
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật
mà thiên nhơn trong quốc độ không chứng được tha tâm thông, không hiểu suốt tâm
trí kẻ khác cùng là tâm niệm chúng sanh trong trăm ngàn muôn ức quốc độ của Chư
Phật”.
Nguyện thứ 9: Người trong nước đều được thần túc thông.
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật
mà thiên nhơn trong quốc độ không chứng được thần túc thông, không bay khắp trăm
ngàn muôn thế giới Chư Phật trong khoảng một niệm.”.
Nguyện thứ 15: Người trong nước thọ mạng vô lượng và đều tự tại trong sự
sống chết.
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật
mà nhân dân trong quốc độ không được sống lâu vô lượng và không được sống chết
tự tại tùy theo bản nguyện riêng.
Nguyện thứ 18: Chúng sanh trong mười phương chỉ tu phép thập niệm cũng đủ
được vãng sanh.
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành
Phật, có chúng sanh trong mười phương một lòng tin tưởng tôi, hằng ngày đêm niệm
mười lần tên hiệu tôi để cầu vãng sanh Cực lạc mà đến khi lâm chung chẳng đặng
như nguyện.
Nguyện thứ 19: Chúng sanh trong mười phương phát nguyện vãng sanh Cực lạc
đều được tiếp đón.
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành
Phật, có chúng sanh trong mười phương phát tâm bồ đề, tu hành các món công đức,
cầu được vãng sanh Cực lạc mà đến khi họ lâm chung, tôi và đại chúng Bồ tát
không phóng quang hiển hiện ra trước mắt để tiếp dẫn họ về nước Cực lạc”.
Nguyện thứ 20: Chúng sanh trong mười phương hồi hướng công đức đều được
vãng sanh Tịnh độ.
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật
trong mười phương, nghe đến danh hiệu tôi, tưởng nghĩ đến quốc độ tôi, làm các
việc công đức để hồi hướng nguyện vãng sanh về nước cực lạc mà không được như
nguyện”.
Nguyện thứ 21: Người trong nước đều có đủ 32 tướng tốt
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật
mà nhân dân trong quốc độ không có đủ 32 tướng tốt của trượng phu”.
Nguyện thứ 27: Vạn vật trong nước tôi đều trang nghiêm, thanh tịnh, sáng
suốt, đẹp đẽ vô lượng vô biên.
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật
mà tất cả vạn vật trong quốc độ, thân tướng không trang nghiêm thanh tịnh, không
sáng suốt đẹp đẽ và hình sắc không thù thắng đặc biệt, không tinh vi huyền diệu.
Giá có chúng sanh dù đã chứng được thiên nhãn đi nữa, vẫn không thể biện biệt
hết số lượng của vạn vật trang nghiêm ấy”.
Nguyện thứ 31: Quốc độ thanh tịnh chiếu khắp các thế giới
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật
mà quốc độ không thanh tịnh không soi suốt mười phương vô lượng vô số bất khả tư
nghì thế giới Chư Phật như gương sáng trong suốt mọi vật.
Nguyện thứ 32: Tạp bảo cung điện ngọt ngào hương xông
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật
mà cung điện, lầu gác, cây hoa, cũng như tất cả vạn vật trong quốc độ không ngào
ngạt trăm ngàn hương thơm do vô lượng tạp bảo chung cộng hợp thành, xông ngát từ
mặt đất lên đến hư không. Hương thơm ấy phải kỳ diệu hơn tất cả hương trời, tỏa
khắp mười phương thế giới và sẽ khiến Bồ tát ngửi thấy đều dũng mãnh tu theo
hạnh Phật”.
Nguyện thứ 34: Chúng sanh trong mười phương nghe được danh tự Phật đều
chứng được vô sanh pháp nhẫn.
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật
mà các loại chúng sanh trong mười phương vô lượng bất khả tư nghì thế giới của
chư Phật nghe đến danh tự tôi, mà không chứng được vô sanh pháp nhẫn của Bồ tát
cùng là các phép tổng trì thâm diệu”.
Nguyện thứ 35: Nữ chuyển thành Nam
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật
có những người nữ trong mười phương vô lượng bất khả tư nghì thế giới chư Phật
chán ghét thân phụ nữ nghe đến hiệu tôi, phát tâm Bồ đề. Hoan hỉ tin tưởng, cầu
xã bỏ than phụ nữ mà đến lúc thọ chung vẫn không xả bỏ được thân phụ nữ.
Nguyện thứ 38: Y phục của nhân dân tùy niệm liền hiện, khỏi cần phải cắt
may giặt nhuộm.
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật
mà nhân dân còn có người cần phải cắt may giặt nhuộm mới có quần áo, chứ không
tùy niệm liền hiện như lời Phật tán thán: Diệu phục đúng pháp, tự nhiên để đắp
lên trên mình”.
Nguyện thứ 39: Người trong nước an lạc như hàng lậu tận.
Nguyện rằng: “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật
mà nhân dân trong quốc độ không hưởng thọ an lạc như các hàng lậu tận Tỳ kheo”.
Hai mươi mốt lời nguyện trọng yếu trong số 48 đại nguyện lược trích trên đây
quan hệ mật thiết vô cùng đối với chúng ta. Hai mươi bảy lời nguyện còn lại chỉ
riêng liên quan với các hàng đại Bồ tát nên đối với chúng sanh chưa phải là nhu
cầu cần thiết. Vì vậy nên ở đây nên miễn nói đến. Ai muốn biết tường tận xin hãy
xem trong kinh Quán Vô Lượng Thọ.
Trong mỗi lời nguyện đều có câu “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác.”
Xin lưu ý rằng đó là một điều quan trọng. Không thủ ngôi chánh giác là từ chối
quả vị Phật, không chịu làm Phật để riêng an hưởng thường, lạc, ngã, tịnh một
mình, trong khi chúng sanh trong quốc độ còn đau khổ. Lời nguyện vừa hợp tình,
vừa xứng lý, vừa quảng đại bao la, thể hiện được hoàn toàn cả một trời đại bi
thăm thẳm khó thể nghĩ bàn.
Trong kinh “Phật thuyết A Di Ðà”, Ðức Thích Ca dạy rằng: Ðức Phật A Di Ðà thành
Phật đã từ mười kiếp rồi và 48 lời đại nguyện của ngài đã được thực hiện hoàn
toàn viên mãn. Nếu không như thế, Ngài quyết không chịu thành Phật.
Ðọc lại các lời đại nguyện của Ðức Phật A Di Ðà trên đây, ngay trong hàng tín đồ
rất có thể có kẻ móng tâm bán tin bán nghi. Mà bán tin bán nghi là lẽ thường
tình, và chính ngay Ðức Phật Thích Ca cũng đã tiên đoán như vậy khi Ngài dạy
rằng đây là mọt “nan tín chi pháp”, khó thể nghĩ nghì. Nhưng chúng ta hãy xét
rằng người quân tử ở thế gian không còn bao giời dám nói sai lời, huống hồ là
Ðức Phật, đấng đầy đủ phước đức trí huệ, muôn hạnh vẹn toàn. Vì vậy, chúng ta
phải thật lòng chí thành thâm tín. Có thâm tín mới quyết nghi và chỉ khi nào
quyết nghi được, thì muôn hạnh muôn đức mới phát sanh ra. Kinh dạy: “Nghi tắc
hoa bất khai” nghĩa là hễ còn ngờ vực thì hoa không nở. Dù công hạnh nhiều đến
đâu mà lòng thâm tín chưa kiên cố thiết tha thì khó có kết quả.
Ta cũng nên lưu ý thêm rằng các đại nguyện trên đây đều thuộc trách nhiệm riêng
của Phật. Duy có ba điểm 18, 19 và 20 thì cả đôi bên, Ðức Phật và người tu đều
liên đới chịu trách nhiệm. Ðại nguyện thứ 18 nói rằng người tu hành dù chỉ đều
đều xưng danh hiệu Ngài mười lần mỗi ngày (tu phép thập niệm), cũng được vãng
sanh. Nếu không được vãng sanh, ấy là trách nhiệm của Ngài. Nhưng nếu ta không
chí tâm tin tưởng và không giữ được phép thập niệm đều đặn mỗi ngày thì đó là
lỗi của ta. Hai đại nguyện 19 và 20 kế tiếp liền đó cũng bao hàm cái ý kiến liên
đời trên trách nhiệm như thế cả.
Nếu chúng ta nhứt tâm tin tưởng, dũng mãnh thực hành ba sự kiện: niệm danh
hiệu, nguyện vãng sanh và hồi hướng tất cả công đức để cầu sanh Tịnh độ, tức
là chúng ta đã làm xong nhiệm vụ. Việc đáng làm, cần làm, chúng ta đã làm. Kỳ dư
bao nhiêu điều khác hoàn toàn do trách nhiệm của Ðức Phật A Di Ðà tất cả.
Nói tóm lại, pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ đặt căn cứ trên hai yếu tố
cơ bản: đức từ bi quảng đại của Chư Phật và lòng ưa muốn thiết tất cả chúng
sanh, trên dưới giao cảm nhau, nương tựa nhau mà có khai hoa kết trái. Khi sự
giao cảm tương duyên đã thắm thiết đậm đà đến mức không còn ranh giới của giao
cảm nữa tất nhiên trong nhơn tướng, quả thể đã hiện bày một cách cụ thể. Ðến lúc
ấy, nhân cũng tức là quả, mà quả cũng tức là nhân. Hiện tiền, kết quả đã có thể
chứng nghiệm được, lo gì lúc lâm chung không được vãng sanh lạc quốc! Sự quan
trọng chỉ cốt ở chỗ đức tin có vững không. Lòng tin đã thắm thiết chưa và sự
thực hành có thường xuyên và đúng đắn không? Tất cả chánh yếu của vấn đề là tại
chỗ đó mà thôi.
Hơn nữa, pháp môn niệm Phật còn hàm súc một đạo lý rất vi diệu thậm thâm và còn
có nhiều tác dụng bất khả tư nghì, chứ không phải đơn giản như người thường hay
lầm lẫn. Chính Ðức Thích Ca đã than rằng đây là một pháp “nan tín” mà đây cũng
là một pháp có diệu dụng bất khả tư nghì nhất.
TIẾT BA
BA BẬC VÀ CHÍN
PHẨM VÃNG SANH
Với pháp môn niệm Phật, bất luận là bậc Ðại đức thông tam tạng hay là hạng độn
căn tối dạ một chữ không học, hễ cứ nhất tâm chuyên niệm, dứt trừ được các mối
nghi thì thảy đều được vãng sanh, không bỏ sót một ai. Sỡ dĩ thành tựu được toàn
vẹn như thế là vì sự vãng sanh không chỉ riêng tự lực mà đưon độc thành tựu.
Phải còn nhờ Phật lực nhiếp thọ. Phầnnày là phần quan trọng có ảnh hưởng đều, ai
cũng như ai. Nhưng tuy cùng vãng sanh như nhau, song vì sự bất tề về trí thức và
công hạnh nên phẩm vị cao thấp bất đồng có khác biệt nhau.
Sự bất đồng về phẩm vị theo kinh Ðại Bổn nói có ba, theo Quán Kinh nói có chín.
Ba hay chín, tuy có khác nhau ở con số, nhưng so về ý nghĩa không có gì là chênh
lệch. Một bên nói phớt lờ về đại cương, một bên đi sâu vào chi tiết chẳng qua là
sự sai biệt vì tường tận hay khái lược mà thôi.
Sự phân chia ra ba bậc chín phẩm đại khái được quy định như sau:
Ba phẩm bậc trên dành riêng cho hàng xuát gia ly dục thanh tịnh, nhờ đọc tụng
đại thừa, thâm giải đệ nhất nghĩa đế (chơn lý tuyệt đối), rộng tu các công đức.
Ba phẩm bậc trung dành cho hàng chúng sanh phụng trì trai giới, hồi hướng công
đức, hiếu dưỡng cha mẹ, tu các nhơn lành ở đời, chuyên niệm danh hiệu Phật.
Ba phẩm bậc dưới dành cho hàng chúng sanh biết sám hối tội lỗi sau khi đã lỡ
lầm, biết tinh tấn tu theo phép thập niệm. Cả ba đều cùng lấy sự phát Bồ đề
tâm làm động cơ căn bản.
Sau đây xin căn cứ theo kinh Quán Vô Lượng Thọ, lược giải chín phẩm vãng sanh:
A- SANH VỀ BA
PHẨM TRÊN (thượng)
1-PHẨM
THƯỢNG THƯỢNG
a)Hành động trong lúc sanh tiền
Dấy động từ tâm không sát hại sinh vật, cụ túc cá giới hạnh, đọc tụng kinh điển
Ðại thừa. Tưởng niệm 6 phép tu hành (tưởng niệm Phật, tưởng niệm Pháp, tưởng
niệm Tăng, tưởng niệm bố thí, tưởng niệm giới hạnh, tưởng niệm phước đức) hồi
hướng công đức, phát nguyện cầu sanh Tịnh độ. Tròn đầy các công đức ấy rồi thfi
từ 1 đến 7 ngày sẽ được vãng sanh.
b)Trạng huống lúc lâm chung
Ðức Phật A Di Ðà, Ðức Quán Thế AÂm, Ðức Ðại Thế Chí cùng các đấng Hóa Phật và
Thánh chúng, tay nâng đài kim cang đến trước người hành giả, Phật và Bồ tát đều
phóng hào quang chiếu khắp thân hình hành giả, đưa tay tiếp dẫn tán thán công
đức và khuyến khích tinh tấn. Hành giả hoan hỷ bước lên đài kim cang,tùy hành
theo Phật và Thánh chúng. Trong khoảnh khắc, vãng sanh Cực lạc.
c) Kết quả sau khi vãng sanh
Sau khi vãng sanh về cõi Tịnh độ rồi, thấy được rừng cây áo báu, khắp nơi Phật
và Bồ tát, sắc tướng trang nghiêm hiện ra diễn thuyết pháp mầu. Nghe xong, liền
ngộ vô sanh pháp nhẫn. Trong chốc lát, dạo khắp mười phương, phụng sự hằng sa
chư Phật. Theo thứ lớp được thọ ký, chứng đặng vô lượng pháp môn tổng trì rồi
trở về quốc độ mình tùy nguyện hóa độ chúng sanh.
2. PHẨM THƯỢNG TRUNG
a)Hành động trong lúc sanh tiền
Chưa thọ trì đọc kinh điển Ðại thừa, chưa hiểu rõ thâm nghĩa, nhưng đối với chơn
lý đệ nhất nghĩa đế, lòng không kinh động. Ðã thâm tín nhơn quả, không hủy báng
Ðại thừa, đem công đức ấy hồi hướng cầu sanh Cực lạc.
b)Trạng huống lâm chung
Ðức Phật A Di Ðà và toàn thể Thánh chúng, tay nâng đài vàng đến trước hành giả,
tỏ lời tán thán công đức khuyến tu học lý đệ nhất nghĩa của Ðại thừa. Hành giả
ngồi lên đài vàng chắp tay tán Phật, trong khoảnh khắc liền sanh Tịnh độ.
b)Kết quả sau khi vãng sanh
Ở trên đài vàng như hoa sen lớn một đem hoa nở để lộ ra một thân tướng sắc vàng.
Hành giả nghe các âm thanh thuần nói pháp đệ nhất nghĩa rất sâu xa. Trải qua bảy
ngày, không thoái chuyển Bồ đề tâm, liền sau đó bay đi khắp mười phương, lễ bái
Chư Phật, tu các pháp tam muội. Qua một kiếp, chứng được vô sanh pháp nhẫn và
được thọ ký thành Phật.
3.
PHẨM THƯỢNG HẠ
a)Hành động trong lúc sanh tiền
Tin nhân quả, không hủy báng đại thừa, có phát đạo tâm vô thượng, đem
công đức ấy hồi hướng cầu sanh Tịnh độ.
b)Trạng huống lúc lâm chung
Thấy Ðức Phật A Di Ðà, Ðức Quán AÂm, Ðức Ðại Thế Chí cùng 500 hóa Phật đến rước,
đồng thanh tán rằng: “Pháp tử! người đã phát đạo tâm vô thượng nên nay chúng ta
đến rước người”. Hành giả thấy mình ngồi trên đài hoa sen vàng. Ngồi xong, hoa
búp lại, theo Phật và Bồ tát vãng sanh trong ao sen thất bảo....
c)Kết quả sau khi vãng sanh
Ngồi trong hoa sen được một ngày đêm thì sen nở. Sau khi 7 ngày mới thấy tướng
tốt của Phật nhưng chưa rõ lắm. Sau 21 ngày, mắt mới thấy tỏ tướng đồng thời tai
cũng nghe tiếng thuyết pháp. Rồi cũng chu du khắp mười phương để nghe Chư Phật
nói các pháp nhiệm mầu. Trải qua 3 tiểu kiếp, chứng được bách pháp minh môn an
trú ở địa vị Hoa hỷ (tức là sơ địa Bồ tát)
B- SANH VỀ BA PHẨM BẬC GIỮA (trung)
4. PHẨM TRUNG THƯỢNG
a)Hành động trong lúc sanh tiền
Thọ trì ngũ giới, tu bát quan trai giới, giới đức Thanh tịnh, không tạo nghiệp
ngũ nghịch, không phạm các lỗi lầm, đem các công đức ấy nguyện vãng sanh Cực lạc
b)Trạng huống lúc lâm chung
Khi gần lâm chung, thấy Ðức Phật A Di Ðà cùng Thánh chúng phóng hào quang sắc
vàng đến trước mặt hành giả. Tai nghe Phật thuyết bốn chơn lý: vô thường, khổ,
không, vô ngã và tán thán công hạnh xuất gia. Hành giả rât hoan hỷ, ngồi trên
hoa sen chắp tay lễ Phật. Trong chốc lát liền vãng sanh.
c)Kết quả sau khi vãng sanh
Hoa sen lềin nở và liền nghe thuyết pháp tán thán 4 chơn đế: Khổ, tập, diệt,
đạo. Chứng quả A La Hán, có đủ tam minh, lục thông và tám môn giải thoát đầy đủ.
5. PHẨM TRUNG TRUNG
a)Hành động trong lúc sanh tiền
Hoặc đã từng tu giới bát quan trai giới, hoặc đã từng thọ giới sa di, hoặc đã
từng thọ giới cụ túc, mỗi công hạnh trong một ngày đêm với đầy đủ oai nghi. Ðem
công đức ấy hồi hướng, cầu nguyện vãng sanh Cực lạc.
b)Trạng huống lâm chung
Lúc gần lâm chung, thấy Ðức Phật A Di Ðà phóng hào quang sắc vàng, tay nâng đài
sen thất bảo, cùng với Thánh chúng đến trước mặt hành giả, tán thán rằng: “Thiện
nam tử! Vì nhà ngươi tùy thuận theo lời Phật dạy nên ta đến rước người”. Hành
giả ngồi lên hoa sen. Hoa sen búp lại rồi sanh về Cực lạc.
c)Kết quả sau khi vãng sanh
Ở trong hồ thất bảo bảy ngày, hoa sen mới nở. Mở mắt chắp tay tán thán Ðức Phật,
nghe pháp hoan hỷ rồi chứng được quả Tư đà hoàn. Quả nửa kiếp liền chứng A La
Hán.
6. PHẨM TRUNG HẠ
a)Hành động trong lúc sanh tiền
Hiếu dưỡng cha mẹ, làm các việc nhân từ ở đời.
b)Trạng huống lúc lâm chung
Khi sắp lâm chung, được gặp Thiện tri thức, được nghe các việc an vui của thế
giới Ðức Phật A Di Ðà và được nghe 48 lời đại nguyện của Ngài Pháp Tạng Tỳ kheo.
Nghe xong rồi thì mạng chung. Trong chốc lát, liền vãng sanh Cực lạc.
c)Kết quả sau khi vãng sanh
Trải qua 7 ngày, gặp Ðức Quán Thế AÂm và Ðức Ðại Thế Chí, nghe pháp hoan hỷ,
chứng quả Tư đà hoàn. Qua một tiểu kiếp, chứng quả A La Hán.
C- SANH VỀ BA PHẨM BẬC DƯỚI (hạ)
7. PHẨM HẠ THƯỢNG
a)Hành động trong lúc sanh tiền
Tuy không phỉ báng kinh điển Ðại thừa, gây rất nhiều tội lỗi, làm nhiều điều ác
ngu si không biết tự hổ
b)Trạng huống lúc lâm chung
Lúc gần lâm chung, may mắn gặp bậc Ðại Thiện tri thức nói cho nghe danh tự và đề
mục 12 bộ kinh Ðại thừa. Nhớ nghe tên 12 bộ kinh, trừ diệt được ác nghiệp nặng
nề. Theo lời chỉ bảo của vị Ðại Thiện tri thức, chắp tay niệm danh hiệu Phật.
Nhờ xưng danh ấy, trừ diệt được nhiều kiếp tội lỗi trong đường sanh tử luân hồi.
Bây giờ hóa Phật và hóa Bồ tát Quán Thế AÂm và Ðại Thế Chí đến trước người chết,
tán thán rằng “Thiện nam tử! Nhà người nhờ có xưng danh hiệu Phật. Nhờ có xưng
danh hiệu Chư Phật tội lỗi được tiêu trừ, nên ta đến rước người”.
Thấy nghe xong, sanh lòng hoan hỷ, tức thời mạng chung. Liền cưỡi hoa sen theo
Phật sanh về hồ thất bảo.
c)Kết quả sau khi vãng sanh
Trải qua 49 ngày, hoa sen mới nở. Trong lúc hoa sen nở, Ðức Quán Thế AÂm và Ðức
Ðại Thế Chí phóng hào quang sáng, đứng trước mặt, nói cho nghe giáo lý thậm thâm
của 12 bộ kinh. Nghe rồi tín hiểu phát lòng vô thượng. Trải qua 10 tiểu kiếp,
thông hiểu đầy đủ các pháp và chứng quả sơ địa Bồ tát.
8. PHẨM HẠ TRUNG
a)Hành động trong lúc sanh tiền
Nghiệp chướng nặng nề. Hủy phạm ngũ giới, bát giới hay cụ túc giới. Ăn cắp vật
dụng của Thường trú. Của hiện tiền của Tăng. Thuyết pháp không thanh tịnh, không
biết hổ thẹn với người. Tạo các tội lỗi như đã kể trên, đáng lẽ phải đọa và địa
ngục.
b)Trạng huống lâm chung
Lúc gần lâm chung, tướng địa ngục hiện bày trước mắt. May mắn gặp được Thiện tri
thức nói cho nghe oai đức quang minh, thần lực quãng đại của Ðức Phật A Di Ðà và
tán thán công năng của ngũ hương là giới hương, định hương, huệ hương, giải
thoát hương, giải thoát tri kiến hương. Nghe xong liền tiêu trừ được tội nặng
trong nhiều kiếp sanh tử, lửa địa ngục liền chuyển hóa thành gió mát. Liền đó có
mưa hoa rải rác, trên hoa có Phật và Bồ tát hóa hiện ra để tiếp dẫn. Trong chốc
lác, liền được vãng sanh vào hồ sen thất bảo.
c)Kết quả sau khi vãng sanh
Trải qua sáu kiếp, sen nở, Ðức Quán Thế AÂm, Ðức Ðại Thế Chí dùng pháp âm an ủi
và nói cho nghe nghĩa lý sâu xa của kinh điển Ðại thừa, nghe xong liền phát tâm
vô thượng Bồ đề.
9. PHẨM HẠ HẠ
a)Hành động trong lúc sanh tiền
Làm các nghiệp bất thiện, gây đủ mọi tội lỗi như phạm tội ngũ nghịch, thập ác.
Ðã gây các ác nghiệp ác ấy là phải đọa địa ngục trải qua nhiều kiếp để chịu mọi
khổ não.
b)Trạng huống lúc lâm chung
Lúc gần lâm chung, may mắn gặp được Thiện tri thức nói cho nghe pháp mầu và bảo
niệm danh hiệu Phật. Kẻ kia bị khổ não bức bách không thể niệm được. Thiện hữu
thương xót khuyến khích và nhất tâm hộ niệm. Tiếng niệm phật liên tục bất tuyệt,
khiến kẻ kia có thể họa theo. Nếu họa niệm đủ 10 lần “Nam Mô A Di Ðà Phật” tức
thời nhờ niệm lực ấy mà tội lỗi trong nhiều kiếp được tiêu tan. Lúc mạng chung
liền thấy hoa sen vàng như vầng mặt nhựt hiện ra trước mắt. Trong khoảnh khắc
liền vãng sanh thế giới Cực lạc.
c)Kết quả sau khi vãng sanh
Nằm trong hoa sen đủ 12 đại kiếp, sen mới nở Ðức Quán Thế AÂm và Ðức Ðại Thế Chí
nói cho nghe thật tướng của các pháp và dạy cho phép diệt trừ tội chướng. Nghe
xong sanh tâm hoan hỷ, phát tâm vô thượng Bồ đề.
Như trên đã tóm tắt trạng huống theo nhơn quả của chín phẩm vãng sanh thuộc ba
bậc: Thượng, Trung, Hạ.
Trong chín phẩm ấy, năm phẩm trước là kết quả của sự tu tập hồi hướng công đức
nguyện cầu sanh về thế giới Cực lạc. Phẩm vị sở dĩ có cao có thấp bất đồng là
căn cứ nơi công tu tập sâu cạn mà có sai biệt.
Chí như bốn phẩm sau thì lại không cùng có nguyên nhân như trên. những kẻ được
vãng sanh thuộc 4 phẩm này chưa từng tu pháp xuất thế gian. Như phẩm thứ 6
(Trung hạ) chẳng hạn, thì chỉ có nguyên nhân là hiếu thuận với cha mẹ, nhơn từ
với làng xóm, nghĩa là chỉ cần tu theo thiện pháp thông thường của thế gian mà
thôi. Ba phẩm chót thuộc về bậc hạ sanh thì không những chưa tu thiện pháp thế
gian mà lại còn tạo nhiều trọng tội nữa. Theo luật quả báo, lúc lâm chung ác
tướng hiện bày, lẽ đáng phải đọa ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ hay súc sanh.
Thế mà, nhờ gặp Thiện tri thức, phát được tín tâm trong lúc ấy, cũng được vãng
sanh. Các trường hợp này trong kinh mệnh danh là “đới nghiệp vãng sanh”. Ðới
nghiệp vãng sanh toàn là nhờ nguyện lực rộng lớn của Ðức Phật A Di Ðà vô cùng vô
tận vậy. Vì lẽ đó, tôn Tịnh độ này đem so với các pháp môn tu trì khác, không
pháp môn nào bì kịp. Cho nên, trong “Phật Giáo Sơ học Khóa bổn” nói rằng: “Những
điều trong Quán kinh dạy thật rất kinh dị: Tạo tội ngũ ngịch mà vẫn được vãng
sanh. Nguyện lực Phật quả khó lường. Trong tam tạng giáo điển, trừ Quán kinh ra,
không thấy có chỗ nào nói như thế”, thật là một pháp môn đặc biệt hy hữu.
Ðiểm thứ hai cần chú ý về Tịnh độ tôn là sức hộ niệm của thiện hữu tri thức phối
hợp với nguyện lực bất khả tư nghì của Ðức Phật A Di Ðà, điểm đặc biệt này cũng
choán hết 4 phẩm sau. Quả vậy, những kẻ được vãng sanh thuộc 4 phẩm sau lúc sanh
tiền, chưa từng nghe đến vấn đề sanh Tịnh độ, chưa hề lưu ý đến Phật pháp, thế
mà khi sắp lâm chung được gặp thiện trị thức khuyến khích tán thán xưng niệm
danh hiệu, kết quả cũng được ngồi lên đài sen sanh về nước Phật, như thế, chúng
ta thấy công năng gia trì hộ niệm của thiện tri thức vô cùng quý báu, quý báu cơ
hồ như ngang với Phật lực!
Ðồng thời, ta cũng nên ý thức sự quan trọng của giờ phút lâm chung là như thế
nào? Mặc dù bình sanh có tu hay không tu, căn cứ vào trạng huống lúc lâm chung,
người ta có thể quyết đoán rằng: “Hễ trong giờ phút lâm chung mà được thanh tịnh
thì bất luận là ai, cũng đều được vãng sanh tất cả.” Trái lại, giả sử cả đời tu
hành, nhưng đến giờ phút lâm chung mà còn luyến tiếc, nghi ngờ, rối loạn, thì
không thể nào vãng sanh được. Cho nên, những bậc thiện tri thức và ban hộ niệm
không thể vắng mặt trong giờ phút “thiên thu vĩnh biệt” mà dù là Phật tử hay
không Phật tử, nếu người ấy muốn có một cuộc đời hạnh phúc vĩnh cửu sau khi bỏ
đời này qua đời khác.
Ðiểm thứ ba cần chú ý nữa là: Không nên lầm lẫn giữa kết quả tất nhiên là 5 phẩm
trước và kết quả hy hữu là 4 phẩm sau.
Khi nghe nói rằng chúng sanh trong 4 phẩm sau, lúc sanh tiền chưa từng niệm
Phật, ngược lại còn làm các điều dữ, miễn lúc lâm chung gặp được Thiện tri thức
chỉ điểm khai đạo, niệm được 10 lần danh hiệu Phật cũng được vãng sanh; nghe nói
như vậy rồi cho rằng lúc sanh tiền cần gì tu hành niệm Phật và làm các điều
phước thiện cho nhọc sức, đến lúc gần lâm chung nhờ người niệm hộ và tự mình chỉ
cần niệm 10 lần là đủ rồi. Quan niệm như thế, thật là vô cùng lầm lạc. Như vậy
tỏ ra không hiểu ý nghĩa và tác dụng của pháp niệm Phật.
Bình thời, niệm Phật là gây cho mình một thói quen. Nhờ thói quen ấy nên lúc lâm
chung, dù gặp hoàn cảnh nào cũng không quên niệm Phật. Có như thế mới có cảm
ứng. Ðó làhiện tượng chánh thường. Chứ như bình thời không niệm Phật vì không
biết Phật, nhưng (lúc lâm chung, nhờ cơ duyên tốt, gặp được thiện tri thức hộ
niệm dạy bảo), nhơn đó phát sanh chánh niệm, liền được vãng sanh. Ðây là hiện
tượng đặc biệt.
Cả hai trường hợp đều xuất ở lòng thành thật. Có khác chăng là hiện tượng chánh
thường, chúng ta nên nương tựa vì ta là chủ động. Hiện tượng đặc biệt khó mà ỷ
lại vì ta không chủ động được và trong muôn người chưa có được một thừa hưởng
đặng cơ duyên hy hữu ấy.
Hơn nữa, biết mà không làm, đợi đến phút lâm chung mới chịu phát tâm, sự phát
tâm ấy làm sao gọi được là chơn chánh? Với một bộ óc tính toán và vụ lợi như thế
thì chỉ có thể phát sanh ra tà niệm mà thôi!
Tình cảnh chết chóc của loài người thật là thiên hình vạn trạng. Có kẻ chết
không được an lành như chết trong lao tù, chết trên chiến địa, chết bên đường
ngoại nội, chết trên bàn mổ ở dưỡng đường v..v... Những cảnh chết như thế thì
làm thế nào gặp được thiện tri thức hộ niệm? Không phải ai cũng chết an lành và
chung quanh có kẻ thân thuộc hết? Ðó là chưa kể trường hợp gia nhơn vì bối rối
hoặc vì không tin nên không mời kịp hay không chịu mời Thiện tri thức hộ niệm!
Lại có kẻ chết bất thần không thể nào mời kịp, hoặc có mời kịp nhưng tâm thần
bênh nhân hoảng loạn không thể nghe và không thể niệm theo thì biết làm thế nào?
Biết bao nhiêu là vấn đề nan giải trong lúc bối rối ấy.
Trong lời đại nguyện thứ 19 của Ðức Phật A Di Ðà chỉ nói khi thân mạng gần lúc
lâm chung có Phật và Bồ tát đến đón vây, chứ không nói trạng huống lúc lâm chung
như thế nào. Vì thế kẻ hành giả đã từng phát nguyện cầu vãng sanh thì bất luận
chết cách nào, hoặc bằng pháo đạn gươm dao, thuốc độc, huyết dư, dịch tả, hoặc
bị đánh đòn, bị cọp bắt, bị điện giật, bị lửa cháy, bị nước trôi v.v... Hoặc kịp
niệm Phật, hoặc không kịp niệm Phật, trong giờ phút lâm chung thảy đều được Phật
và Thánh chúng vây tiếp dẫn.
Tóm lại, ỷ vào Thiện tri thức không bằng tự trông cậy mình, cầu Phật lúc lâm
chung không bằng cầu Phật thường xuyên hằng ngày. Sở dĩ hành giả bình thời xưng
niệm danh hiệu Phật chính là ứng với đại nguyện thứ 18: “Mỗi ngày mười niệm,
quyết được vãng sanh”; bình thời phát nguyện cầu vãng sanh tức là ứng hợp với
đại nguyện thứ 19: “Kẻ nào phát nguyện vãng sanh Cực lạc, lúc lâm chung sẽ có
Ðức Phật đến rước”; và bình thời làm các công đức hồi hướng công đức về quả Cực
lạc là ứng hợp với đại nguyện thứ 20: “Kẻ nào hồi hướng công đức, nhất định được
vãng sanh.”
Hằng ngày, tu phép thập niệm, phát nguyện vãng sanh và hồi hướng công đức cũng
như người có đóng bảo hiểm nhơn thọ. Một bên là đóng bảo hiểm vật chất, một bên
là đóng bảo hiểm tinh thần; cả hai nhất định toại nguyện như nhau.
Như trên, ta thấy quả vãng sanh là một quả có bảo đảm chắc chắn, mà nhơn vãng
sanh lại là một nhơn dễ tu tập. Ðiều cốt yếu là phải thật hiểu nhơn tinh thần
của Pháp môn niệm Phật mới sanh được chánh niệm. Ðừng có như anh chàng nào đó
thấy người sa chân xuống hố sâu, gặp may không chết lại gặp được vòng vàng, rồi
cũng tham lam bắt chước chúm chân nhảy xuống hố sâu để được lượm được vàng, nào
dè vàng tìm không gặp mà chỉ gặp tử thần đương mừng rỡ đón chào. Bị tan xương
nát thịt một cách oan uổng như thế, thật đáng thương thay!
CHƯƠNG III
ÐƯỜNG LỐI TU TỊNH ÐỘ
TIẾT MỘT
BA TƯ LƯƠNG:
TÍN, NGUYỆN, HẠNH.
Pháp môn Tịnh độ dễ tu nhưng khó tin. Trong kinh “Phật tuyết A Di Ðà”, Ðức Thế
Tôn cũng thừa nhận như thế.
Ðã thế rồi, pháp môn này lại còn nương tựa hoàn toàn vào lòng tin để thành tập,
nương vào lòng tin để duy trì; có lòng tin rồi mới sanh khởi hành động, rồi mới
đạt được nguyện vọng nhơn viên quả mãn. Nếu không có lòng tin vững chắc thì tuy
cửa Phật rộng mở, cũng không thể vào được. Vì vậy nên Tín, Nguyện, Hạnh gọi là
ba môn tư lương về Tịnh độ.
Nói tư lương cũng ví như nói người muốn đi xa cần phải có tiền của (tư) và lương
thực (lương) nếu thiếu một trong hai thứ đó thì khó mà đạt mục đích mình muốn
đến. Cũng thế, ba món tư lương cần có để lên đường về Tịnh độ cũng không thể
thiếu một. Hơn nữa, ba món này liên hệ mật thiết với nhau theo thứ tự trước sau
tiếp nối sanh khởi. Trước hết phải do có lòng tin thắm thiết mới có phát sanh
nguyện cầu; do nguyện cầu thành khẩn mới hăng hái hành động. Nếu lòng tin không
có thì quyết nhiên nguyện và hạnh không thành lập được.
TÍN là căn bản của người tu hành pháp môn Tịnh độ, phải:
Thứ nhứt, phải tin rằng ba bộ kinh nói về Tịnh độ là do Ðức Thích Tôn vì lòng từ
bi chân thật mà dạy cho chúng ta quyết không phải như sách ngụ ngôn giả thiết để
khuyến tu.
Thứ hai, phải tin rằng ngoài thế giới ô uế mà chúng ta hiện sống, chắc thật có
thế giới Tịnh độ trang nghiêm.
Thứ ba, phải tin rằng 48 lời đại nguyện của Ðức Phật A Di Ðà cùng là những công
hạnh kiến lập cõi Tịnh độ của Ngài là chơn thật, cũng như việc Ngài đăng ứng hóa
độ sanh tại cảnh giới Tịnh độ ấy là chơn thặt.
Thứ tư, phải tin rằng sanh Tịnh độ hay uế độ là do trồng nhơn tịnh thì hoàn quả
tịnh, trồng nhơn uế thì quả uế, tuyệt nhiên toàn do tự tâm ứng hiện. Hễ trồng
nhơn tịnh thì được tinh không liên quan gì đến vấn đề thưởng phạt.
Thứ năm, phải tin rằng chánh niệm của ta cùng tâm niệm của Ðức Phật A Di Ðà chắc
chắn cảm ứng với nhau, lâm chung thế nào cũng được Ngài tiếp dẫn vãng sanh.
Thứ sáu, phải tin rằng tuy ác nghiệp của chúng ta có nhiều, nhưng một khi sanh
về Tịnh độ, nhờ có hoàn cảnh tốt đẹp thuận tiện, nhờ ơn giáo huấn thường xuyên
của Phật và Bồ tát, ác niệm không thể sanh khởi lại và ác báo do đó sẽ lần lần
tiêu trừ.
Thứ bảy, phải tin rằng sức mình và sức Phật, cả hai đều bất khả tư nghì. Trong
hai sức cùng bất khả tư nghì ấy, sức Phật lại bất khả tư nghì, gấp trăm ngàn
muôn ức lần hơn. Cho nên, một khi được tiếp dẫn, sức mình còn kém cõi thì với
sức Phật cũng đủ giúp ta vãng sanh.
Thứ tám, phải tin rằng Phật có vô số Pháp môn giải thoát, Phật có công năng kiến
lập thế giới trong một mảy trần. Giá như chúng sanh trong mười phương đều sanh ở
trong mảy trần ấy, hết thảy phòng ốc dụng cụ đều trang nghiêm đầy đủ, không
thiếu một thứ gì.
Thứ chín, phải tin rằng mình niệm một tiếng niệm Phật là tức thời Ðức Phật liền
nghe và liền thâu nhiếp.
Thứ mười, phải tin rằng hễ mình niệm Phật thì chắc chắn lúc lâm chung được Phật
và Thánh chúng đến tiếp dẫn vãng sanh về thế giới Cực lạc, quyết không còn đọa
lạc luân hồi trong sáu đường nữa.
Tóm lại, phải tin chắc rằng những lời Phật dạy trong kinh đều chơn thật, cần
phải thâm tín, tuyệt đối không nên sanh tâm ngờ vực, lòng ngờ vực là chướng ngại
vật không thể vượt qua trên con đường dẫn đến đạo quả. Có lòng ngờ vực rồi thì
tất nhiên nguyện và hạnh sẽ không có cứ điểm để sanh khởi. Nếu lòng tin kiên cố,
tự nhiên phát nguyện cầu sanh Cực lạc và đã phát tâm nguyện cầu, tự nhiên chuyên
tâm tinh tấn, y pháp hành trì,không đợi ngoại duyên thúc đẩy.
Người đời nhơn vì căn khí bất đồng. Cho nên, kiến thức cũng bất đồng. có người
cho rằng Tịnh độ là cõi hư vô không thật, nên không tin. Có người cho rằng chết
là mất hẳn, không có đời sau, nên không tin. Có người cho rằng sanh đông sanh
tây, chịu khổ hưởng vui đều là việc ngẫu nhiên, không có việc gây nhơn hưởng quả
nên không tin. Có người cho rằng niệm Phật cầu sanh Tây phương là lối giả thiết
để khuyên người làm lành lánh dữ, chứ không có cảnh Tây phương Tịnh độ, giả sử
có thật thì không thể chỉ niệm ít lần danh hiệu Phật mà được vãng sanh, nên
không tin. Có người cho rằng con người vốn đã nặng nghiệp tham, sân,si và ích
kỷ, dù có sanh về Tịnh độ thì thói cũ vấn khó trừ, quyết không thể trong khoảnh
khắc biến thành người hiền thiện được, nên không tin. Có người cho rằng con
người ở thế gian này tạo nghiệp ác quá nhiều, đương nhiên phải theo từng nghiệp
mà thọ quả báo, không thể nhờ vãng sanh mà tiêu trừ tất cả nghiệp dữ trong một
lúc, như thế htì không hợp với nhân quả. Nên không tin. Có người cho rằng mỗi
ngày chỉ cần niệm 10 lần danh hiệu Phật mà cũng được vãng sanh, đó là lời nói mơ
hồ, giả như tất cả chúng sanh ai nấy đều làm y như thế thì địa ngục hẳn sẽ trống
không, thế giới này hẳn không còn người ở, không thể có việc dễ dàng như thế,
nên không tin. Có người cho rằng quốc độ Cực lạc, dù cho số phòng ốc dụng cụ có
nhiều đến đâu vẫn có số lượng, trong khi ấy thì số chúng sanh được vãng sanh từ
vô thỉ đến giờ, theo lời Phật dạy là vô lượng, thế mà không bị nạn nhân mãn thì
thật là mâu thuẫn, vì thế mà không tin. Có người cho rằng sanh về Tịnh độ, nghĩ
gì có nấy, muốn áo có áo, muốn ăn có ăn, khỏi nhọc công người tạo tác, thật
không khác nào lời nói trong mộng, nói như thế chỉ phỉnh phờ được kẻ ngu phu,
thất phu, vì vậy nên không tin. Có người cho rằng thế giới Cực lạc, đất vàng,hồ
sen, lâu đài thảy đều bằng thất bảo, không cần kiến tạo mà tự n hiên thành tựu,
đó là chuyện thần thoại của đời thượng cổ còn sót lại,không hợp với khoa học
hiện đại,vì vậy nên không tin. v.v... và v.vv
Vì vậy, chúng ta chỉ nên tin lời Phật mà thực hành theo, quyết không bị lầm lạc
và để khỏi bỏ phí thì giờ luống trôi qua không hí đàm. Nếu tự phụ là thông minh
trí tuệ không chịu tin theo, chung quy sẽ trở lại thua những người thật thà chất
phát mà có tín tâm mạnh mẽ. Sở dĩ sanh tâm tự phụ kiêu căng như thế, chẳng qua
là vì phước đức thiểu bạc nên mới không thọ nạp được một pháp môn giản dị và rất
khó gặp như pháp môn Tịnh độ. Thật cũng đáng tiếc lắm thay!
Trên đây, hoàn toàn đứng về phương diện Tín mà nói, chứ chưa đề cập đến hai
phương diện Nguyện và Hạnh. Nhưng hễ Tín đã vững chắc thì Nguyện
và Hạnh tự nhiên thành tựu, khỏi cần phải nhắc nhủ, khuyến hóa. Vì như khi đã
tin chắc rằng trước sân nhà có hầm vàng thì tự nhiên không ai sai bảo, vẫn hăng
hái đào bới tìm tòi. Còn nếu nghe nói có hầm vàng mà chưa chịu đi đào là vì lòng
tin chưa vững chắc.
TIẾT HAI
THẬP
THIỆN LÀ CƠ BẢN TU HÀNH
Thập thiện là mười điều kiện, thuộc ba nghiệp thân, khẩu, ý.
Thuộc thân nghiệp có 3 điều: không sát sanh, không trộm cắp, không dâm
dục (nếu là tại gia thì không có tà dâm)
Thuộc khẩu nghiệp có 4 điều: không nói láo, không nói lời thêu dệt, không
nói hai lưỡi, không nói lời thô bạo.
Thuộc ý nghệp có 3 điều: không tham lam, không sân nhuế, không ngu si.
Mười điều thiện này là căn bản phát sanh tất cả các điều thiện khác. Ðó cũng là
nền tảng xây dựng mọi hoàn cảnh giới an vui.
Người tu hành mà không tu mười điều thiện này thì không khác sẻ xây lâu đài cao
ngàn thước trên vũng bùn, quyết không hy vọng thành công.
Ðức Phật trong lúc nói kinh Thập thiện nghiệp đạo, đã dạy cho Long vương rằng:
“Mười thiện nghiệp này có công năng làm cho các pháp như thập lực, tứ vô sở úy,
thập bát bất cộng, tất cả các pháp mà Phật đã chứng, thảy đều được viên mãn vì
vậy nên các người cần phải tu học thập thiện. Này long Vương! Ví như tất cả
thành ấp xóm làng đều y vào đại địa mà sanh trưởng, thì mười điều thiện này cũng
lại như vậy. Tất cả thiên nhơn đều y vào “đại địa” thập thiện mà thành lập, tất
cả Thanh Văn, Duyên giác, Bồ tát và tất cả Phật pháp cũng đều y vào “đại địa”
thập thiện mà thành tựu được các hạnh Bồ đề.
Trong kinh Quán Vô lượng thọ, Phật bảo bà Vi Ðề Hy rằng: “Muốn sanh về nước Cực
lạc, phải tu ba phước. Trong ba phước ấy, phước thứ nhứt là hiếu dưỡng cha mẹ,
phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu mười thiện nghiệp thiện”.
Vì thế, người tu pháp môn niệm Phật cần phải tu mười điều thiện để làm cơ bản
cho tịnh nghiệp. Nếu đạo niệm không tha thiết, mười thiện nghiệp không tu, thời
thật e khó vãng sanh cảnh giới Chư Phật.
Tóm lại, muốn chắc chắn vãng sanh, một mặt cần phải luôn luôn gìn giữ ba nghiệp
thân, khẩu, ý, chớ để phạm các điều ác: mặt khác lại phải luôn luôn chuyên cầu
niệm Phật thường xuyên.
TIẾT BA
ÐÔN ÐỐC HẾT
BỔN PHẬN
Ðời và đạo có tương quan mật thiết với nhau và giúp ích lẫn nhau, nhất là
đói với hành Phật tử tại gia chưa thoát ly được gia đình và xã hội. Ai trong
nhiệm vụ nào phải lo tròn nhiệm vụ ấy. Là trưởng quan, phải nhất tâm vì dân, vì
nước. Là liêu thuộc, phải hết bổn phận liêu thuộc, trung thành với chức
vụ. Là người buôn bán, phải giữ đúng hàng thật giả, đừng lừa trẻ dối già. Là
thầy thuốc, phải biết thương xót con bệnh, nâng đỡ kẻ nghèo hèn, và hết lòng
điều trị v.vv... Nói tóm lại, trong bách công kỹ nghệ, mỗi mỗi đều phải làm tròn
bổn phận tận tâm với chức vụ, lại vừa lo tích công dồn đức, tu học Phật pháp thì
nhất định có ngày giải thoát. Ðó là ngoài xã hội.
Trong gia đình lại còn những bổn phận khác. Là cha mẹ, phải nuôi nấng dạy dỗ con
cái thành người. Là con cái phải biết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Là vợ chồng,
anh em, thầy trò, bầu bạn, phải đôn đốc hết bổn phận vợ chồng, anh em, bầu bạn,
hợp với lẽ đời. Có làm tròn hết các bổn phận ấy bấy giờ mới nói đến lẽ đạo.
Nếu trái lại, việc đời bấy như tương, tự thân mình chỉ là “y quan cầm thú” (cầm
thú mang áo đội mũ) thì làm sao có thể nói đến lẽ Ðạo được? Với các sự kiện
khách quan và chủ quan thiếu tốt đẹp ấy mà mong thành Phật hoặc cầu sanh nước
Phật thời e tịnh nghiệp chưa kịp thành mà nghiệp quả đã chín trước. Tưởng khó
tránh khỏi quỷ vô thường dẫn dắt vào địa ngục, ngạ quỹ súc sanh!
Vì thế, hy vọng rằng toàn thể Phật tử, khi muốn thoát ly sanh tử, tu theo pháp
xuất thế, không những không nên xa bỏ việc đời, lấy việc đời làm cơ bản cho đạo,
khiến cho đời trở nên tốt đẹp hơn và khiến cho đạo tỏa sáng trong lòng đời. Có
như thế, Phật tử tại gia mới mong thành công chắc chắn và mau chóng.
Thảng hoặc, có người trước khi trót lỡ tạo các ác nghiệp, thì hôm nay chí thành
ăn năn hối cải, nguyện không tái phạm. Cửa Phật rộng mở chờ đón người biết sám
hối. Một phen sám hối rồi, thề quyết không bao giờ tái phạm trở lại. Hơn
nữa, phải cố gắng đền bù tội lỗi trước bằng cách làm nhiều việc phước thiện mới.
Ðược như thế thì ác báo sẽ tiêu tan và phước đức sẽ tăng trưởng. Ví như cái chai
trước kia đựng thuốc độc nhưng giờ đây sức chùi sạch sẽ rồi, tự nhiên độc không
còn nữa.
TIẾT BỐN
RỘNG TU CÔNG
ÐỨC, HỒI HƯỚNG QUẢ VÃNG SANH
Trong kinh Quán Vô lượng thọ chép: “Phật bảo ngài A Nan và bà Vi Ðề Hy rằng nếu
có chúng sanh nào nguyện cầu sanh về Tây phương Tịnh độ, nên phát khởi 3 tâm thì
liền đặng vãng sanh. Ba tâm ấy là:
1. Chí thành tâm, 2. Thâm tâm, 3. Hồi hướng phát nguyện tâm. Có đủ
ba tâm ấy, quyết được vãng sanh về nước cõi kia”.
Danh từ “Thâm tâm” trong kinh, chỉ cho cái tâm tu hành các công đức và thích làm
điều lành.
Danh từ “Hồi hướng phát nguyện tâm” chỉ cho cái tâm muốn đem các công đức đã tu
hoặc đem các việc lành đã làm, hướng về cõi cực lạc để nguyện cầu vãng sanh.
Trong Phật pháp, việc hồi hướng công đức có một giá trị trọng yếu. Ðại nguyện
thứ 20 của Ðức Phật A Di Ðà đã có nói đến. Vậy xin sơ lược giải thích ý nghĩa
của việc hồi hướng công đức như sau:
1) Ðức và hiệu của Phật có công năng bất khả tư nghì;
2) Tâm thức thanh tịnh của chúng sanh có công năng bất khả tư nghì;
3) Tâm niệm của chúng sanh cũng có công năng bất khả tư nghì. Hợp cả ba công
năng bất khả tư nghì ấy tạo thành phương pháp Tịnh độ. Cho nên pháp môn Tịnh độ
cũng bất khả tư nghì.
Trên lý thì hành giả chỉ niệm hiệu Phật là đủ vãng sanh, nhưng trong thâm tâm
hành giả khi tu pháp môn Tịnh độ, ngoài sức niệm Phật ra, còn cần phải rộng tu
các công đức, hồi hướng quả vãng sanh, là vì:
1) Cần cúng dường Ðức Phật A Di Ðà để trang nghiêm Phật độ.
2) Cần làm các trợ duyên tặng thượng cho đạo quả.
3) Cần phát tâm Ðại thừa học theo hạnh Bồ tát.
Vì các lẽ trên nên không những chỉ niệm hiệu Phật mà đã cho là đủ được. Bất cứ
việc gì cũng không ly được nhơn quả; dù là pháp thế gian hay pháp xuất thế gian.
Bất luận tâm niệm thiện hay ác hoặc hành động thiện hay ác đều có hậu quả về
sau. Căn cứ vào lẽ ấy, ta có thể biết hành giả tu tập thiện pháp, trong tương
lai quyết phải được phước báo. Giả sử điều thiện ấy thuộc loại nhơn hữu lậu nhơn
thiên, thì trong tương lai sẽ hưởng phước báo nhơn thiên, chứ chưa phải là cứu
cánh an lạc, vì còn đọa lạc luân hồi. Giả sử điều thiện ấy thuộc loại nhơn vô
lậu, xuất thế gian thì trong tương lai sẽ sanh về Ngũ bất hoàn thiện (cảnh giới
của 4 quả thánh: Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán) hoặc mười phương
Tịnh độ.
Nếu vì lý do không muón thọ hưởng quả báo nhơn thiên vì sợ còn luân hồi đọa lạc
mà hành giả tự nguyện hối hướng tất cả công đức của mình hoặc công đức hữu lậu
hoặc công đức vô lậu, làm trợ duyên tăng thượng để cầu vãng sanh Cực lạc của Ðức
Phật A Di Ðà. Như thế thì bao nhiêu nhơn gây phước báo nhơn thiên hữu lậu hoặc
vô lậu trước kia sẽ không thành thục được mà địa điểm thành thục chỉ ở thế giới
Cực lạc. Ðã quy tụ được về một nơi rồi thì dù tịnh nghiệp chưa hoàn toàn nhưng
phước quả vẫn thành tựu. Vì rằng hết thảy các pháp đều do tâm tạo. Tâm lực đã có
công năng trồng nghiệp quả thì cũng có công năng chuyển nghiệp quả. Vì thế, khi
hành giả hướng tất cả quả Cực lạc, tâm niệm ấy không những có công năng điều hòa
các chủng tử vô lậu đã huân tập trong đệ bát thức, nó lại còn khiến cho các
chủng tử ấy biến chất thành chủng tử tịnh pháp hoàn toàn vô lậu. Chủng tử đã
quyết định được rồi, như vậy địa điểm tương lai sẽ hưởng thọ quả báo cũng có thể
biết trước một cách chắc chắn rồi vậy. Ðây là giải thích theo lý duy thức, một
nền học lý rất thâm diệu trong Phật pháp.
Trong pháp môn Tịnh độ, hồi hướng chiếm một địa vị rất trọng yếu. Hành giả quyết
phải thâm tín mới có hiệu lực.
Vạn nhất, nếu còn nhứt điểm hồ nghi ở trong lòng thì tâm lực sẽ mất công dụng,
không làm sao chuyển biến được chủng tử trong bát thức. Nếu tâm hồn còn hồ nghi,
pháp môn Tịnh độ sẽ không đem lại hiệu quả nào cho hành giả hết. Dạy: “Còn nghi
thì hoa không nở” là chỉ cho duyên cớ ấy.
Ðức Phật A Di Ðà biết rõ chủng tử có thế biến từ hữu lậu sang vô lậu, công đức
có thể từ cõi này di dịch qua cõi khác, nên mới phát đại nguyện thứ 20. Trăm
ngàn năm trở lại đây, các vị Ðại đức cũng hiểu rõ lý do, nên mới soạn ra các bài
văn phát nguyện hồi hướng Cực lạc khuyên ta đem công đức tu thành hồi hướng về
quả vãng sanh thế giới Cực lạc.
Hành giả bất luận làm công đức gì, dù chỉ giúp kẻ khó một đồng tiền hay chỉ cứu
mạng sống cho một con kiến, sau khi làm xong, cũng phải quán tưởng Ðức Phật A Di
Ðà như đương đứng trước mặt chắp tay cung kính đọc bài kệ rồi hướng sau đây:
Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm chốn Phật độ
Trên đền bốn ơn sâu
Dưới cứu ba đường khổ
Nếu có kẻ nghe thấy
Ðồng phát tâm Bồ đề
Khi mãn báo thân này
Nước Cực lạc cùng về.
Sau khi đọc bài kệ ấy rồi, bao nhiêu công đức đã làm liền cảm ngay tâm lực của
Phật ứng với tâm ta. Sức cảm ứng của hai bên tức là “tư lương” vãng sanh Cực lạc
về sau này.
Tất cả công đức hồi hướng, bất luận công đức thuộc loại hữu lậu hay vô lậu, đều
trở thành tư lương vãng sanh, ứng hợp với đại nguyện thứ 20 của Ðức Phật A Di
Ðà. Chắc chắn về sau sẽ được toại nguyện không sai.
TIẾT NĂM
CẨN THẬN LÚC LÂM CHUNG
Trong sự chuyển tiếp từ kiếp nọ sang kiếp kia, cái niệm chót (nhất niệm tối hậu)
có một lực lượng mãnh liệt quyết định cho việc vãng sanh. Vì lý do ấy cho nên
lúc lâm chung, người tu hành phải biết làm thế nào để chỉ còn nhớ Phật, niệm
Phật thì chắc chắn sẽ sanh về cõi Phật.
Kinh “Phật thuyết A Di Ðà” dạy rằng: “Nếu người nào niệm Phật trong bảy ngày
được nhất tâm bất loạn, lúc lâm chung, có Phật và Thánh chúng hiện ra trước mặt:
người ấy, tâm không còn điên đảo và liền được vãng sanh.” Nhất tâm bất loạn
nghĩa là ngoài sự nhớ Phật, tưởng Phật, không có một vọng niệm nào xen lẫn ở
trong lòng: lòng mình và lòng Phật đã xứng hợp làm một. Kinh văn đã dạy rõ ràng
như thế, đương nhiên tuyệt đối chúng ta phải tin. có e ngại chăng là e ngại tịnh
nghiệp tu chưa tinh tấn nên phút lâm chung, tâm còn điên đảo cũng khó được Phật
tiếp dẫn. Tâm còn điên đảo thì cũng khó mà vãng sanh. Vì vậy, trong khi gần lâm
chung rất cần có người hai bên trợ niệm. Có kẻ trợ niệm mới dẫn phát được tâm
người bệnh niệm Phật, lý do cần thiết lập các ban hộ niệm là thế.
Hiện tại ở các khuôn hội đều có thiết lập ban Hộ niệm. Bất luận trai gái già trẻ
là Phật tử, ai ai cũng nên gia nhập vào ban ấy càng đông càng tốt. Hễ khi nào
gặp một bệnh nhân lâm nguy, trong ban nên cắt phiên thay nhau đến nơi phòng
người bệnh, đốt hương niệm Phật. Như vậy, mắt trông thấy tượng Phật, tai nghe
tiếng niệm Phật, mũi ngữi mùi hương thơm từ bàn Phật xông ra, người bệnh có đủ
duyên sanh khởi tịnh niệm, rất hữu ích cho sự vãng sanh Tịnh độ.
Nay xin đem những biện pháp của người tu hành cần gìn giữ trong phút lâm chung,
sơ lược giải bày như sau, để các ban hộ niệm y cứ hành trì. Mong rằng các đạo
hữu lưu ý, công đức sẽ vô lượng, vì nó quyết định cho tương lai của cả một đời
tu hành.
a) Lúc bệnh nặng sắp lâm chung
Khi có một đạo hữu bệnh nặng sắp lâm chung, thân thuộc nên tin cho ban hộ niện
và mời đến nhà hộ niệm. Nếu tinh thần người bệnh còn tỉnh táo, ban hộ niệm nên
nhất thiết khuyên thân thuộc đừng khóc lóc và cũng đừng đem việc nhà nói với
người bệnh làm gì nữa. Khóc lóc hay hỏi về việc nhà lúc ấy không giải quyết được
gì hết mà chỉ khiến cho người bệnh sanh khởi niệm luyến tiếc việc đời một cách
vô ích.
Nên khuyến khích bệnh nhân đem tâm phóng xả tất cả, chỉ nhớ Phật và niệm Phật
mà thôi. Nên nói với bệnh nhân rằng: “Thế giới Cực lạc rất là an vui sung
sướng. Nay ngươi nên xả bỏ tất cả, nguyện sanh về thế giới kia. Ðược sanh về đây
sẽ không còn hạnh phúc nào bằng. Hiện tại sở dĩ bị bệnh hoạn đau đớn là do ác
nghiệp nhiều kiếp tích lũy gây nên. Tạm thời nên chịu khó nhẫn nại”.
Nếu thản hoặc bệnh nhân có việc gì khổ tâm lắm, nhứt đáng không thể xả bỏ được,
nên tìm mọi phương tiện thuyết pháp giải trừ. Hoặc dùng lời dịu ngọt vui vẻ để
khuyến khích an ủi; hoặc đem bao nhiêu điều hay việc tốt hay công đức tu hành mà
bình sanh người ấy đã làm để tán thán ngợi khen. Các phương tiện ấy sẽ có công
năng khiến bệnh nhân hoan hỉ và tin tưởng rồi nhờ đó mà sẽ được vãng sanh Tịnh
độ.
Nếu gặp bệnh nhân thần trí hôn mê không còn biết gì nữa, ban hộ niệm đứng bên
cạnh trợ niệm hoặc đánh chuông gõ mõ hết sức nhẹ nhàng, đừng cho tiếng xẳng và
ồn, khiến gây nên trạng huống lộn xộn trong thần thức của bệnh nhân. nếu như
phút lâm chung kéo dài dài quá lâu, nên luân phiên tụng niệm, thế nào cho tiếng
niệm Phật đừng dứt đoạn. Niệm đến khi nào bệnh nhân hết thở và toàn thể châu
thân lạnh đều mới thôi.
b) Sau khi lâm chung
Khi bệnh nhân đã hết thở rồi, ban hộ niệm vẫn tiếp tục niệm Phật và tuyệt đối
không nên cho bà con khóc lóc. Cũng không nên đụng đến thi thể hoặc vội tắm
rửa thay áo quần, tránh đừng nên đụng chạm gây ra huyên náo hay nói to tiếng cho
vong giả kinh loạn.
Sở dĩ phải tuyệt đối giữ thanh tịnh là vì dù ngực hết thở, quả tim hết đập,
nhưng thần thức (thức thứ 8) của người chết vẫn chưa lìa khỏi xác. Nếu xung
quanh có tiếng khóc lóc hoặc ồn ào va chạm, thi thể còn cảm giác sẽ sanh lòng
sân hận, rồi có thể vì đó mà bị đạo lạc. Kinh chép khi vua A Kỳ Ðạt chết, vì
người giữ thây dùng quạt đuổi ruồi, rủi đụng nhằm mặt nhà vua, khiến nhà vua
phẫn nộ do đó nhà vua đọa làm thân con rắn!
Vì những lẽ trên nên cần phải thận trọng trong giờ phút trước và sau khi lâm
chung. Tốt hơn nên luôn luôn có người ngồi bên cạnh tiếp tục niệm không không
hở, khiến cho chánh niệm được liên tục. Nếu không làm được như vậy thì nên đuổi
hết chó mèo, cấm hẳn người ra vào và đóng kín cửa phòng lại. Chí như muốn tắm
rửa, thay quần áo và uốn nắn chân tay cho người chết để khi nhập liệm thì nên
đợi sau 8 tiếng đồng hồ mới chắc chắn không làm hại cho người chết.
Trong Duy thức học có dạy rằng muốn biết một người chết sẽ thác sanh về thế giới
nào, hãy xem thần thức của người đó lìa khỏi xác tại điểm nào. Ðiểm mà thần thức
xuất tức là điểm nóng cuối cùng, sau khi toàn thể châu thân đã lạnh buốt, bài kệ
sau đây sẽ cho ta biết cảnh giới tương lai của người chết sắp đầu thai.
Ðảnh Thánh, nhản sanh thiên
Nhơn tâm, ngạ quỷ phúc
Bàn sanh túc hạ hành
Ðịa ngục khước đề xuất
Nghĩa là: thân thức xuất ở đảnh đầu là sanh về cõi Thánh, xuất ở chặng con mắt
thì sanh về cõi trời, xuất sanh ở trên chấn thủy thì sinh về ở người, xuất sanh
ở dưới bụng thì sanh về về cảnh giới ngạ quỷ; xuất sanh ở đầu gối thì sanh về
cảnh giới súc sanh, xuất sanh dưới bàn chân thì sanh về cảnh giới địa ngục. Vì
thế, trong khi thần thức sắp rời khỏi xác, mà ví như sẽ được sanh về cõi trời
thì chỗ còn nóng sau cùng là ngang khoảng con mắt. Nếu không khéo, để cho thi
thể va chạm hoặc để cho tiếng ồn kinh động khiến thần thức tán loạn sanh phiền
não, phải bị đọa lac thì thật là oan uổng cho người chế biết chừng nào!
Thiết tha mong toàn thể tín đồ Phật tử hãy lưu tâm điểm này để cứu giúp nhau
trong giờ lâm chung, giờ phút nghiêm trọng có ảnh hưởng cho cả một kiếp sau.
Mong thay!
c) Cứu độ thân trung ấm
Thân thể con người do năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Năm uẩn cũng thì
cũng gọi là năm ấm. Vì thế thân thể hiện còn gọi là tiền ấm sau khi đã thác sanh
gọi là hậu ấm, nằm ở khoảng giữa tiền ấm và hậu ấm (chết rồi mà chưa đầu thai
lại) gọi là trung ấm.
Thân trung ấm bắt đầu từ giây phút thức thứ 8 mới lìa khỏi thể xác người chết.
Theo Luận Cu Xá thì thân trung ấm của người ở dục giới lớn bằng em bé 5, 6 tuổi,
nhanh sáng, có sức thông đạt, có sức ký ức nhậy hơn chín phần, so với lúc sanh
tiền.
Sau khi người chết, tuy thần thức ly khai thân xác chuyển thành thân trung ấm,
nhưng thân trung ấm ấy trừ trường hợp quá dày phúc đức hay quá nhiều tội ác thì
trong giây phút được sanh nhơn thiên hoặc bị đọa ác thú liền, ký dư trong các
trường hợp bình thường thì thần thức vẫn còn loanh quanh lưu luyến bên cạnh thây
cũ. Cho nên, nếu quyến thuộc khóc lóc hoặc tắm rửa, thay áo quần cho người chết
v.v... thần thức đều biết cả. Bấy giời thần thức tưởng mình còn sống nên nó vẫn
đến hỏi việc này việc khác, nhưng ngặt vì không ai thấy nghe mà đáp lại, vì vậy
vô cùng bực tức, sợ hãi, bối rối, rồi giận dữ bỏ ra đi. Vì thế đối với người
chết rồi, thân thể tuy đã lạnh cứng, nhưng người sống không nên nói điều gì có
tánh cách khêu gợi lòng tham, sân, si, khêu gợi sự luyến tiếc cho người chết.
Như là người sắp chết thì chỉ nên thuyết pháp, an ủi, khuyến khích nhất tâm cầu
nguyện vãng sanh Cực lạc; nếu người ấy chết rồi thì nên tụng kinh niệm Phật cho
thân trung ấm nghe.
Nếu người chết lúc sanh tiền chưa từng niệm Phật, trong giờ phút gần lâm chung,
lòng không chốn nương tựa, thân không còn là chủ tể, hoàn cảnh thật là hết sức
thê lương ảm đạm. Trong giờ phút ấy, nếu nghe một tiếng niệm Phật, một lời
thuyết pháp, người chết nhờ nhất niệm đó mà có thể vãng sanh Tịnh độ. Cho nên,
đối với vong nhân, không kể sanh tiền có lòng tin Phật hay không tin Phật, có
lòng tu Tịnh độ hay không tu Tịnh độ ban hộ niệm đều nhất thiết nên đến giúp đỡ
và cao tiếng niệm danh hiệu Phật. Ðó là phương pháp cứu độ thân trung ấm, hết
sức hữu ích và cần phải thi hành.
d) Cúng vong, cầu siêu
Ðám tiệc nên tùy nghi phương tiện, cốt nhất phải thanh tịnh, không nên bày vẽ
rộn ràng, sát sanh cúng tế một cách linh đình. Trong kinh Phật dạy: “Hình thức
người chết (thân trung ấm) chỉ dùng mùi hương làm thức ăn”. Vì thế ta chỉ nên
dùng hương thơm, hoa đẹp, đèn sáng mà cúng là đủ. Nhát là tiếng niệm Phật và lời
thuyết pháp thì rất bổ ích cho vong linh.
Sau khi đám tiệc xong xuôi, người con hiếu thảo nên vì vong linh làm các Phật sự
để cầu siêu độ, bất luận vong giả đã vãng sanh hay chưa. Nếu đã vãng sanh rồi
thì lại càng được tăng thêm phước huệ, nếu chưa vãng sanh thì có thể nhờ đó mà
túc nghiệp tiêu trừ, sanh về các cõi thiện. Ðó là cách báo ân hay nhất của người
con hiếu thảo.
Làm Phật sự thì không gì hơn là chuyên tụng kinh bái sám và trì niệm danh hiệu
Phật. Có thể tự trong gia thuộc mình tụng lấy, hoặc mời đạo hữu tụng thêm. Các
kinh thường tụng là Di Ðà, Kim Cang hoặc Ðại bi thần chú v.vv... Tụng niệm xong,
nên hồi hướng công đức cho vong giả làm tư lương cầu sanh Cực lạc quốc. Gián
hoặc như trong gia thuộc mình không ai tụng kinh được thì chuyên niệm hiệu Phật
cũng đủ rồi.
Còn như di sản vong giả để lại, nếu là của cải thì nên đem làm việc phước thiện
như: bố thí, giúp đỡ kẻ nghèo khó, giúp đỡ người tàn phế, cấp dưỡng cô nhi quả
phụ hay phụ nữ sanh đẻ, hoặc làm chùa tượng, ấn tống kinh điển, cúng dường chúng
tăng v.v.. Làm các việc phúc thiện ấy rồi đem công đức hồi hướng cầu cho vong
giả tội diệt phước sanh vãng sanh Cực lạc. Như thế thì người còn kẻ mất, thảy
đều công đức lớn lao không thể kể siết. Kinh Ðịa tạng nói: “Trong khi vì
người chết mà làm việc công đức thì người sống đã hưởng hết sau phần mà người
chết chỉ nhờ được một một phần thôi”.
CHƯƠNG IV
TRÌ DANH NIỆM PHẬT
TIẾT MỘT
SO SÁNH BA
PHÁP:
THẬT TƯỚNG NIỆM
PHẬT
QUÁN TƯỚNG NIỆM
PHẬT
VÀ TRÌ DANH
NIỆM PHẬT
Nói niệm Phật không phải chỉ niệm nơi miệng mà
thôi. Theo nghĩa đen, niệm có nghĩa là nhớ, nghĩ. Cho nên, khi tâm ta nhớ nghĩ
đến Phật tức la niệm Phật. Vì vậy, ơpp niệm Phật gồm có 3 loại:
a) Trì danh niệm Phật tức là chuyên trì tụng danh hêịu Phật nơi niệm.
b) Thật tướng niệm Phật tức là thâm nhập nghĩa lý chơn thật của Phật dạy (đệ
nhất nghĩa đế).
c) Quán tướng niệm Phật tức là quán tưỏng cảnh giới Cực lạc của Ðức Phật A Di
Ðà.
Thật tướng niệm Phật cũng tức là quán tưởng thật tướng của Phật, kết quả
sở đắc của phương pháp này là Chơn như tam muội, cũng gọi là Nhứt hạnh Tam Muội
nghĩa là chánh định, chỉ cho cảnh giới đạt được trong định khi sự tu tập đã
thành tựu. Pháp môn này vốn thuộc về Thuyền tông, nhưng cảnh giới hiển hiện sau
khi công hạnh tu thuyền thành tựu chính là cảnh giới Tịnh độ, nên cũng nhiếp vào
trong Pháp môn Tịnh độ. Với Pháp môn này, nếu không phải là bậc căn trí tối
thượng thì không thể ngộ nhập, cho nên, những hàng trung, hạ trí không thể tu
tập được. Trong Pháp môn Tịnh độ vì thế ít khi đề cập đến phương pháp này mà
riêng nhường cho Thuyền tông đề xướng.
Quán tưỏng niệm Phật là một phương pháp y theo kinh Vô Lượng Thọ mà thiết lập.
Phương pháp này chia cảnh giới Y báo và Chánh báo trang nghiêm ở quốc độ Cực lạc
của Ðức Phật A Di Ðà thành 16 phép quán qua 16 giai đoạn. Khi quán hạnh đã thành
thục, sức quán đã mạnh mẽ thời mở mắt nhắm mắt đều thấy cảnh giới Cực lạc. Trong
hiện tại có thể chuyển biến thế giới Ta bà thành thế giới Cực lạc. Không cần
phải đợi đến lúc lâm chung sanh về Cực lạc mới hưởng thọ cảnh giới ấy mà ngay
trong hiện tại đã hưởng thọ rồi. Công hiệu của Phật Quán tưởng niệm Phật thật là
lớn lao. Không thể tả xiết.
Chánh định Tam muội chứng được là do tu theo phương pháp này nên có tên riêng là
“Ban châu Tam Muội” hay “Phật lập Tam Muội”. Phương pháp quán hạnh này quá vi tế
huyền diệu và có 5 điều khó thành tựu:
1) Căn cơ ám độn, khó thành tựu
2) Tâm thô tháo, khó thành tựu
3) Thiếu phương tiện thiện xảo, khó thành tựu
4) Nhận thức không sâu, khó thành tựu
5) Tịnh lực bất cập, khó thành tựu
Nếu có 5 điều kiện nghịch lại 5 điều kiện trên là căn cơ thông lợi, tâm niệm tế
nhuyễn, phương tiện thiện xảo, nhận thức sâu sắc, gây được ấn tượng mạnh mẽ,
tinh thần cương kiện thì kết quả được xem như được nắm chắc trong tay. Nhưng có
đủ điều kiện như thế, thật là vạn người chưa được một. Vì thế, phương pháp này
cũng ít phổ cập trong quần chúng.
Phương pháp trì danh niệm Phật, so với hai phương pháp trên thì thật là dễ dàng
hơn bội phần. Bất luận là trung hay hạ trí, hễ có phát tâm chuyên niệm danh hiệu
Phật, không ai làm không được. Niệm niệm tích lũy lâu ngày cho đến khi được
“Nhất tâm bất loạn” thì liền chứng Tam Muội. Tam Muội này có tên là “Niệm Phật
Tam Muội”. Trải qua hơn 2.000 năm, các bậc Ðại đức nối tiếp nhau đề xướng và
thực hành phương pháp này, đã thâu hoặch được nhiều kết quả... Hiện tại, phương
pháp này thâm nhập nhơn gian, phổ cập khắp quần chúng và không ai là không biết
niệm 6 tiếng “Nam mô A Di Ðà Phật.” Lý do thâm nhập và phổ biến của phương pháp
này hễ có tu là có thành, rất thích hợp cho mọi căn cơ, bất cứ người nào cũng
đều thâu nhiếp được một cách dễ dàng. Số người nhờ phương pháp này mà được độ
thoát, so với các tông phái khác, chiếm đến trên bảy tám mươi phần trăm.
Cứ xác thực mà nói thì Ðạo lý của Pháp môn này hàm chứa tinh ba hết thảy của các
pháp môn khác một cách sâu xa rộng rãi. Không những so với các pháp môn khác, nó
đã không kém thua, mà trái lại, tinh ba của các pháp môn khác đều thu trọn vào
trong một pháp môn này. Nó có đủ khí độ rộng rãi tập hợp sự đại thành của các
tông phái khác. Vì vậy, nếu bàn đến hiệu quả, bàn đến học lý, bàn đến khó dễ,
không một tông phái nào so sánh kịp!
TIẾT HAI
CÁC PHƯƠNG PHÁP
TRÌ DANH
Niệm Phật hay trì danh là đọc sáu chữ “Nam mô A Di Ðà Phật”. Hoặc chỉ đọc bốn
chữ “A Di Ðà Phật” cũng được.
Sau chữ này từ tiếng Phạn phiên âm ra. Nếu cắt nghĩa từng chữ một theo một Phạn
ngữ thì chỉ có bốn chữ mà thôi. Trước hết, chữ “Nam mô” có sáu nghĩa: Kính lễ,
quy y, phụng thờ, cứu ngã, độ ngã, quy mạng. Chữ “A” nghĩa là không, là vô. chữ
“Di Ðà” nghĩa là lượng. Chữ “Phật” nghĩa là giác giả. Hợp cả bốn chữ lại có
nghĩa là quy y kính lễ đâng Giác ngộ Vô lượng.
Ðức Phật A Di Ðà là Giáo chủ Thế giới Cực lạc, Ngài đã từng phát nguyện rằng ai
niệm danh hiệu Ngài, lúc lâm chung sẽ được Ngài tiếp dẫn sanh về nước Cực lạc
(xem lại đại nguyện 18, 19 và 20). Vì thế, về sau căn cứ về đó mà xưng niệm danh
hiệu Ngài.
Lại nữa, trong kinh “Phật thuyết A Di Ðà” dạy rằng “Ðức Phật kia cùng nhân dân
đều có thọ mạng vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp. Cho nên, gọi là A Di Ðà”. Thọ
mạng nghĩa là thân mạng sống lâu; A tăng kỳ là vô số không thể đếm được. Vì thế,
có chỗ gọi Ngài là Ðức Phật Vô Lượng Thọ. Khi xưng niệm, ta có thể đọc: “Nam Mô
Vô Lượng Thọ Phật”. Nhưng nói Vô Lượng Thọ thì hai chữ vô lượng bị hạn cuộc
trong phạm vi hẹp hòi của sự thọ mạng mà thôi. Kỳ thực ra, A Di Ðà còn bao hàm
cả nghĩa vô lượng quang minh, vô lượng công đức v.v... Bất cứ đức tánh nào của
Ngài cũng vô lượng cả. Vì vậy cứ để nguyên âm mà xưng niệm, ý nghĩa mới rộng
rãi, hợp lý và bao quát được mọi khía cạnh khác như: Tôn nghiêm Vô lượng, Từ bi
Vô lượng, Trí tuệ Vô lượng, Thần thông Vô lượng, Thiện xảo Vô lượng v.v...
Vì muốn thích hợp với mọi hoàn cảnh mọi tâm niệm, mọi căn cơ, nên cùng một việc
niệm Phật mà có nhiều phương pháp sai khác nhau, mỗi phương pháp lại có một tác
dụng đặc biệt riêng của nó. Khi niệm Phật, người tu hành nên y theo phương pháp
nêu ra sau đây, chọn lấy phương pháp nào thích hợp với căn cơ và hoàn cảnh mình
mà hành trì. Nếu tu niệm trong một thời gian mà thấy phương pháp mình đã chọn
lựa không trấn tỉnh được tâm cảnh vọng động thì nên bỏ phương pháp đó, chọn lại
một phương pháp khác, lắm lúc phải chọn đi chọn lại năm bảy lần mới tìm ra một
phương pháp thích hợp. Phương pháp nào trấn định được tâm cảnh, tiêu trừ được
mọi vọng niệm thì là phương pháp hay nhất đối với mình. Cũng như đối với thầy
thuốc, phương thang nào chữa đúng căn bênh là phương thang hay. Ðối với chúng
sanh, vọng niệm là căn bệnh, thuốc là danh hiệu Phật, hễ phương pháp nào trừ
được căn bệnh vọng niệm, ấy là phương pháp thiện xảo nhất, đừng nên câu nệ.
Sau đây, xin giải thích rõ từng phương pháp một để hành giả y theo mà hành trì
cho phải phép. Lại nên nhớ thêm rằng “Trì danh” là phương pháp tụng niệm của
đường lối tu Tịnh độ. Ðó là một điểm trọng yếu.
a) Niệm cao tiếng: Ðem hết cả tinh lực toàn thân dồn vào trong một câu
niệm Phật khác nào những tiếng đại hồng chung, những tiếng sư tử rống át cả trời
đất vũ trụ. Theo phương pháp này bị hao hơi rát cổ nhiều, không thể trì niệm lâu
được. Tuy nhiên, nó có công năng đối trị được bệnh hôn trầm, giải đãi, trừ khử
được tạp niệm lăng nhăng. Khi niệm Phật nếu thấy mơ màng muốn ngủ gục, hoặc thấy
tư tưởng bị chao động, hành giả nên mạnh mẽ đề khởi tinh thần, cất cao vọng niệm
to tiếng làm cho trí não thức tỉnh, chánh niệm khôi phục và sẽ được linh hoạt
như cũ. Niệm Phật cao tiếng có tác dụng rất lớn lao. Hơn nữa nó còn là cho người
hai bên nghe rõ tiếng niệm và khiến họ lần lần sanh khởi tâm niệm Phật.
Ngày xưa, lúc Ngài Vĩnh Minh thọ Thuyền sư niệm Phật tại chóp núi Nam Bình, tỉnh
Hàng Châu, những người qua lại chân núi nghe tiếng rang rảng như tiếng nhạc trời
đánh giữa hư không, khiến cho ai nấy đều rất thâm cảm. Chính Ngài đã áp dụng
phương pháp này vậy.
b) Mặc niệm: Lúc niệm, môi miệng chỉ hơi mấp máy, không phát ra tiếng;
người ngoài nhìn vào, không biết là đương niệm. Tuy không phát ra tiếng, nhưng 6
chữ “Nam Mô A Di Ðà Phật” đương sáng ngời và rang rảng trong tâm thức hành giả,
vô cùng rõ ràng. Nhờ sự sáng ngời và rang rảng ấy mà tâm thần định tĩnh, chánh
niệm ngưng tụ thành một khối, khiến cho hiệu lực của nó không khác hiệu lực của
niệm Phật có tiếng.
Phương pháp niệm này có thể áp dụng trong khi nằm nghỉ, khi tắm rửa, lúc bệnh
hoạn, lúc phóng uế, hoặc khi đương ở hội trường công cộng hay khi lữ thứ tha
phương v.v... tóm lại là trong những trường hợp không tiện niệm ra tiếng.
c) Niệm Kim Cang: Niệm thư thả, hòa hoản tiếng không lớn quá, không nhỏ
quá. Bất luận là niệm 4 chữ, hay 6 chữ, hành giả vừa niệm vừa lắng tai nghe
lại tiếng niệm của mình từng chữ một, thật rõ ràng. Cứ vừa niệm vừa nghe như
thế, trí óc sẽ không bị xao lãng và tâm thần định được.
Phương pháp niệm này hiệu lực rất lớn lao. Cho nên, đem ví dụ với ngọc kim cang.
Kim nghĩa là vàng, thí dụ cho sự cô động cẩn mật; cang nghĩa là cứng, thí dụ cho
sự cứng rắn. Vừa cẩn mật vừa cứng rắn thì ngoại cảnh không xâm nhập va tạp niệm
dễ bị đánh tan.
Trong các phương pháp niệm Phật, phương pháp này thường được dùng hơn hết. Với
phương pháp này lại còn có tên là phản văn niệm Phật nghĩa là niệm chữ
nào trở lại nghe chữ ấy, chữ từ miệng lại trở về lại tai.
d) Niệm giác chiếu: Một mặt xưng danh hiệu Phật, một mặt quay tâm trí của
mình trở lui soi xét tự tánh. Với phương pháp này, cảnh đối trước mắt đều bị
đẩy lùi hết, chỉ còn một cảm giác linh động trong tâm thôi. Ấy là cảm giác tâm
Phật, thân Phật, cả hai cùng ngưng tụ thành một khối sáng chói lọi, tròn vành
vạch. Ngoài ra, các cảnh giới bao la trong mười phương như sơn hà, đại địa, nhà
cửa, khí cụ nhất nhất thảy đều mất tung tích cho đến thân tứ đại của hành giả
cũng không biết lạc mất chỗ nào. Ðược như vậy thì báo thân tuy chưa xả mà cảnh
Tịch quang đã chứng. Danh hiệu Phật vừa tuyên lên là đồng thời hành giả chứng
nhập tam muội, đem thân phàm phu dự vào cảnh giới chư Phật.
Thật không có phương pháp nào so bằng phương pháp này. Nhưng có điều đáng tiếc
là, phi bậc thượng trí, ít ai lãnh hội và thực hành nổi. Vì vậy mà sức cảm hóa
của phương này có hơi hẹp hòi.
đ) Niệm quán tưởng: Một mặt xưng danh hiệu Phật, mặt khác quán tưởng thân
Phật và Bồ tát trang nghiêm đang đứng trước mặt ta. Do tự kỷ ám thị tưởng tượng
ra các cảnh như cảnh Phật đương đưa tay thoa đầu ta hoặc lấy áo phủ lên mình ta,
hoặc như cảnh đức Quán Thế AÂm và đức Thế Chí đương đứng hầu hai bên Ðức Phật,
còn Thánh chúng thì đương đoanh vây hai bên thân ta. Lại có thể quán tưởng cảnh
đất vàng, hồ báu của thế giới Cực lạc với lâu đài tráng lệ, lưới báu bủa giăng,
hoa nở chim kêu đương phát ra tiếng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. v.v...
Nếu quán tưởng này đã thành thục, thì tuy nhục thân đương ở cõi Ta bà mà thức
thần đã dạo chơi trên Cực lạc. Hoặc nếu quán tưởng chưa chơn nhuần thì nó vẫn có
thể làm trợ duyên cho sự niệm Phật bằng cách giúp cho tịnh nghiệp dễ dàng thành
tựu.
Phép tu quán tưởng này lâu ngày càng thuần thục càng tạo ra được một ấn tượng rõ
ràng sâu sắc trong tầm mắt hành giả. Một ngày kia, khi báo thân suy tạ, trần
duyên ở cõi đời này dù cám dỗ đến đâu, cũng khó lôi cuốn khiến phải liên lụy.
Như vậy, thắng cảnh Cực lạc nhất thời đã hiển hiện ra trước mắt rồi.
e) Niệm truy đảnh: cũng giống như phép niệm Kim cang nói đoạn trước,
nhưng giữa chữ trước và chữ sau, giữa câu trước và câu sau, đừng để xen hở. Chữ
nọ bồi chữ kia, câu sau chồng lên câu trước, trung gian không cho hở, nên gọi là
truy đảnh. Truy nghĩa là đuổi theo, đảnh nghĩa là đầu.
Nhơn vì chữ truy đảnh, câu câu truy đảnh một cách chặt chẽ, nên tạp niệm không
cách gì xen vào được, trong lúc niệm, do trong lòng tình tự khẩn trương, tâm và
khẩu cùng xúc tiến một lần, phát sanh được chánh niệm. Oai lực của chánh niệm
càng lớn càng lấn át tất cả, làm cho tâm tưởng vô minh tạm thời phải chìm lặng.
Phương pháp niệm này có hiệu lực rất lớn, xưa nay thường được số đông các bậc tu
tịnh nghiệp dùng đến.
g) Niệm lễ bái: Ðông thời trong khi miệng niệm thì thân lạy, hoặc niệm
xong một câu lạy một lạy, hoặc bất câu miệng niệm nhiều hay ít, hễ cứ miệng niệm
thì thân lạy, thân lạy thì miệng niệm.
Có niệm có lạy liên tục nên khiến cho thân khẩu hợp nhứt; đồng thời trong lúc
ấy, ý nghĩ đến Phật nên cả tam nghiệp thân, khẩu, ý cũng tập trung, 6 căn đều
thâu nhiếp. Như vậy, toàn bộ thân tâm cùng hết thảy các giác quan đều quy về một
mối, không còn có chỗ sơ hở nào cho trần sự chen vào, cũng không có một tâm niệm
nào khác làm chao động tâm niệm tưởng Phật, nhớ Phật.
Muốn áp dụng phương pháp này, phải đặc biệt tinh tấn. Hiệu lực của nó cũng đặc
biệt lớn lao. Duy chỉ có một điều hại là lễ bái quá nhiều thì sinh nhọc sức, phí
hơi thở; người yếu không làm nổi. Vậy chỉ nên kiêm dụng với các phương pháp
khác, chứ không nên chuyên trì, sợ e mất sức, sanh bệnh.
h) Niệm từng loạt 10 niệm (sổ thập): Khi niệm dùng chuổi hạt để
ghi số loạt, cứ mỗi loạt mười câu. Sự ghi số có nhiều cách: hoặc niệm 3 câu một
hơi, làm như vậy 3 lần, đến câu tiếp thì lần một tràng hạt chấm câu; hoặc 3 câu
một hơi, rồi 2 câu một hơi nữa như vậy 2 lần rồi lần một hạt. Như vậy là cứ mỗi
khi lần một hạt chuỗi tức là đã niệm xong 10 niệm.
Phương pháp này bắt buộc tâm hành giả vừa niệm Phật, lại vừa phải nhớ số câu
niệm, cho nên, dù tâm không chuyên, buộc cũng phải chuyên. Nhờ có sự cưỡng bức
ấy mà đối trị được tạp niệm lăng xăng, tâm trở nên chuyên nhứt. Thật là một
phương pháp hay và rất thích nghi với những kẻ nào tâm niệm quá chao động.
i) Niệm đếm theo hơi thở (sổ tức): Niệm như pháp truy đảnh trước
kia, không kể số danh hiệu Phật niệm được nhiều hay ít chỉ dùng hơi thở làm
chứng. Bắt đầu thở ra thì niệm cho đến khi dứt hơi thở, nghỉ miệng thì hít thở
vào. Khi thở ra lại, tiếp tục niệm như trước. Cứ 10 lần như vậy, thì gọi là 10
hơi niệm.
Phương pháp này sở dĩ thiết lập ra đặc biệt dành riêng cho nước người quá bận
rộn, tiện cho sự thực hành hằng ngày. Chẳng hạn như, mỗi ngày sáng sớm ngũ dậy,
sau khi rửa mặt súc miệng xong, day mặt về hướng Tây hoặc hướng trước Phật đài,
bỏ ra năm phút là niệm xong 10 hơi. Công việc không khó, như người tập thể thao
làm những cử động hô hấp. Nếu ngày nào cũng chuyên cần như vậy, thì cũng nhất
định được vãng sanh.
Ðây là căn cứ theo đại nguyện thứ 18 của Ðức Phật A Di Ðà (xem trước) mà thiết
lập phương pháp này. Các vị Cổ đức nghiên cứu và tu tập theo phương pháp thập
niệm, chính là phương pháp niệm teho 10 hơi thở này.
k) Niệm theo thời khóa nhất định: Ðiều tối kỵ nhất trong phép niệm Phật
là lúc bắt đầu thì hăng hái, mà về sau lại giải đãi. Sở dĩ có sự thủy cần chung
dải như vậy là vì không có tâm hằng thường. Cho nên, để giữ cho được thủy chung
như nhứt, ngay từ khi sơ phát tâm niệm Phật, hành giả cần phải tự vạch cho mình
một thời khóa biểu nhất định. Một khi thời khóa biểu đã vạch sẵn rồi thì ngày
ngày cứ y theo đó mà thực hành, tự gây cho mình có một thói quen, và có như thế
mới giữ được đạo tâm bất thoái. Trong buổi đầu, niệm nhiều hay ít chưa phải là
điều quan trọng vì nhiều hay ít còn tùy thuộc năng lực và hoàn cảnh riêng biệt
của từng cá nhân: quan trọng là tại chỗ thường thời thực hành, đều đều và chuyên
nhất.
Người xưa có vị ngày niệm đên 10 vạn hiệu. Vị nào ít lắm cũng 5 vạn. Công hạnh
tu hành của họ thật là tinh tấn dũng mãnh! Ngày nay, hoàn cảnh thay đổi khác xưa
rất xa mà lực lượng của tự thân ta cũng không bằng, vậy ta nên châm chước hoặch
định một công khóa, thật sát hoàn cảnh và vừa với sức ta, để thực hành cho đúng
mức. Sau khi đã hoặch định drồi thì dù gặp phải công việc bận rộn đến đâu, cũng
phải cố gắng hoàn thành công khóa. Vạn nhất, vì một lẽ nào đó mà không hoàn tất
được ngày ấy thì qua hôm sau phải bổ khuyết kịp thời, chớ nên để rày lần mai
lửa, tạo thành cho ta một thói xấu rất có hại về sau.
Trong khi vạch khó trình, nên tránh hai cực đoan.
Cực đoan thứ nhứt là vì sự hăng hái trong buổi đầu, tự định cho mình một khóa
trình quá nhiều, về sau đuối sức theo không kịp, rồi vì vậy bỏ luôn. Cực đoan
thứ hai là vì sự e ngại về sau không theo kịp, nên dè định tự cho mình một khóa
trình qú ít, không thấm vào đâu, rồi cũng dễ phát sinh ra giải đãi. Cả hai cực
đoan đèu đến kết quả như nhau. Cho nên, trong khi quyết định khóa trình, cần
phải tế nhị châm chước dung hòa giữa hoàn cảnh và năng lực thế nào thích trung
mới được lâu dài và hữu hiệu.
l) Niệm bất cứ lúc nào: Với những hành giả đã huân tập được tịnh chủng
khá thành thục thì tự nhiên phát ra những tiếng niệm Phật bất cức lúc nào, cơ hồ
như có một sức lực dũng mãnh nào bên trong thúc đẩy, khiến cho hành giả hắng
tiến không lùi. Vì vậy mà dù công khóa đã hoàn tất, các vị này vẫn chưa cho là
đủ, nên trừ ngoài giấc ngủ, bất luận ngày đêm, trong bốn oai nghi là đi, đứng,
nằm, ngồi, không lúc nào, không chốn nào, là không niệm Phật. Như vậy cầu “Nam
mô A Di Ðà Phật” không lúc nào rời khỏi miệng, lâu ngày thành tập quán.
Truyện vãng sanh của người xưa còn ghi chép lại rất nhiều trường hợp vãng sanh
do pháp môn niệm Phật này đem lại. Như có ông thợ rèn, tay đập búa miệng niệm
Phật; bà làm nghề đậu hủ, tay xay đậu miệng niệm Phật; về sau khi vừa dứt tiếng
niệm Phật, cả hai đều được Ðức Phật phóng hào quang tiếp dẫn và đều được tạo hóa
vãng sanh Cực lạc.
Chúng ta nên lấy đó làm gương. Nếu niệm được đến trình độ ấy thì dù có định khóa
trình, không còn là vấn đề nữa.
m) Niệm hay không niệm vẫn là niệm: Phép niệm Phật nói ở đoạn trên là
chỉ sự niệm thành tiếng, phát ra nơ cửa miệng, trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm,
ngồi. Chữ NIỆM trong giai đoạn này là chỉ tâm niệm (tâm niệm nhớ gnhĩ đến Phật).
Nói “niệm hay không niệm” có nghĩa là bất kể niệm thành lời hay không, luôn luôn
trong tâm vẫn tưởng nhớ đến Phật, tức là vẫn có niệm Phật.
Sở dĩ miệng phải niệm Phật là cốt chắc cho trong tâm tưởng nhớ đến Phật. Giờ
đây, dù cho khi miệng không niệm mà tâm vẫn có tưởng nhớ, như thế cứu cánh của
phép trì danh niệm Phật đã đạt được rồi vậy.
Nếu hành giả thực hiện được phép “không niệm mà niệm” thì bất luận thời gian
nào, bất luận miệng có trì danh hay không trì danh, tâm lý lúc nào cũng vẫn để
vào Phật. Như vậy, tịnh niệm đã kiên cường liên tục không hở, lòng như rào sắt
vách đồng, gió thổi cũng không lọt, ai muốn đập phá cũng không xuể, quyết không
còn một trần niệm ô nhiễm nào có thể đột nhập, khiến cho tâm chao động được, lúc
ấy, phép niệm Phật tam muội tự nhiên thành tựu, quả vãng sanh không cầu mà tự
đến.
Người xưa nói “niệm mà không niệm, không niệm mà niệm” tức là chỉ cho cảnh giới
này vậy. Nếu không phải là người niệm Phật lâu năm, và do đó, công hạnh đã thuần
thục, thì quyết không thực hành được pháp môn này. hàng sơ cơ quả thật khó mà
noi theo.
CHƯƠNG V
PHÁT NGUYỆN VÃNG SANH CỰC LẠC
TIẾT MỘT
TÍNH CÁCH TRỌNG YẾU CỦA SỰ
PHÁT NGUYỆN
Trong một chương đã nói sự quan trọng của lòng tin. nay xin
giải rõ tính cách trọng yếu của sự phát nguyện.
Ngài Ngẫu Ích Ðại sư nói: “Ðược vãng sanh hay không là do Tín Nguyện có hay
không; còn phẩm vị vãng sanh cao hay thấp là tùy việc trì danh sâu hay cạn.
Ở đây, chưa bàn đến phẩm vị cao thấp sau khi vãng sanh. Vấn đề
cấp thiết cần phải giải quyết để là có được vãng sanh hay không đã. Vì vậy mà
chưa bàn đến vấn đề hành trì sâu hay cạn, mà chỉ nên bàn tín nguyện có hay không
mà thôi.
Tín, Nguyện, Hạnh là ba tư lương sanh về Tịnh độ. Nếu tư lương không đủ,
quyết không được vãng sanh. Sở dĩ vì thế mà sự phát nguyện chiếm một địa vị tối
quan trọng trong pháp môn tu Tịnh độ.
Ðức Phật A Di Ðà ngày xưa phát 48 lời nguyện làm duyên khởi tạo thành Thế giới
Cực lạc. Từ đó về sau, chúng sanh trong mười phương đều lấy sự phát nguyện vãng
sanh làm căn cứ tu hành Tịnh độ. Một đằng Phật nguyện tiếp dẫn, một đằng cơ sở
nguyện vãng sanh, hai nguyện gặp nhau, hai lực lượng tự, tha, hỗ trợ nhau mới đủ
sức kết thành quả vãng sanh. Vì thế, người tu tịnh nghiệp quyết phải phát nguyện
dũng mãnh.
Trong 48 lời đại ngu;yện của Ðức A Di Ðà, lời đại nguyện thứ 19 nói một cách rõ
ràng, rằng nếu có người chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước Ngài, lúc lâm
chung nhất định Ngài sẽ đến tiếp dẫn. Cho nên, hễ có phát nguyện là quyết định
phải được vãng sanh.
Lại nữa, trong kinh “Phật thuyết A Di Ðà” Ðức Phật Thích Ca bảo ngài Xá Lợi
Phất: “Nếu có người đã phát nguyện, đương phát nguyện, sắp phát nguyện,
nguyện sanh về thế giới Ðức Phật A Di Ðà, các người ấy tất đã sanh, hoặc đương
sanh hoặc sắp sanh tại thế giới kia, và, hết thảy đều được quả bất thoái chuyển
vô lượng Chánh đẳng Chánh giác.” Ðoạn trích dẫn đây cũng thuyết minh rằng
phàm hễ có nguyện tức có vãng sanh vậy.
Lại nữa, trong kinh Hoa Nghiêm cũng từng dạy rằng: “Người ấy khi gần lâm
chung, trong sát na tối hậu, tất cả các căn thảy đều bại hoại, tất cả thân thuộc
thảy đều xa rời, tất cả uy thế đều tan rã... chỉ còn nguyện vương là hằng cùng
theo dõi, hướng dẫn trước mắt; trong một khoảnh khắc, liền được vãng sanh thế
giới Cực lạc.” Căn cứ vào các kinh văn trích dẫn trên đây, ta thấy công dụng
của phát nguyện là như thế nào rồi vậy.
Bây giờ, trên thực tế, đây là câu chuyện mà thầy Bạch Sa ở Quy Nhơn đã kể lại
cho tôi nghe;
Bà Thái Xương, vợ một Hoa kiều nguyên buôn bán ở Quy Nhơn, là một đàn việt chùa
Bạch Sa và đã giúp thầy ấy kiến tạo một ngôi chùa Bạch Sa hiện nay. Bà chuyên tu
pháp môn niệm Phật và chỉ phát nguyện khi thọ chung được gặp ngày vía Ðức A Di
Ðà (tức ngày 17 tháng 11 âm lịch) và được biết trước giờ phút thọ chung ấy. Năm
bà mất 80 tuổi mà vẫn khỏe mạnh. Ðầu tháng 11 năm ấy, bà đến xin thầy Bạch Sa
tụng cho một bộ kinh Thủy Sám và một bộ kinh Pháp Hoa để kịp đến ngày 17 tháng
ấy bà về chầu Phật. Thầy Bạch Sa lấy làm kinh ngạc vô cùng, nhưng vì bà là bổn
đạo thuần thành đã lâu năm nên thầy cũng phải chiều theo. Cái tin ấy đã làm cho
bà con và đạo hữu kinh ngạc. Ðến ngày 17, họ tụ tập đến nhà bà rất đông để thỏa
mãn tánh hiếu kỳ. Suốt buổi sáng hôm ấy, bà vẫn khỏe mạnh và bình tĩnh như
thường ngày, khiến cho thầy Bạch Sa trong thâm tâm e sợ, không khéo phen này làm
trò cười cho thiên hạ. Bỗng đâu đến khoảng quá 10 giờ sáng, bà bảo người giúp
việc in một in cơm đêm lên nhờ thầy cúng Phật rồi đem xuống cho bà. Bà chắn in
cơm làm hai phần, tự mình ăn một nữa, còn một nữa bảo người giúp việc ăn tự tạ
rằng: Gọi là đền đáp công ơn mụ giúp đỡ tôi trong mười mấy năm trường, nay đến
ngày vĩnh biệt, xin biếu mụ ăn nữa phần cơm này để sau nhờ Phật tiếp dẫn mụ về
Tây phương.” Nói xong, rửa mặt súc miệng và thay áo quần thì đúng 12 giờ trưa,
bà chào tất cả mọi người, ngồi xếp bằng hai tay chắp trước ngực mà hóa một cách
vui vẻ trước sự kinh ngạc của mọi người trong nhà. Năm ấy ở Quy Nhơn, thiên hạ
xôn xao bàn tán rất nhiều về cái chết của bà Thái Xương, tiếng đồn bà thành Phật
lan ra khắp các tỉnh.
Xem đó đủ biết sự phát nguyện vãng sanh Cực lạc là một điều tối cần thiết cho
mọi người tu theo pháp môn Tịnh độ. Phát nguyện là một nhu kiện không thể không
có, ta không nên suất lượt để phải mất công hiệu và lợi ích rất đồng, nhưng lớn
về sau.
Từ xưa nay, người tu theo pháp môn Tịnh độ đã làm ra rất nhiều bài văn phát
nguyện vãng sanh Cực lạc. Mỗi bài đều có một ý nghĩa hoặc sâu hoặc cạn nhưng mục
đích chung vẫn là: “Nguyện khi thân mạng gần chung, biết trước giờ chết mà thâm
tâm vẫn an vui được thấy Phật và Bồ tát đến tiếp dẫn.”
Trong các bài văn phát nguyện, nổi tiếng nhất là bài “Khể thủ Tây phương” của
ngài Liên Trì đại sư, bài “Nhứt tâm quy mạng” của ngài Từ Vân Sám chủ, bài “Thập
phương Tam thế Phật” của ngài Ðại Từ Bồ tát. Bài nào bài nấy, lời văn rất hay, ý
nghĩa rất đầy đủ và hàm xúc. Trong quốc văn ta thì có bài kệ “Ðệ tử chúng con từ
vô thủy” và bài “Ðệ tử kính lạy”. Sau một thời kinh và trì niệm danh hiệu Phật,
ta nên vận hết thành tâm đọc một trong những bài ấy, hoặc đọc tiếp hai ba lần
cũng được. Ðọc như thế tức là mượn lời văn để tự mình phát lời nguyện rồi vậy.
Lúc lâm chung, nhất định sẽ được nhờ Phật tiếp dẫn vãng sanh thế giới Cực lạc.
Nếu không muốn lắp theo khuôn cơ sẵn, ta có thể tự mình viết lấy bài phát nguyện
riêng cho thích hợp cũng được. Ðại cương lời phát nguyện không ngoài việc vãng
sanh, cầu Phật tiếp dẫn, cầu chứng quả, để trở lui tam giới cứu độ cơ sở đồng
sanh Cực lạc quốc. Còn nếu muốn thêm những chi tiết nào thâm thiết khác, ấy là
tùy hoàn cảnh và sở nguyện của từng người.
Trong văn phát nguyện bao giờ cũng có câu cầu và chúng Bồ tát đến tiếp dẫn là vì
lẽ gì? Xin thưa: Người tu Tịnh độ, nếu công phu chưa được thuần thục, thường hay
hãm vào trong những trạng thái sau đây, nên khi lâm chung không niệm được, hoặc
lắm khi cũng không kịp mời người khác hộ niệm giùm. Các trạng thái ấy có thể là:
Hoặc vì bệnh khổ bức bách nên sinh hôn mê, hoặc bị bà con thương tiếc khó bề xả
bỏ nên sinh si luyến, hoặc vì sức nghiệp của tiền khó dứt lòng tham đắm nên sinh
bi ai, hoặc vì thù hận khó đầy dẫy khó giải nỗi lòng nên sinh tâm sân hận v.v...
Ðó là chưa kể cả trường hợp hoạnh tử, miệng chưa kịp niệm đã vong.
Nếu lúc gần lâm chung mà không được Phật hiện đến tiếp dẫn thì không được vãng
sanh, lại còn vì các sự đau khổ tham sân luyến tiếc mà bị đọa lạc ba đường dữ
nữa là khác. Vì các lý do ấy nên trong văn phát nguyện, bao giờ cũng phải cầu
Phật đến rước để tiếp dẫn mới là chu đáo. Sự phát nguyện hằng ngày có thể ở tại
chùa vào bất luận giờ nào cũng được, miễn là sau khi lễ Phật xong thì quỳ ngay
trước điện Phật mà đọc lời phát nguyện. Nếu ở nhà có bàn thờ Phật thì hằng ngày
nên đốt hương lạy Phật rồi phát nguyện. Hoặc giả, nếu không tiện thờ Phật vì
viết câu: “Nam mộ Thập phương Tam thế Phật Bồ tát” dán lên trên vách hằn đêm
trước khi đi ngủ, đối mặt vào vách mà đốt hương phát nguyện. Gặp khi đi đường,
chưa kịp trở về thì nên xây mặt về hướng tây chắp tay niệm năm, mười danh hiệu
Phật rồi râm đọc lời phát nguyện. Ta lại có thể phát nguyện mỗi khi làm được một
việc thiện nào, bất luận lớn nhỏ v.v...
Trong nghi lễ phát nguyện, điều tuyệt đối cấm hẳn là không được đối trước đền
tháp thờ thần thánh ma quỷ mà phát nguyện.
TIẾT HAI
GIỚI THIỆU VÀI BÀI PHÁT
NGUYỆN CỦA NGƯỜI XƯA VA NGHI THỨC PHÁT NGUYỆN.
a) NỘI DUNG PHÁT NGUYỆN
Bài của Ngài Từ Vân sám chủ:
NGUYÊN VĂN
Nhứt
tâm quy mạng
Cực
lạc Thế giới
A Di
Ðà Phật
Nguyện dĩ tịch quang chiếu ngã
Từ
thệ nhiếp ngã
Ngã
kim chánh niệm
Xưng
Như Lai danh
Vị
Bồ đề đạo
Cầu
sanh tịnh độ
Phật
tích bổn thệ:
“Nhược hữu cơ sở,
dục
sanh ngã quốc
chí
tâm tín nhạo,
Nãi
chí thập niệm,
Ngược bất sanh giả
Bất
thủ chánh giác”
Dĩ
thử niệm Phật nhân duyên
Ðắc
nhập Như Lai
Ðại
thể hải trung.
Thừa
Phật từ lực,
Thiện căn tăng trưởng,
Nhược lâm dục mạng chung
Dự
tri thời chí,
Thân
vô bệnh khổ,
Tâm
bất tham luyến,
Ý
bất điên đảo,
Như
nhập thiền định.
Phật
cập thánh chúng,
Thủ
chấp kim đài.
Lai
nghinh tiếp ngã
Ư
nhứt niệm khoảnh
Sanh
Cực lạc quốc.
Hoa
khai kiến Phật
Tức
văn Phật thừa,
Ðốn
khai Phật huệ,
Quảng độ chúng sanh
Mãn
Bồ đề nguyện.
DỊCH
Một
lòng quy kính
Phật
A Di Ðà
Thế
giới Cực lạc
Nguyện lấy tịnh quang chiếu con
Từ
thệ nhiếp con
Con
nay chánh niệm
Xưng
hiệu Như Lai
Vị
đạo Bồ đề
Cầu
sanh Tịnh độ
Phật
xưa có thề:
“Nếu
có chúng sanh
Muốn
sanh nước ta
Hết
lòng tín niệm.
Dù
chỉ mười niệm.
Mà
đặng vãng sanh.
Thề
chẳng làm Phật”;
Nhờ
nhơn duyên niệm Phật này
Ðược
vào trong biển đại thệ
Của
Ðức Như Lai
Nhờ
từ lực Phật
Các
tội tiêu diệt,
Căn
lành tăng trưởng,
Khi
thân mạng gần chung
Biết
trước giờ chết
Thân
không bệnh khổ,
Tâm
không tham luyến,
Ý
không điên đảo,
Như
vào thuyền định,
Phật
và Thánh chúng,
Tay
nâng kim đài
Ðến
nghinh tiếp con,
Trong khoảng một niệm,
Sanh
về Cực lạc
Sen
nở thấy Phật.
Liền
nghe Phật thừa,
Bừng
tỏ Phật huệ,
Lui
về độ sanh,
Tròn
nguyện Bồ đề.
Bài của Ngài Ðại từ Bồ tát:
NGUYÊN VĂN
Thập
phương Tam thế Phật,
A Di
Ðà đệ nhứt.
Cửu
phẩm độ chúng sanh
Oai
đức vô cùng cực.
Ngã
kim đại quy y.
Sám
hối tam nghiệp tội.
Phàm
hữu chư phước thiện
Chí
tâm dụng hồi hướng
Nguyện đồng niệm Phật nhơn
Cảm
ứng tùy thời hiện;
Lâm
chung Tây phương cảnh
Phân
minh tại mục tiền;
Kiến
văn giai tinh tấn.
Ðồng
sanh Cực lạc quốc;
Kiến
Phật liễu sanh tử,
Như
Phật độ nhất thế.
Vô
biên phiền não đoạn,
Vô
lượng pháp môn tu,
Thề
nguyện độ chúng sanh
Tổng
nguyện thành Phật đạo.
Hư
không hữu tận,
Ngã
nguyện vô cùng.
Tình
dữ vô tình,
Ðồng
viên chủng trí.
DỊCH
Trong ba đời mười phương.
Phật
Di Ðà thứ nhất,
Chín
phẩm độ chúng sanh.
Oai
đức cao tột bậc.
Con
nay nguyện quy y.
Sám
hối tội ba nghiệp.
Phàm
làm được phước thiện,
Thảy
nhứt tâm hồi hướng.
Nguyện cùng người niệm Phật
Tùy
thời hiện cảm ứng;
Khi
lâm chung thấy rõ,
Cảnh
Tây phương trước mắt;
Thấy
nghe đều tinh tấn
Ðồng
sanh về Cực lạc;
Thấy
Phật đoạn sanh tử.
Nhưng Phật độ hết thảy
Dứt
vô biên phiền não,
Tu
vô lượng pháp môn,
Ðộ
hết thảy chúng sanh.
Ðều
trọn thành Phật đạo.
Hư
không có hạn,
Nguyện con không cùng,
Hữu
tình vô tình,
Ðều
trọn trí giác.
Một bài nguyện khác
Nguyện dĩ thử công đức
Trang nghiêm ư Phật độ
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ
tế tam đồ khổ
Nhược hữu kiến văn giả
Giai
phát Bồ đề tâm
Tận
thử nhứt báo thân
Ðồng
sanh cực lạc quốc
DỊCH
Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm nơi cõi Phật,
Trên
đền bốn ơn sâu
Dưới
độ ba đường khổ,
Nếu
có kẻ thấy nghe
Ðều
phát lòng Bồ đề
Khi
báo thân này mãn
Ðồng
sanh về nước Cực lạc.
b) NGHI THỨC PHÁT NGUYỆN
Chuẩn bị: Rửa tay súc miệng, y phục chỉnh tề
Hành lễ: Ðến trước Phật đài đốt hương cúng dường Phật. Chắp tay trước ngực đọc:
Ðại từ đại bi thương chúng sanh,
Ðại hỷ đại xả cứu muôn loài.
Tướng tốt rực rỡ trang nghiêm.
Ðệ tử chí thành quy mạng lễ
Nam mô Tây phương Thường trú Tam Bảo
Ðệ tử, pháp
danh.............. nguyện Quy y Phật, là Ðấng Phước Huệ vô biên, thề đời đời
kiếp kiếp không quy y thiên thần quỷ vật. (1 lạy)
Ðệ tử, pháp
danh.............. nguyện Quy y Pháp, là nền Giáo lý vô thượng, thề đời đời kiếp
kiếp không quy y ngoại đạo tà giáo. (1 lạy)
Ðệ tử, pháp
danh.............. nguyện Quy y Tăng, là những bậc Thánh hiền thanh tịnh, thề
đời đời kiếp kiếp không quy y tổn hữu ác đảng. (1 lạy)
Nam mô Ta bà Giáo
chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (1 lạy)
Nam mô Tây Phật
Cực lạc Thế giới Ðại Từ Ðại Bi A Di Ðà Phật. (1 lạy)
Nam mô Quán Thế Âm
Bồ tát (1 lạy)
Nam mô Ðại Thế Chí
Bồ tát (1 lạy)
Nam mô Thanh tịnh
đại hải chúng Bồ tát (1 lạy)
Nam mô Thập phương
tam thế, nhứ thế Chư Phật vô lượng Bồ tát. (1 lạy)
Xong quỳ niệm danh
hiệu Phật (càng nhiều càng tốt)
Tiếp theo, đọc lời
phát nguyện (một trong các bài trên)
Ðọc xong lời phát
nguyện, đứng dậy, đọc Tam tự quy và Hồi hướng.
TAM QUY Y:
Tự quy y Phật, xin
nguyện chúng sanh thể nhập đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp, xin
nguyện chúng sanh, thấm nhuần giáo lý (hay thấu rõ kinh tạng), trí huệ
như biển.
Tư quy y Tăng, xin
nguyện chúng sanh thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)
HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức
này
Chung cùng khắp tất
cả
Ðệ tử và chúng sanh
Ðều trọn thành Phật
đạo.
(vái 3 vái lui
ra)
Có thể áp dụng nghi thức này hằng ngày, hoặc một thời, hoặc hai thời, trước khi
đi ngủ và sau khi thức dậy.
Nếu nhà không thiết được bàn phật thì ngồi ngay ngắn trên giường hay trước bàn
viết, bàn ăn, chắp tay ngang ngực, quán tưởng như có tượng Phật trước mặt, rồi
đọc trọn cả nghi thức như trên. Chỗ nào trong nghi thức có ghi 1 lạy thì thay
vào 1 vái. Ðiều cốt yếu là phải thực hành đều đều và nhứt thiết tránh cho được
cái thông bệnh là “thủy cần chung đãi”.
CHƯƠNG VI
PHÁP QUÁN TƯỞNG
TIẾT MỘT
TRÌ DANH VÀ QUÁN TƯỞNG
Trong pháp môn Tịnh độ, quán tưởng cũng là một pháp trọng yếu như pháp trì danh.
Những ai vì ngắn hơi, không theo được pháp trì danh mà chỉ chuyên tu pháp quán
tưởng, kết quả vãng sanh hai đằng vẫn như nhau.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy có 16 pháp quán, trình bày rất chí lý rõ ràng. Luận
Vãng sanh của ngài Vô Trước lại chia thành 29 pháp quán. Công năng tán trợ vãng
sanh của các pháp quán, như đã nói, không khác công năng của pháp trì danh. Có
khác chăng là một đằng dễ theo, một đằng khó theo, như sẽ nói rõ sau đây:
Với pháp quán tưởng, cảnh quán thường rất rộng rãi và tế nhị nên khó hành trì.
Hơn nữa, vì chưa từng trải qua cảnh đó nên ấn tượng dễ trở nên mông lung. Cảnh
chỉ hoàn toàn căn cứ trên ức tưởng nên khó tránh khỏi sai sự thật. Những sự khó
khăn trên lại càng tăng lên thêm nữa, đối với chúng sanh trong đời mạt pháp này.
Quả vậy nghiệp chướng nặng nề, trí tuệ cạn cợt, tâm tư tạp loạn hoàn cảnh nhiễu
nhương, với những điều kiện như thế tư lự thật khó tập trung vào một cảnh chuyên
nhất trong quán pháp, vì các lý do như trên, nên pháp quán tưởng khó áp dụng hơn
pháp quán trì danh. Nếu chỉ chuyên tu quán tưởng mà không tu các pháp khác, sợ
ít hy vọng thành công, vì vậy mà người tu Tịnh độ hiện thời ít kẻ thực hành quán
tưởng, phần đông chuyên theo pháp trì danh mà thôi.
Tuy nhiên, nếu gác ngoài sự thực hành khó khăn, pháp quán tưởng còn có một tác
dụng rất lớn lao ở trong pháp môn Tịnh độ. Nó có hiệu lực phát huy công năng
phục diệt chủng tử ô nhiễm và đồng thời đề khởi chủng tử thanh tịnh ở trong tâm
thức chúng ta, khiến cho các chủng tử thanh tịnh ấy mau thành thục để hiện hạnh
mạnh mẽ. Khi hiện hành mạnh mẽ tức là kiến tánh thành Phật vậy. Nếu lập chí vững
bền, quán tâm mạnh mẽ tinh tấn, thì lại có thể chuyển biến thế giới Ta bà thành
thế giới cực lạc được. Pháp quán tưởng có công năng lớn lao như vậy, thế mà chỉ
có một số ít người thực hành được, quả thật đáng tiếc!
Nay xin đề nghị một biện pháp để dễ thích nghi với mọi hoàn cảnh, mọi năng lực
là lấy pháp trì danh làm nòng cốt tu hành, đồng thời lấy pháp quán tưởng làm trợ
duyên giúp thêm sức. Ðã có trì danh làm căn bản thì cho dù quán tưởng có thành
công hay không, công phu cũng không vì thế mà mất. Trái lại, nếu bên quán tưởng
cũng đồng thời thành công thì kết quả hai bên họp lại thật là vô cùng rực rỡ.
Trong trường hợp không thành công, ít nhứt nó cũng đóng vai trò tăng thượng
duyên cho pháp trì danh. Do đó, ta có thể kết luận một cách quả quyết và minh
bạch rằng:
a) Nếu chỉ chuyên tu quán tưởng mà không kiêm tu các pháp khác, rủi không thành
công thì thật là tổn phí thì giờ.
b) Nếu dùng pháp quán tưởng phụ giúp cho pháp trì danh thì nó có thể làm tăng
thượng duyên cho tịnh nghiệp, bồi thêm hiệu quả cho pháp trì danh mà không mảy
may lưu tệ.
Tóm lại, dùng phương pháp quán tưởng, giúp cho phương pháp niệm Phật thì thật là
nhiệm mầu vậy. Chúng ta cần phải biết châm chế mà thực hành cho chóng có kết
quả.
Sau đấy xin cung lực 16 pháp quán trong kinh Quán Vô Lượng Thọ và 29 pháp quán
trong Luận Vãng sanh. Mong rằng các bậc hành giả tinh tấn y theo, công đức sẽ vô
lượng.
Ðối với 16 pháp quán trong kinh Quán Vô Lượng Thọ hay đối với 19 pháp quán trong
Luận Vãng sanh, nếu hành giả trong khi tu, cảm thấy cảnh giới quá rộng rãi phiền
phức hoặc giã cảnh quán hiện ra quá mơ màng mông lung không thể quán tưởng hết
cùng một lượt, thì bắt đầu chỉ nên đặc quán một pháp hay hai pháp mà thôi. Hoặc
cũng có thể chỉ quán tưởng một bộ phận nhỏ trong một pháp., hay thay đổi, hôm
nay quán bộ phận này, hôm sau quán bộ phận khác.
Trong khi tu quán, đừng nên bắt đầu “quán không” và đừng sợ bị pháp chấp. Ðặc
sắc của pháp môn tu Tịnh độ là không cấm kỵ sự muốn thấy Phật. Sự muốn đến cảnh
giới Phật, tức là “quán hữu”. Ðã có phương pháp trì danh làm căn bản (dù chỉ trì
10 danh hiệu một ngày) phép quán kiêm thêm là chỉ cốt để phụ giúp cho tịnh
nghiệp mà thôi. Vì ở địa vị phụ, nên quán tưởng có thành công hay không cũng
không hại. Ví như trong công việc thành tựu một cái bàn, công thợ và cây ván có
thể ví như phương pháp trì danh, dầu véc ni sự đánh bóng có thể ví như phương
pháp quán tưởng. Lại như trong công việc dệt sa lụa, trì danh như canh chỉ, quán
tưởng như bông hoa. Miễn rằng dâu được cái bàn chắc chắc hay dệt xong cây lụa
tốt bền thì gọi là hoàn thành, có đánh bóng hay không, có bông hoa hay không,
chưa phải là điều quan trọng. Nếu hiểu được lẽ đó, ta nên khéo léo vận dụng thế
nào cho phần chính được đặc biệt chú trọng hơn phần phụ, nếu có thêm phần phụ là
chỉ tăng thêm vẻ mỹ miều cho phần chính được chừng nào hay chừng đó mà thôi vậy.
Nghe nói như trên, không khỏi có người sẽ phản đối lại mà đàn hạch rằng: “Sở dĩ
thấy chúng sanh bị giặc phiền não làm hại, nên đức Thích Tôn đặc biệt khai ra
pháp môn quán tướng này trong kinh Quán Vô Lượng thọ, nay vì sao ở đây có chủ
trương hạ thấp giá trị nó xuống và gán cho nó một vai trò phụ phương pháp trì
danh”.
Nếu có sự khiển trách ấy, tôi xin nhận lỗi ngay, nhưng cũng xin bình tĩnh xét
kết quả hai bên thì sẽ rõ. Từ khi Ðức Phật khai ra pháp môn Tịnh độ, cơ sở y
theo phương pháp trì danh mà tu hành, thử tính xem kết quả vãng sanh được bao
nhiêu! Lại cũng thử tính xem số chúng sanh y theo phép quán tưởng mà tu hành,
kết quả vãng sanh là bao nhiêu! Kết quả hai bên so nhau thật quá huyền thù. Sự
kiện này, chính Ðức Phật cũng đã nêu rõ. Hơn nữa trong đời mạt pháp này vì nhơn
tâm quá dễ tán loạn, vì hoàn cảnh quá nhiễu nhương nên ở đây mới dám tùy cơ
duyên khuyên hành giả lấy phương pháp trì danh làm chủ và lấy phương pháp quán
tưởng làm phụ. Nếu người hành giả thành công được cả hai, kết quả sẽ vô cùng tốt
đẹp. Nêu chỉ riêng thành tựu được phương pháp trì danh, cũng quyết định được
vãng sanh, vì với phương pháp trì danh, mười người tu là mười người đạt kết quả,
chứ không khó như phương pháp quán tưởng. Vì các lẽ ấy, ở đây quyền biến chủ
trương bên chí nhưng bên phụ, tưởng cũng không trái với ý kinh.
Ngày xưa, khi Ngài Thiện Ðạo đại sư trước tác quyền “Pháp môn Quán niệm A Di Ðà
Phật tướng hảo công đức” để giải rõ phương pháp tu hành quán tưởng niệm Phật,
nhưng vẫn không quên khuyên hành giả chuyên trì danh hiệu Phật. Lý do ngài đưa
ra là: “Vì chúng sanh, nghiệp chướng nặng, cảnh quán vi tế mà tâm thô tháo, thức
bay nhảy, thần tản mát, nên quán tưởng khó thành tựu.” Mặc dù vậy, Ngài vẫn nói
pháp quán tưởng, mục đích chính cốt để giáo hóa hàng lợi căn thượng trí mà thôi,
chứ đối với hàng quần chúng phổ thông thì Ngài khuyên nên chuyên trì danh hiệu
Phật là đắc sách hơn cả, đó chính là phương tiện thiện xảo của các bậc Cổ đức
sáng chế ra để dắt dẫn kẻ hậu tấn vậy.
TIẾT HAI
16 PHÁP
QUÁN THEO KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ
a) Quán tưởng mặt trời: Ngồi xây mặt về hướng Tây. Quán tướng mặt trời
như cái trống treo lơ lững giữa hư không, tròn chói lọi; về hướng mặt trời sắp
lặn, ánh sáng rực rỡ, bắt cứ nhắm hay mở mắt đều trông thấy rõ ràng.
b) Quán tướng nước: Thứ lại, quán tướng nước. Tập trung râm ý nhìn vào
nước trong lặng, khi nhắm mắt lại cũng vẫn thấy được nước thì quán tưởng nước ấy
kết thành băng. Ðã thấy được băng rồi thì quán tưởng băng ấy thành lưu ly. Tiếp
theo, đem lưu ly ấy biến thành đất của thế giới Cực lạc trong suốt sáng ngời:
dưới đất lưu ly ấy có một cái đế vàng thất bảo chống đỡ: đế có 8 góc, 8 cạnh,
mỗi cạnh toàn do vàng châu báu tạo thành, mỗi một châu bảo chiếu xa trăm ngàn
hào quang lóe ra 84.000 sắc, chiếu trên đất lưu ly, lung linh như muôn ngàn mặt
trời, không thể nhìn xiết.
Lại quán trên đất lưu ly ấy có vô số dây chằng, toàn bằng vàng ròng, xen lẫn
chằng chịt có bảy báu làm giới hạn và phân khoản rõ ràng; trong mỗi thứ báu có
500 sắc hào quang tuông ra, rực rỡ như hoa, lung linh như trăng sao, treo lồng
lộng giữa hư không, kết thành đài quang minh gồm có muôn ngàn lầu gác do trăm
thứ báu hợp thành; xung quanh đài có trăm ngàn hoa và vô lượng nhạc khí bằng
châu báu, lại có 8 khí gió mát từ trong ánh sáng phe phẩy thổi ra, nhẹ rung các
nhạc khí, khiến trỗi lên những khúc nhạc vô thường, khổ, không, vô ngã, một cách
hài hòa và tự nhiên.
c) Quán tướng đất: Khi phép quán tướng nước đã thành tựu, nghĩa là khi
thấy rõ được các cảnh như trên, bất cứ mở mắt hay nhắm mắt, lúc nào các cảnh ấy
cũng hiện ra, ngoại trừ lúc ăn, như vậy gọi là đã thấy sơ qua đất nước Cực lạc
rồi. Nếu được Tam muội rõ ràng phân minh, không thể nghĩ gì hết được. Một quán
tưởng đất thành tựu rồi, thì lúc xả bỏ thân này, tức liền vãng sanh Tịnh độ .
d) Quán tướng cây: Quán tướng 7 lớp hàng cây, mỗi cây cao 8.000 do tuần,
hoa lá toàn bằng thất bảo, sum xuê im mát. Trong mỗi hoa lá tỏa nhiều sắc khác
nhau, lại trong mỗi ánh sáng hào quang riêng, như sắc lưu ly ánh ra hào quang
vàng, sắc pha lê ánh hào quang hồng, sắc mã não ánh hào quan xa cừ, sắc xa cừ
ánh hào quang quang lục v.v... Các loại châu báu như lưu ly, pha lê, xà cừ, trân
châu, san hô, hổ phách đều dùng để trang sức cho cây.
Trên mỗi hàng cây đều có lưới che bằng ngọc trân châu, trên mỗi cây lại có một
lớp lưới, trong lưới có năm trăm ức diệu hoa cung điện giống như cung trời Phạm
Vương; trong mỗi cung điện có Chư thiên đồng tử nhởn nhơ qua lại. Mỗi đồng tử
đeo một vòng chuỗi anh lạc gồm năm trăm hột ngọc am ni kết thành. Ánh sáng của
ngọc am ni tỏa chiếu hằng trăm do tuần, lóng lánh như trăm ngàn mặt trời, mặt
trăng, đẹp đẽ tuyệt với không thể tả xiết.
Các cây báu ấy, hàng hàng nối nhau, lá lá chen nhau giữa các kẽ lá lại nhô lên
nhiều cụm hoa đẹp, trổ ra vô số trái thất bảo. Chóp cây tỏa thành một tàn lá
rộng, che phủ 25 do tuần. Tàn lá có ngàn sắc, trên mỗi lá có hàng trăm đường chỉ
quay tròn như vòng lửa xoay, óng ánh sắc vàng ròng, chói sáng rực rỡ. Những vòng
quang minh lớn hóa thành vô lượng tràng phan bảo cái; trong mỗi bảo cái hiện ra
tam thiên, đại thiên thế giới và hết thảy các Phật sự trong mười phương cõi
Phật.
Thấy được cây rồi, sẽ lần lượt theo thứ lớp mà quán tướng nhánh, cành, lá, hoa,
mỗi mỗi riêng biệt cho thật phân minh.
d) Quán tưởng nước Công đức: Thứ lại, quán tưởng 8 hồ nước của Thế giới
Cực lạc, các hồ ấy đều do thất bảo tạo thành. Thất bảo này là những thứ báu mát
mẻ nhu nhuyến do như ý bảo châu phát sanh. Mỗi hồ phân ra 14 chi lưu, bờ bằng
vàng ròng, đáy bằng tạp sắc kim cang lót thế cát. Trong hồ có vô số hoa sen thất
bảo. Mỗi hoa sen tròn trặn 12 do tuần. Trong hoa tuôn ra một thứ nước như ngọc
ma ni, theo cây lên xuống; nước chảy phát ra những thanh âm nhiệm mầu dạy đạo lý
vô thường, khổ, không, vô ngã và các phép ba la mật. Cũng trong những âm thanh
ấy, thỉnh thoảng lại vang lên những lời tán thán tướng hảo của Chư Phật. Ðồng
thời, từ những viên ngọc Như ý châu, những hào quang sắc vàng lại được phóng ra
một cách vô cùng nhiệm mầu. Trong hào quang, bay ra từng đàn chim lộng lẫy muôn
màu muôn vẽ, cùng nhau hát những tiếng hòa nhã tán thán sự niệm Phật, niệm Pháp,
niệm Tăng.
e) Tổng quán tướng: Tổng quán tướng tức là quán tướng toàn thể quốc độ
Cực lạc. Quốc độ chia thành nhiều khu vực với ranh giới phân minh. Trong mỗi khu
vực có 500 ức lâu đài cùng vô số chư thiên hòa tấu ca nhạc bằng những nhạc khí
treo lơ lửng giữa hư không như những tràng phan bảo cái, các nhạc khí ấy tự
nhiên phát ra những âm thành thường thời nói pháp niệm Phật, niệm pháp, niệm
Tăng.
Một khi đã thấy được đất báu, cây báu, hồ báu cùng là tổng tướng của thế giới
Cực lạc rồi, pháp quán tưởng như vậy là đã thành tựu. Ai đã thành tựu được các
phép quán tưởng trên, tức trừ được các ác nghiệp rất nặng từ vô lượng kiếp về
sau, khi lâm chung nhất định sẽ được vãng sanh.
g) Quán tưởng tòa sen. Sau khi việc quán tưởng đã thành tựu,tiếp là quán
tưởng tòa sen. Nên bắt đầu quán tưởng từng bộ phận, từ cánh hoa sen cho đến đài
hoa.
Cành sen làm bằng trăm thứ báu, màu sắc rực rỡ. Trên mỗi cành có 84.000 đường
gân chạy dọc, mỗi đường gần tỏa ra 84.000 hào quang lộng lẫy như các bức vẽ
tuyệt trần. Mỗi hoa sen có 84.000 cánh và hoa nào nhỏ nhất cũng rộng đến 250 do
tuần. Trên mỗi cánh hoa lại có năm trăm ức ngọc ma ni dùng làm trang sức. Mỗi
viên ngọc ma ni phóng ra muôn ngàn hào quang giống như hình bảo cái che khắp
mặt đất.
Ðài hoa làm bằng thứ ngọc thích ca tỳ lăng già, và lại trang sức thêm bằng 8 vạn
thứ ngọc kim cang, chân thúc ca, ngọc phạm ma ni, ngọc diệu trân châu v.v...
Nếu muốn niệm Ðức Phật A Di Ðà, trước hết phải quán tưởng đài sen ấy. Lúc quán
tưởng, không nên để tạp tưởng xen vào. Phải quán tưởng từng bộ phận một cho phân
minh như nhìn mặt trong gương.
Quán tưởng này mà thành tựu thì liền diệt trừ được 5 vạn ức kiếp sanh tử tội
chướng và quyết định sẽ được vãng sanh cực lạc.
h) Quán tưởng hình tượng: Khi đã thấy đài sen rồi, tiếp theo là quán
tưởng thân tướng của Ðức Phật ngồi trên đài sen ấy, quán cho đến khi nào nhắm
mắt, mở mắt đều thấy một ngôi tượng Phật, thân sắc vàng ròng ngồi trên đài hoa
kia thì tâm nhãn đều khai thông, khiến thấy được thế giới Cực lạc với đất báu,
ao báu, cây báu cùng là tràng phan bảo cái giăng bủa đầy trời, lưới ngọc che
khắp hư không. Tất cả cảnh ấy hiện ra trước mặt nưh khi ta xem một trái cây nằm
giữa lòng bàn tay vậy.
Lại quán tướng khiến hai đài sen khác ở hai bên tả hữu Phật. Bên tả là đức Quán
Thế Âm, bên hữu là đức Ðại Thế Chí. Khi quán tưởng hai tượng này đã thành tựu
thì liền thấy từ tượng Phật phóng ra hào quang sắc vàng, chiếu khắp hàng cây
báu. Ở dưới mỗi gốc cây báu đều hiện ra 3 đài sen; trên các đài sen đều có Phật
vàBồ tát ngồi, từ gốc này qua gốc khác, trùng trùng điệp điệp, cùng khắp cả
nước...
Quán tướng ấy thành, hành giả sẽ nghe các dòng nước, các luồng hào quang, các
hàng cây báu, cho đến chim phù, chim nhạn v.v... đều nói lên pháp mầu bất cứ
nhập định hay xuất định, vẫn thường nghe văng vẳng lưòi thuyết pháp bên tai.
Những điều mà hành giả nghe trong lúc nhập định nếu khi xuất định mà còn nhớ lại
và thấy hoàn toàn xứng hợp so với kinh giáo tức là hành giả thấy sơ qua cảnh
giới cực lạc rồi vậy. Còn nếu những điều kia so với kinh giáo thấy không xứng
hợp, tức là vọng tưởng.
Quán tưởng được như trên thì sẽ trừ được tội nặng trong vô lượng kiếp sanh tử và
hiện thân chứng được Niệm Phật tam muội.
i) Quán tưởng toàn thể sắc thân Phật: Tiếp theo là quán tưởng thân tướng
quang minh của Ðức Phật Vô Lượng Thọ (tức Ðức Phật A Di Ðà). Thân Phật sắc vàng,
cao sáu mươi ức hằng hà sa do tuần. Bạch hào quang ở giữa hai chân mày uyển
chuyển xoay về bên hữu, vòi vọi như năm chóp núi Tu di. Mắt Phật trong xanh,
mênh mông như nước bốn bể. Các lỗ chân lông trong mình ngài phóng ra hào quang
lớn nư núi tu di, trong mỗi vòng hào quang hiện ra trăm ức đại thiên thế giới và
trăm ức na do tha hằng sa Hóa Phật, mỗi vị Hóa Phật có vô số Hóa Bồ tát là thị
giả.
Ðức Phật Vô Lượng Thọ có 84.000 tướng, trong mỗi tướng có 84.000 quang minh, và
mỗi quang minh đang chiếu khắp chúng sanh đương niệm Phật trong mười phương thế
giới, để tiếp dẫn không sót một chúng sanh nào. Các tướng tốt của Phật, hào
quang của Phật là các hóa thân của Phật nhiều không thể kể xiết. Trong khi quán
tướng chỉ cần nên tưởng nhớ các cảnh giới nói trên thì trong tâm và ngoài mắt
cũng đều thấy cả.
Thấy được như thế tức là đã thấy được tất cả các Ðức Phật trong mười Phật. Vì
thấy được các Ðức Phật trong mười phương nên gọi là Niệm Phật tam muội. Phép
quán tướng này gọi là quán tướng toàn thể sắc thân Phật. Ðã quán tướng được thân
Phật nên cũng thấy được tam Phật. Tâm Phật tức là lòng Ðại từ Ðai bi lấy vô
duyên từ (2) độ tất cả chúng sanh.
Nếu quán tưởng được như thế thì liền sau khi bỏ thân này sẽ được vãng sanh trước
mặt Ðức Phật và chứng ngay quả vô sanh nhẫn. Vì lý do ấy, nên kẻ trí giả nên đem
lòng chơn thành quán tưởng Ðức Phật Vô Lượng Thọ.
Muốn quán tưởng Ðức Phật Vô Lượng Thọ cho có hiệu quả, nên tuần tự quán tưởng
từng tướng tốt một. Giả sử, trước tiên chỉ nên quán tưởng bạch hào giữa đôi chân
mày. Nhưng khi đã thấy rõ tướng bạch hào này rồi, thì 84.000 tướng khác tự nhiên
hiển hiện.
k) Quán tưởng toàn thể sắc thân Ðức Bồ Tát Quán Thế Âm: Thân tướng Ðức Bồ
Tát Quán Thế Âm cao 80 ức na do tha do tuần, sắc vàng tía. Trên đảnh có nhục kế,
cổ có hào quang tròn. Trong hào quang có 500 Hóa Phật, mỗi Hóa Phật có 500 Hóa
Bồ tát và vô lượng Chư thiên làm thị giả. Toàn thân Ngài đều phóng hào quang,
trong hào quang ấy đều hiện ra hết thảy sắc tướng của 5 đạo chúng sanh. Ðàu Ngài
đội mũ làm bằng bảy thứ ngọc báu Tỳ lăng già ma ni, trong mũ có một hóa Phật
đứng, mình cao 25 do tuần. Mặt Ngài sắc vàng, tướng bạch hào ở giữa chặn mày có
đủ sắc thất bảo, phóng ra 84.000 thứ hào quang, mỗi hào quang có vô số Hóa Phật,
mỗi vị Hóa Phật có vô số Hóa Bồ tát theo làm thị gải, tràn đầy cả 10 phương thế
giới. Bàn tay ngài ánh ra 500 ức tạp liên hoa sắc; đầu 10 ngón tay đều có 84.000
nét vẽ rõ ràng như nét in, mỗi nét vẽ có 84.000 sắc, mỗi sắc có 84.000 hào quang
uyển chuyển khắp mười phương. Chính nơi bàn tay rực hào quang ấy mà Ngài tiếp
dẫn chúng sanh đưa về Cực lạ. Dưới mỗi bước đi của Ngài, như có muôn ngàn bánh
xe, hóa thành 500 ức đài quang minh. Khi Ngài đặt bàn chân xuống là có hoa kim
cang mi ni nở để nâng chân.
Hầu hết thân tướng của Bồ tát Quán Thế Âm đều có đầy đủ vẻ đẹp như Phật, duy chỉ
nhục kế trên đầu và vô kiến đảnh tướng là không so được với Phật. Quán tưởng
thân tướng Ðức Bồ Tát Quán Thế Âm thì tránh được tai họa, trừ sạch nghiệp chướng
và hết tội lỗi từ vô kiếp đến nay.
Muốn quán tưởng Ðức Bồ Tát Quán Thế Âm thì nên theo thứ tự như sau: Trước hết,
quán tướng nhục kế ở trên đầu, kế đó là quán tướng cái mũ, rồi mới đến các tướng
khác mỗi mỗi cho thật phân minh.
l) Quán tướng toàn thân của Ðức Bồ tát Ðại Thế Chí: Thân tướng
cũng lớn như Ðức Quán Thế âm Bồ tát. Lòng kính vòng hào quang của Ngài đo được
125 do tuần, sáng rực cả thân, ánh sáng chiếu khắp mười phương quốc độ, ngời sắc
vàng cháy. Tất cả chúng sanh có duyên với Ngài đều được trông thấy sắc vàng cháy
ấy. Chỉ thấy được một hào quang từ lỗ chân lông tỏa ra là đủ tháy được hết thảy
hào quang tinh diệu của 10 phương chư Phật. Vì hào quang của Ngài sáng chói rực
rỡ như vậy nên Ngài có hiệu Vô Biên Quang. Ngài có năng lực tối thượng đem ánh
sáng trí huệ chiếu khắp thế giới chúng sanh, khiến chúng sanh thoát ly được ba
đường dữ nên tên hiệu chính của Ngài là Ðại Thế Chí.
Mũ ngài đội có 500 hoa báu, trong mỗi hoa báu có 500 đài báu, trong mỗi đài báu
hiện ra các cõi Tịnh độ mười phương Chư Phật. Nhục kế của Ngài như hoa bát đầu
ma, trên nhục kế có một bình báu ánh quang minh hiện đủ các Phật sự. Các thân
tướng khác của Ngài cũng đều giống như Ðức Quán Âm.
Mỗi khi Ngài cất bước, tất cả 10 phương thế giới đều rúng động, tại mỗi chỗ đất
bị rúng động hiện ra 500 ức hoa báu, các hoa báu thảy đều trang nghiêm cao hiện
ra như thế giới Cực lạc. Khi Ngài ngồi, các quốc độ thất bảo đều đồng loạt đều
động, từ quốc độ của Phật Kim Quang đến dưới hạ phương đến quốc độ của Phật
Quang Minh vương trên thượng phương; tại khoảng giữa thì vô lượng vô số phân
thân của Ðức Phật Vô Lượng thọ và các phần thân của đức Quán Âm, đức Thế Chí đều
vân tập về, đầy khắp hư không, hết thảy ngự trên tòa sen và cùng diễn thuyết
pháp mầu.
Quán tưởng được như thế sẽ trừ được vô số kiếp tội ác sanh tử, không còn bị thai
sanh thường được hóa sanh va được tự tại ngao du các quốc độ tịnh diệu của Chư
Phật.
m) Phổ quán tưởng: Phổ quán tưởng tức là tưởng tượng thân mình khi sanh
về thế giới Cực lạc, chân xếp lại ngồi trong hoa sen đang búp. Ðến khi hoa nở,
có 500 sắc hào quang chiếu vào thân mình, khi mở mắt liền thấy Phật và chúng Bồ
tát đầy cả hư không, đương nói pháp mầu. Những lời Phật và Bồ tát dạy cũng như
tiếng nước, tiếng chim, tiếng cây, tiếng rừng phát ra đều là diễn xuất chân lý
xứng hợp với 12 bộ kinh. Nếu sau khi xuất định mà vẫn nhớ tưởng mãi cảnh ấy tức
gọi là thế giới Cực lạc, thấy Ðức Vô Lượng Thọ, thấy được vô số hóa thân của
Ngài, cùng là 2 Ðức Quán Âm, Thế Chí thường đến chỗ của mình.
n) Tạp quán tưởng: Như trên đã nói, thân lượng của Ðức Phật Vô Lượng Thọ
thật vô biên, thân tượng của hai đức Bồ tát Quán Âm, Thế Chí cũng thế. Tâm lực
phàm phu không tài nào quán tưởng nổi, vì vậy mới có thiết lập một loại quán
tưởng mệnh danh là tạp quán tưởng mở đầu cho các quán tưởng trên. Phương pháp
tạp quán tưởng này dạy cho ta chỉ nên quán tưởng tượng Phật cao một trượng sáu,
ngồi trên hoa sen. Trong hồ báu,thân sắc vàng vòng: Hóa Phật ở trong vòng hào
quang cùng các Ðức Quán Âm, Thế Chí đều bằng lớn thân chúng sanh với các tướng
trên đầu, như thế Quán Âm thì có Ðức Phật đứng trong mũ, Ðức Thế Chí thì có bình
báu trên nhục kế. Còn hồ sen, cây báu v.v.. thì giống như các loại hồ sen cây
báu có thể tìm thấy ở mọi xứ sở.
o) Quán tưởng 3 bậc thượng phẩm vãng sanh
p) Quán tưởng 3 bậc trung phẩm vãng sanh
q) Quán tưởng 3 bậc hạ phẩm vãng sanh
(xin xem lại chương trên đã nói)
TIẾT BA
29 QUÁN
THEO LUẬN VÃNG SANH
Luận Vãng sanh Tịnh độ do ngài Bồ tát Thế Thân trước tác còn có tên là “Vô Lượng
thọ kinh Ưu Bà Ðề và Nguyện sanh kệ”. Nội dung bộ luận ấy chia Chúng sanh Thế
gian Thanh Tịnh và Khí Thế gian Thanh Tịnh của thế giới Cực lạc làm loại:
- Loại công đức thành tựu của Phật có 8 món.
- Loại công đức thành tựu của Bồ tát có 4 món
- Loại công đức thành tựu của Quốc độ có 17 món.
Sở dĩ có chia chẻ ra như vậy là cốt để dạy hành giả biết phân biệt quán sát cho
tinh tường từng loại một. Vì thế nên đó cũng là những phép Quán tưởng. So với 16
phép Quán tưởng trong Quán Kinh, phương pháp hai bên có sự bất đồng, chẳng qualà
vì ở đây đặt nặng về phần nhận thức hơn mà nhẹ về phần suy gẫm đó thôi. Nếu hành
giả biết nương vào đây mà Quán tưởng thì cũng sẽ gợi được một ấn tượng tốt về
Thế giới Cực lạc và do đó có thể tán trợ cho sự vãng sanh rất nhiều.
THUỘC CHÚNG SANH THẾ GIAN THANH TỊNH
a) Tám món công đức thành tựu của Phật:
1) Chỗ ngồi trang nghiêm
Kệ dạy:
Vô lượng đại Bửu Vương
Vi diệu tịnh hoa đài”.
Nghĩa là: Ðức Phật là đấng Vô Lượng Ðại Bửu Vương, Ngài ngồi trên đài hoa Thanh
Tịnh vi diệu.
2) Thân trang nghiêm
Kệ dạy:
“Tướng hảo quang nhất tầm,
Sắc tượng siêu quần sanh.”.
Nghĩa là: Tướng tốt của Ngài chiếu sáng một tầm, hình dung xinh đẹp hơn tất cả
chúng sanh.
Vì không thể quán được thân tướng và ánh áng của Ðức A Di ÐÀ, nên chỉ căn cứ vào
quan niệm của chúng sanh ở cõi này mà quán tưởng tướng tốt và ánh sáng một tầm
từ thân đức Thích Ca chiếu ra làm tiêu chuẩn. Ðức Phật có hào quang và tướng tốt
như thế nên siêu việt hơn quần sanh.
3) Miệng trang nghiêm
Kệ dạy:
“Như Lai vi diệu âm,
Phạm hưởng văn thập phương”.
Nghĩa là: Ngôn ngữ và âm thanh của Phật rất nhiệm mầu như tiếng nói của Phạm
Thiên, âm hưởng nghe khắp cả mười phương.
4) Tâm trang nghiêm
Kệ dạy:
“Ðồng đại thủy hỏa phong
Hư không vô phân biệt”.
Nghĩa là: Tâm Phật bình đẳng như thể tánh của địa, thủy hỏa, phong và hư không.
Phật dùng tâm bình đẳng độ khắp chúng sanh, không có lòng phân biệt. So với vật
khí thế gia,tính chất bình đẳng vốn đồng, không luận tinh thô tốt xấu, đất đều
chở hết, nước đều cuốn hết, lửa đều đốt hết, gió đều thổi hết, hư không đều dung
nạp hết.
5) Chúng trang nghiêm
Kệ dạy:
“Thiên nhơn bất động chúng
Thanh tịnh trí hải sanh”.
Nghĩa là: Hết thảy chúng thiên, nhơn bất động; đều nhờ trí huệ lớn thanh tịnh mà
được vsa Cực lạc .
6) Thượng thủ trang nghiêm
Kệ dạy:
“Như Tu Di sơn vương
Thắng diệu vô quá giả”.
Nghĩa là: Như Tu Di là ngôi núi chúa, thù thắng đẹp không ai hơn.
Các bậc Bồ tát bất thoái Ðại thừa làm thượng thủ, có công đức đồ sộ như núi Tu
Di, không ai hơn nổi.
7) Chủ trang nghiêm
Kệ dạy:
“Thiên nhơn Trượng phu chúng,
Cung kỉnh nhiễu chiêm ngưỡng”.
Nghĩa là: Trên hàng Thượng thủ, Ðức Phật là đáng Giáo Chủ được chúng thiên nhơn,
trượng phu cung kính đoanh vây chiêm ngưỡng.
8) Trú trì trang nghiêm
Kệ dạy:
“Quán Phật bổn nguyện lực,
Ngộ vô không quá giả.
Năng linh tốc mãn túc
Công đức đại bửu hải”.
Nghĩa là: Sanh về Cực lạc được gặp A Di Ðà thật không uổng công phu, vì nhờ bổn
nguyện lực của Ngài chúng sanh mau được đầy đủ công đức lớn lao như đại hải.
b) Bốn món công đức thành tự của Bồ tát.
1) Trú thanh tịnh
Kệ dạy:
“An lạc quốc thanh tịnh,
Thường chuyển vô cấu luân,
Hóa Phật Bồ tát nhựt,
Như Tu Di trú trì”.
Nghĩa là:
Bồ tát an trú nơi cõi Cực lạc thanh tịnh mà vẫn thường du hành khắp nơi để nói
pháp thanh tịnh giáo hóa chúng sanh xa lìa các ô nhiễm phền não. Trong khi du
hành giáo hóa, tuy hóa hiện thân Phật va thân Bồ tát rất nhiều, nhưng báo thân
vẫn an trú bất động và vẫn vững chắc như núi Tu Di
2) Niệm thanh tịnh
Kệ dạy:
“Vô cấu trang nghiêm quang,
Nhứt niệm cập nhứt thời,
Phổ chiếu Chư Phật hội,
Lợi ích chư quần sanh”.
Nghĩa là: Bồ tát có đại trí tuệ thanh tịnh trang nghiêm. Trí ấy có công năng
trong một niệm hay trong suốt một thời gian, soi khắp của quốc độ của Chư Phật
và làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh diệt trừ các khổ não
3) Cúng dường thanh tịnh
Kệ dạy:
“Vũ thiên nhạc hoa y,
Diệu hương đẳng cúng dường,
Tán Phật chư công đức,
Vô hữu phân biệt tâm.”
Nghĩa là:
Bồ tát thường rưới xuống các vật báu trang nghiêm như: Thiên nhạc, Thiên hoa,
Thiên y và Diệu hượng để cúng dưòng Phật và tán thán công đức của Phật mà không
hề có tâm phân biệt năng sở.
4) Hóa độ thanh tịnh
Kệ dạy:
“Hà đẳng thế giới vô,
Phật pháp công đứac bảo,
Ngã giai nguyện vsa.
Thị Phật Pháp như Phật”.
Nghĩa là:
Bồ tát thường dùng Hụê nhãn quan sát xem Thế giới nào không có Phật bảo và Pháp
bảo thì nguyện vãng sanh về thế giới ấy để giảng dạy Phật pháp, như Ðức Phật
không khác.
THUỘC KHÍ THẾ THANH TỊNH:
Mười bảy món công đức thành tựu của quốc độ:
1) Thanh tịnh công đức thành tựu
Kệ dạy:
“Quán bỉ thế giới tướng,
Thắng quá tam giới đạo”.
Nghĩa là: Quốc độ Cực lạc do thiện căn vô lậu thanh tịnh xuất thế gian tạo
thành; Quốc độ ấy hơn hết các quốc độ khác trong ba cõi sáu đường.
2) Vô lượng công đức thành tựu
Kệ dạy:
“Cứu cánh như hư không,
Quảng đại vô biên tế.”
Nghĩa là: Quốc độ Cực lạc mênh mông như hư không biết đâu là giới hạn; dù cho
tất cả chúng sanh trong mười Phật đều vãng sanh hết về bên ấy, quốc độ ấy vẫn
còn đủ chỗ chứa rộng rãi.
3) Tánh công đức thành tựu
Kệ dạy:
“Chánh đạo đại từ bi.
Xuất thế thiện căn sanh.”
Nghĩa là: Quốc độ Cực lạc là kết quả vô tận thanh tịnh do công đức tu hành Bát
Chánh Ðạo của hàng tam thừa Bồ tát mà sanh khởi hiển hiện.
Tánh ở đây, tức là chủng tử, cũng tức là nhân tánh công đức thành tựu tức là nói
chủng tử thiện căn huân tập, cấu thành Thế giới Cực lạc
4) Hình tướng công đức thành tựu
Kệ dạy:
“Tịnh quang minh mãn túc,
Như cảnh nhựt nguyệt luân.”
Nghĩa là: Tất cả sắc trong quốc độ Cực lạc thảy đều sáng chói vắng lặng chiếu
khắp mười phương, trong suốt như gương, rực rỡ như ánh sáng mặt trăng, mặt trời.
5) Chủng chủng công đức thành tựu
Kệ dạy:
“Bi chư trân bảo tánh,
Cụ túc diệu trang nghiêm.”
Nghĩa là: Mọi sự vật đều có đủ tính chất trân bảo, đầy đủ vẻ trang nghiêm đẹp
đẽ, bất tư nghì.
6) Diệu sắc công đức trang nghiêm
Kệ dạy:
“Vô cấu quang diệm xí,
Minh tịnh diệu thế gian”.
Nghĩa là: Bao nhiêu hình sắc của quốc độ Cực lạc đều tinh khiết, quang minh rực
rỡ không vướng bụi nhơ; chói lọi sáng rạng ngời tất cả thế gian bất khả tư nghì.
7) Xúc công đức trang nghiêm
Kệ dạy:
“Bảo tánh công đức thảo,
Nhu nhuyến tả hữu triền.
Xúc sanh thù thắng lạc,
Quá Ca chiên lân đà”.
Nghĩa là: Cổ công đức do chủng thanh tịnh sanh ra, mịn màng như gấm trải; đụng
đến cỏ ấy cũng đều có cảm giác êm dịu thích thản lạ lùng, hơn xa thứ cỏ Ca chêin
Lân Ðà là một thứ cỏ rất mịn ở Ấn Ðộ.
8) Trang nghiêm công đức thành tựu, có ba loại:
a) Nước trang nghiêm
Kệ dạy:
“Bảo hoa thiên vạn chủng
Di phú trì lưu tuyền.
Vi phong động hoa diệp
Giao thác quang loạn chuyển”.
Nghĩa là: Hoa báu muôn ngàn thứ, che phủ các suối hồ, gió dịu rung cành hoa,
lung linh mặt nước động!
b) Ðất trang nghiêm
Kệ dạy:
“Cung điện chư lâu các
Quán thập phương vô ngại
Tạp thọ dị quang sắc,
Bảo lan biến vi nhiễu.”
Nghĩa là: Từ cung điện lầu gác trông ra, tháy suốt được mười phương không chướng
ngại, Hào quang màu sắc tân kỳ xuyên qua các hàng cây, lan can báu đoanh vây bốn
phía cung điện.
c) Hư không trang nghiêm
Kệ dạy:
“Vô lượng bảo giao lạc,
La võng biến hư không.
Chủng chủng linh phát hưởng,
Tuyên dương diệu pháp âm”.
Nghĩa là: Vô lượng châu ngọc xen nhau kết thành lưới, bao phủ khắp hư không;
Các thứ linh rung động tạo thành những âm hưởng tuyên dương các pháp mầu.
9) Mưa trang nghiêm
Kệ dạy:
“Vũ hoa y trang nghiêm
Vô lượng hương phổ huân.”
Nghĩa là: Tại quốc độ Cực lạc có những trận mưa hoa, mưa y phục, mưa đồ trang
sức và vô lượng hương báu xông khắp quốc độ.
10) Quang minh công đức thành tựu
Kệ dạy:
“Phật huệ minh tịnh nhựt
Trừ thế si ám minh”.
Nghĩa là: Hào quang trí tuệ của Phật chiếu tan màn ngu si của chúng sanh như ánh
sáng mặt trời soi tan màn tối tăm của thế gian.
11) Âm thanh công đức
Kệ dạy:
“Phạm thanh ngữ thâm viễn
Vi diệu văn thập phương”.
Nghĩa là: Ở quốc độ Cực lạc, âm thanh của Phật, Bồ tát và chúng Thanh Văn cho
đến âm thanh của gió và nước v.v... mỗi mỗi đều thâm diệu như tiếng Phạm Thiên
và vọng ra xa đến tận mười phương khiến tất cả thính chúng đều nghe thấy được .
12) Âm thanh công đức thành tựu
Kệ dạy:
“Chánh giác A Di Ðà
Pháp vưong thiện trụ trì”.
Nghĩa là Ðức Phật A Di Ðà làm chủ thế giới Cực lạc. Ngài và vị Pháp Vương khéo
chủ trì thế giới ấy.
13) Quyến thuộc công đức thành tựu
Kệ dạy:
Như lai tịnh hoa chúng.
Chánh giác hoa hóa sanh.
Nghĩa là: Nhân dân ở thế giới Cực lạc đều là quyến thuộc thanh tịnh của Phật và
đều do hoa sen chánh giác hóa sanh.
14) Thọ dụng công đức thành tựu
Kệ dạy:
“Thọ lạc pháp trung vị.
Thuyền Tam Muội vi thực.
Nghĩa là: Chúng sanh ở thế giới Cực lạc hưởng thọ hương vị của chánh pháp và
thuyền định tam muội làm thức ăn.
15) Vô chư nạn công đức thành tựu
Kệ dạy:
“Vĩnh ly thân tâm não
Thọ lạc thường vô gián”.
Nghĩa là: Vĩnh viễn xa lìa các sự khổ não của thân như thiếu thốn cơm áo vật
dụng, lại cũng vĩnh viễn xa lìa các sự khổ não của tâm như tham, sân, si v.v...
cho nên, chúng sanh ở quốc độ Cực lạc thường hưởng thọ sự vui thích, không lúc
nào gián đoạn.
16) Ðại thừa thâm lý công đức thành tựu
Kệ dạy:
“Ðại thừa thiện căn giới,
Ðẳng vô cơ hiềm danh,
Nữ nhơn cập căn khuyết,(3)
Nhị thừa chủng bất sanh”.
Nghĩa là: Quốc độ Cực lạc là cảnh giới của những kể có thiện căn Ðại thừa,
nhứt loạt bình đẳng; không có hàng nhị thừa, phụ nữ và những kẻ lục căn
khiếm khuyết, vì vậy ở đấy tuyệt đối không có cái gì đáng chê trách. Mà cũng
không có danh từ chê trách.
17) Hy cầu công đức thành tựu
Kệ dạy:
“Chúng snha sở nguyện lạc,
Nhứt thế năng mãn túc”.
Nghĩa là: Những nguyện vọng gì của chúng sanh, một khi sanh về đó thì đều được
thỏa mãn.
Trên đây là 29 món
công đức trang nghiêm thành tựu của Thế giới Cực lạc mà Luận Vãng sanh đã trình
bày. Hành giả trong khi tu hành phép trì danh niệm Phật, nên chiếu ý nghĩa từng
món một mà quán tưởng để huân tập thêm tịnh nghiệp và giúp cho phương pháp niệm
Phật mau thành tựu khiến cho kết quả vãng sanh càng thêm chắc chắn.
CHƯƠNG VII
CHUNG QUANH VẤN ÐỀ VÃNG SANH
(4)
TIẾT MỘT
KHÔNG SANH VỀ TỊNH ÐỘ TẤT
PHẢI ÐỌA ÁC ÐẠO
Trong mười phương, số thế giới tuy nhiều vô tận. Nhưng xét về
phương diện tịnh uế thì chỉ có thể chia làm hai lọa mà thôi: Một là Tịnh độ chư
Phật, hai là tam giới (uế độ) của chúng sanh; không sanh về bên nọ, tất là phải
sanh về bên kia. Sanh về Tịnh độ tức là thoát ly sanh tử, sanh trong tam giới
tức là còn sống chết luân hồi.
Người đời, nếu chỉ làm việc thiện thế gian hoặc chỉ tin phép ngũ giới, thập
thiện mà không niệm Phật, tức là chưa kết duyên với Phật, đã cùng với Phật vô
duyên thì chủng tử thanh tịnh vô lậu xuất thế gian sẵn có trong đệ bát thức
không có trợ duyên để phát sanh; nếu chủng tử thanh tịnh không phát sanh thì dù
cho có tu điều thiện nhiều đến đâu cũng chỉ được sanh về cõi trời là cùng, chứ
tuyệt đối không thể sanh về cõi Phật được. Ở cõi trời, phước báo tuy nhiều,
nhưng vẫn có hạn và sai khác nhau nên cuối cùng sẽ có ngày phước hết, báo cùng,
thọ mạng tất phải chấm dứt, để rồi tùy nghiệp mới mà thác sanh qua kiếp khắc,
quanh quẩn trong tam giới. sự thác sanh hoàn toàn tùy thuộc các nghiệp nhơn,
thiện hay ác, đã từng được gây thêm trong thời gian sanh ở cõi trời ấy. Nếu
nghiệp nhơn ấy là thượng phẩm thập thiện thì vẫn sẽ sanh trở lại ở cõi trời; nếu
trung phẩm thập thiện thì sanh về cõi người, nếu là hạ phẩm thập thiện thì sanh
về cõi A tu la; nếu là thượng phẩm thập ác thì đọa vào địa ngục; nếu là trung
phẩm thập ác thì đọa vào ngạ quỷ; nếu là hạ phẩm thập ác thì đọa vào súc sanh.
Chỉ vì các chủng tử thiện, ác trong sáu đường ấy đều là những chủng tử hữu lậu,
có công năng hỗ trợ cho nhau thuần thục, nên đều có tính chất luân hồi. vì thế
mà chúng sanh cứ mãi luẩn quẩn vô ra trong tam giới, lên xuống trong sáu đường
không bao giờ dừng nghĩ. Lại thêm, tư tưởng và hành động của hết thảy trong sáu
đường đều xuất phát bởi khởi điểm thân kiến ngã chấp, cho nên, dữ nhiều lành ít
và do đó, thiện nghiệp ít thua ác nghiệp. Kết quả là số chúng sanh, sanh vào ba
đường dữ nhiều hơn số chúng sanh sanh vào ba đường thiện, thời gian ở trong ba
đường dữ cũng lâu hơn. Vì lẽ ấy, Phật dạy: “Chúng sanh lấy ba đường dữ làm cố
hương”.
Bởi các lẽ trên, ta có thể kết luận một cách quả quyết rằng: Tất cả chúng sanh,
nếu không được sanh về cõi Phật, tất nhiên sẽ phải đọa vào ác đạo, không trước
thời sau. Nếu muốn sanh về cõi Phật, đương nhiên là phải niệm Phật. Ðó là một sự
thật đương nhiên không thể phủ nhận.
TIẾT HAI
TỊNH ÐỘ LÀ THUYỀN TƯ DUY NHẤT
CỦA ÐỜI MẠT PHÁP
Trong thời kỳ chánh pháp (thời kỳ đức Phật mới nhập diệt). Chúng sanh nhờ phước
đức dày mà nghiệp chướng nhẹ, cho nên, bất cứ tu theo pháp môn nào cũng đều được
thành tựu. Bước qua thời kỳ tượng pháp (thời kỳ cách Phật Niết bàn 1000 năm), vì
cách Phật hơi xa, nhơn tâm lầm lẫn đi xuống, tư lự lần lần phức tạp thêm, trong
mười người tu hành, tư lự lần lần phức tạp thêm, trong mười người tu hành may
được năm, ba người thành tựu. Ðén ngày nay, gặp buổi mạt pháp, nhơn tâm ngày
càng suy đốn thêm, tư lự càng nhiễu tạp hơn và phong tục thì đồi bại đến cự
điểm. Nhơn tâm như thế, người phát tâm chân chính tu hành đã là hãn hữu lắm rồi,
nói chi đến việc đắc đạo chứng quả nữa! Lại thêm pháp môn nào cũng đòi hỏi sự cố
gắng của tư lự quá nhiều nên kết quả thu lượm được lại càng hẹp nhỏ!
Muốn chống đỡ với những khó khăn chướng ngại của thời mạt pháp không còn có pháp
môn nào hơn pháp môn niệm Phật. Pháp môn này nó đơn giản dễ theo, ngoài ra nó
lại dồn được cả hai sức: tự, tha, để hổ trợ cho nhau nên dễ thành tựu. Trong
kinh Ðại Tập dạy: “Ðời mạt pháp, số ức triệu người tu hành, chưa có được một
người đắc đạo, duy chỉ có nương vào pháp môn niệm Phật mới được độ thoát sanh
tử. “Vì thế nên biết, sau khi các Tông phái khác suy tàn, duy có mỗi một Tông
Tịnh độ là còn tồn tại để nối dài pháp vận, cứu độ chúng sanh mà thôi; các Tông
khác như Thuyền tông, Giáo tông, Luật tông v.v... đều phụ thuộc làm trợ duyên
cho Tông Tịnh độ, chứ không có thể đơn độc tồn tại được.
Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ. Phật đã dạy: “Trong đời vị lai, khi kinh diệt hết
ta dùng lòng từ bi, đặc biệt lưu lại kinh này tồn tại trong một trăm năm: Chúng
sanh nào gặp được kinh này, đều có thể được độ thoát như ý sở nguyện.”
Nên nhớ rằng cuối đời mạt pháp, sau khi kinh đạo diệt hết, do lòng từ bi của Ðức
Phật, đặc biệt lưu lại một pháp môn mà thôi ấy là pháp môn Tịnh độ.nhờ sức đặc
biệt ấy, đạo pháp sẽ kéo dài thêm được một trăm năm nữa để độ hết những chúng
sanh còn chút nhơn duyên với Phật. Với một trí huệ sâu xa vi diệu như Ngài, vì
sao Ngài không lưu lại pháp môn khác mà chỉ riêng lưu pháp môn Tịnh độ? Là vì
Ngài biết rằng với chúng sanh cuối đời mạt pháp chri có một pháp môn ấy là có
thể thoát khỏi sanh tử được mà thôi. Xem đó đủ biết pháp môn Tịnh độ là pháp môn
thích ứng bậc nhất cho đời này và về sau. Ðó là con thuyền Từ duy nhất đưa chúng
sanh lên bờ giải thoát cho đời mạt pháp này vậy.
TIẾT BA
CHƯA ÐOẠN TRỪ HẾT HOẶC NGHIỆP
MÀ VẪN ÐƯỢC DỰ VÀO HÀNG THÁNH
Tất cả chúng sanh sở dĩ bị đọa vào đường sanh tử luân hồi là vì hoặc nghiệp
(nghiệp mê lầm) gây nên tử đời vô thỉ. Hoặc nghiệp cũng tức là vô minh gồm có
căn bản vô minh và chi mạt vô minh. Chính hai thứ vô minh ấy xua đuổi chúng sanh
vào trong ba cõi và quanh quẩn mãi trong 6 đường, khiến chịu không biết bao
nhiêu là khổ sở. Vì vô minh có công năng xô đẩy chúng sanh trôi nổi mãi, nên gọi
là lưu chuyển (cửu lưu chuyển).
Căn cứ vào lẽ thường tu hành thì phải đoạn hoặc (dứt mê lầm) mới chứng được chơn
lý. Nếu chỉ mới phá được một phần vô minh tức là chỉ mới chứng được một phần
pháp thân. Chứng được một phần pháp thân thì gọi là hoàn diệt môn (cửa đưa về
đạo Tịch diệt). Từ khi bắt đầu tu tập đoạn hoặc cho đến khi rốt ráo chứng được
chơn lý, trong giai đoạn trung gian ấy, hành giả cần phải có con mắt trạch pháp
tinh vi, có trình độ trí huệ minh xác, mới tránh khỏi lầm lẫn. Hơn nữa, phải
trải qua 3 a tăng kỳ kiếp (vô số kiếp) rồi sau mưói chứng được quả Vô thượng
chánh giác. Cho dù chỉ cần chứng quả A La Hán thôi, cũng cần phải vận hết tự lực
của mình để phá trừ hết 112 phẩm kiến hoặc (mê lầm về kiến thức) và 81 phẩm tư
hoặc (mê lầm về tư tưởng) ở trong 3 cõi này, rồi mới thành tựu được công phu tu
chứng. Xem đó thì biết những bước khó khăn mà hành giả phải trải quá lớn lao
biết dường nào!
Trái lại, với pháp môn Tịnh độ thì không cần kể sanh tiền hành động như thế nào,
miễn có chuyên tâm niệm Phật là nhất định được vãng sanh. Khi đã vãng sanh, tức
thời bước lên địa vị bất thoái. Như vậy là chưa đoạn hoặc nghiệp mà đã được dự
vào hàng Thánh. Sau khi vãng sanh rồi, nhờ hoàn cảnh thuận tiện, tự nhiên nghiệp
chướng tiêu trừ, trí huệ phát triển, công quả thành tựu viên mãn một cách dễ
dàng, khác nào như thả một bè gỗ từ trên dòng nước; bè gỗ tự nhiên trôi xuôi về
biển, không cần phải phí nhiều công sức. Ðược như vậy là nhờ tha lực hỗ trợ một
cách rất đắc lực vậy. Ðặc điểm ấy của pháp môn Tịnh độ, ai là bậc trí giả đều có
thể nhận rõ ràng và y cứ mà thực hành chính chắn, khỏi phải giới thiệu dông dài.
TIẾT BỐN
HỌC PHẬT, NIỆM PHẬT KHÔNG
PHẢI LÀ YẾM THẾ, TIÊU CỰC
Có lắm người muốn học Phật, niệm Phật mà trong lòng lại ngại dư luận gán cho là
tiêu cực, yếm thế hoặc mê tín dị đoan. Họ lầm nghĩ rằng việc tu niệm là việc
dành riêng cho những ông già bà lão gần đất xa trời; còn đối với những người như
họ là phải có những việc khác tích cực hơn, trí thức hơn. Vì vậy, mặc dầu trong
lòng họ vẫn thầm mong muốn, nhưng khi ra giữa công chúng, họ không dám công khai
lễ Phật niệm Phật. Thật là một điều sai lầm tai hại!
Ðạo Phật là một tôn giáo, nhưng đó cũng chính là một tiết học rất cao thâm vi
diệu. Ðã là học giả thì cần phải nghiên cứu một triết học này, và khi đã nghiên
cứu rồi, lại còn cần phải đem ra thực hành. Vì Phật học là một môn học gồm đủ cả
lý lẫn sự, phần lý cốt để hướng dẫn cho phần sự và phần sự cốt để làm sáng tỏ
thêm phần lý, lý và sự vốn dung thông nhau, nên nếu thực hành được sự thì có thể
đạt được cảnh giới tối cao thâm và càng viên mãn hóa phần lý vi diệu. Phật học
khác với các môn triết lý thế gian, lại cũng chính là chỗ đó mà Phật học khác
với các tôn giáo khác Lý nào có sự nấy và sự nào có lý nấy, lý thì đều có thể
thực hành được, sự thì đều có thể lý giải được. Vì vậy, tùy từng sở cầu, ai
muốn nghiên cứu riêng về phần lý giải cũng được, mà ai muốn y lý thực hành để
cho sáng tỏ hơn thì lại càng tốt. Sở nguyện nào cũng đều thỏa mãn được cả. Nói
một cách đơn giản hơn là từ những sự lý thiển cận áp dụng hằng ngày đến những
cảnh giới thâm diệu siêu tuyệt, không một điều gì mà Phật học không giải quyết
một cách viên mãn.
Chúng ta nên hiểu rằng, pháp môn niệm Phật không riêng gì ông già, bà cả tu theo
mà ngay đến các Ðại Bồ tát, như Ngài Ðại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh,
Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân v.v... và các nhà đại văn hào cư sĩ như Bạch Cư Dị,
Văn Ngạn Bác, Vương Nhật Hưu v.v... cũng đã từng áp dụng có hiệu quả. Như thế,
pháp môn nplà một pháp môn rất phổ thông.
Hằng ngày hành trì như trên là cốt mượn cảnh giới Thanh tịnh, vận dụng tâm niệm
thanh tịnh để gột tẩy hoặc nghiệp ô nhiễm chất chứa từ vô thỉ kiếp đến nay trong
tâm và đang hiện ra ngoài thân, đồng thời cũng để vun xới cho hột giống thanh
tịnh xuất thế mỗi ngày một tăng trưởng. Vì thế tôi dám khuyên các bậc thiện tri
thức Phật tử trong khi làm Phật sự, không những không nên sợ dư luận mà đồng
thời lại còn phải tinh tấn khuyến khích mọi người làm theo. Phật dạy: “Nhơn thân
nan đắc, Phật pháp nan văn,”(5)
Nay đã được làm thân người mà lại được gặp Phật pháp, nếu chẳng cố công học hỏi
thì nào có khác gì người nghèo được đến non vàng mà lại đành cam phận khó và
chịu bỏ về không, há chẳng uổng lắm ru!
TIẾT NĂM
TÁN TÂM NIỆM PHẬT VẪN CÓ CÔNG
HIỆU
Miệng niệm Phật, tâm chuyên nhất tưởng nghĩ đến Phật gọi là định tâm niệm Phật.
Miệng niệm Phật, tâm không tưởng nghĩ đến Phật mà lại suy nghĩ vẩn vơ gọi là tán
tâm niệm Phật. Tán tâm niệm Phật so với định tâm niệm Phật, công hiệu hai bên
vốn cách nhau rất xa. Vì thế, xưa nay các bậc đại đức đều khuyên hành giả định
tâm niệm Phật, chứ không bao giờ khuyên tán tâm niệm Phật. Nhưng sự thật thì
nhứt cử nhứt động gì bên ngoài đều ảnh hưởng đến nội tâm nên dù là tán tâm niệm
Phật, sự niệm Phật ấy không phải hoàn toàn vô công hiệu. Vả lại, trong khi miệng
ta niệm lục tư Di Ðà, đó há không pảhi là phát xuất tự trong tâm ta mà ra hay
sao?
Cho nên, trong khi miệng ta niệm, bắt đầu là sáu chữ ấy phả bắt nguồn từ ý muốn
do trong ta phát ra, thứ lại khi sáu chữ đã phát thành tiếng, âm thanh phát ra
nhứt định phải trở lui huân tập tâm ta; Như thế không thể nói rằng nó hoàn toàn
không có hiệu lực, chẳng qua công hiệu của nó so vơi công hiệu của định tâm niệm
Phật có kém thua mà thôi. Chỉ vì công hiệu kém thua nên Cổ Ðức không đề xướng,
kỳ thực sức hàm ẩn và công hiệu của nó không thể tuyệt đối vô công.
Người xưa có bài kệ rằng:
“Di
Ðà nhất cú pháp trung vương.
Tạp
niệm phân vân giả bất thường
Vạn
lý phù vân già xích nhật
Nhơn
gian xử xứ hữu dư quang.”
Tạm dịch là
“Di Ðà sáu chữ lớn lao thay,
Tạp niệm lăng nhăng chẳng ngại bày.
Muôn dặm mây mờ che mặt nhựt,
Nhơn gian ánh sáng vẫn còn đây”.
Bài kệ nói rất xác đáng. Tịnh chủng (chủng tử thanh tịnh) ở
trong đệ bát thức, một khi đã thuần thục, tức nhiên trở ra huân tập đệ lục ý
thức phát sinh tịnh niệm; rồi đệ lục ý thức lại dẫn dắt năm thức trước (từ nhãn
thức đến thân thức) sanh khởi hiện hạnh. Nhưng khi đi ngang qua ý thức, có lúc
bị trần cầu ô nhiễm quá dày, sóng lòng bị kích mạnh quá mạnh đến nỗi lấn át cả
tịnh niệm. Ý thức tuy tán loạn nhưng tịnh niệm vẫn liên tục phát khởi và vẫn
xuyên qua được, khác nào ánh sáng mặt trời xuyên qua đám mây dày đặc. Tuy mây
che phủ cùng khắp, nhưng ở giữa nhơn gian vẫn còn có chỗ lập lòe ánh sáng, chứ
không tối hẳn như ban đêm. Mây mù chưa tan, song ánh sáng lập lòe kia của mặt
trời vẫn có công dụng.
Riêng kinh nghiệm bản thân, bình nhựt lắm lúc tôi cũng phải gặp tán niệm quấy
rồi. Gặp phải trường hợp như thế, tôi vẫn cứ niệm, không cần kể tính chất phức
tạp ấy như thế nào, miễn giữ cho niệm niệm đừng xen hở; niệm một lúc lâu rồi tự
nhiên lần tỉnh định trở lại, không cần phải dụng tâm điều nhiếp, lâu ngày định
niệm trở nên thuần thục. Vì thế, cận lai, bất cứ ngày đêm, lúc nào tôi cũng niệm
Phật, không cần nghĩ đến tán tâm hay định tâm.
Người xưa, trong 4 oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi không lúc nào là không niệm.
Nếu bảo rằng phải định tâm mới nên niệm Phật thì trong lúc đi đường vấp ngã hoặc
khi mặc áo, viết chữ v.v... làm sao thành tựu sự niệm Phật? Vì thế cho nên, biết
rằng tán tâm niệm Phật cũng vẫn có lợi.
Chủ trương trên đây, không có nghĩa rằng tôi nhất thiết cổ xúy cho sự tán tâm
niệm Phật. Cố nhiên có định tâm niệm Phật được thì rất quý, nhưng rủi có bị tán
tâm cũng đừng lo ngại. Lýdo thứ nhứt là: Dù định tâm hay tán tâm, đã có n iệm
Phật tức nhiên có chủng tử sanh hiện hạnh và ngược lại hiện hạnh ấy sẽ huân tập
trở lại đệ bát thức tạo thành chủng tử; đằng nào cũng vẫn có sanh khởi và huận
tập cả, chẳng qua sức huân tập của định tâm mà thôi. Lý do thứ hai là: Dù bị tán
tâm, cũng cứ nên niệm và phải niệm cho chuyên thì tự nhiên tán tâm sẽ được
chuyển thành định tâm, chứ không phải tự thỉ chí chung luôn luôn tán tâm. Vì hai
lý do ấy nên ở đây vẫn tùy hỷ sự tán tâm niệm Phật vậy.
TIẾT SÁU
CHỮ (6)
(tiếng phạn) ÐỌC LÀ “A” NẾU TỒN TẠI,
CÁC CHỮ (tiếng phạn)
(A) KHÁC TỒN TẠI
Trong khi niệm Lục tự Di Ðà: “Nam Mô A Di Ðà Phật”, nếu hành giả sợ tâm niệm
mình rong duỗi lăng nhăng thời có thể thực hành theo phương pháp “Thập niệm” như
đã nói ở chương IV, tiết 2 để đối trị lại. Mỗi khi miệng niệm xong 10 hiệu Phật
thì tay lần một hột; như vậy, một đằng vừa phải nhớ số, tâm lực tập trung hết
vào đó, tự nhiên không thể nào sanh khởi.
Nếu phương pháp thập niệm ấy lại cũng không theo được thì trong mỗi câu niệm chỉ
nên tưởng nhớ một chữ (tiếng phạn) a cho rõ ràng, chớ để xao lãng. Miệng
niệm, tâm tưởng nhớ, thì các chữ kế tiếp cũng nhớ được. Ðiều cốt yếu là hành giả
phải làm thế nào khiến tâm tư được tập trung duy nhất rồi thì dễ đi đến cảnh
“Nhất tâm bất loạn”, chứng được niệm Phật tam muội và chắc đạt kết quả vãng sanh
về sau.
CHƯƠNG VII
TIẾT BẢY
NĂM THÁNG KHÔNG ÐỢI CHỜ ÐỪNG
NÊN HẸN LẠI NGÀY MAI
Trên con đường tu hành, việc niệm Phật là một việc vừa cân thiết, vừa cấp bách.
Hễ gặp dịp tu được là tu liền, gặp dịp niệm được là niệm ngay, chớ nên chần chờ
để cho thời gian luống trôi qua một cách vô ích.
Phật dạy mạng người ở trong một hơi thở, thở ra mà không thở
vào nữa là đời tàn! Bất luận lúc nào, giờ phút nào, con người cũng có thể chết
được, không một ai có đủ tài năng bảo đảm đời sống vững chắc lâu dài. Thế gian
lại có câu ca rằng: “Ðời người khác thể bóng câu, sớm còn tối mất biết đâu mà
lường”.
Sự htật đơn giản và phũ phàng ấy, từ Thánh nhân cho đến thế tục, không ai là
không xác nhận. Sinh hữu hạn, tử vô kỳ. Cho nên, muốn kịp thời đối phó với cái
chết bất thần, ta không nên để lỡ một thời gian nào trôi qua mà không tu niệm.
Bất cứ lúc nào tu được, niệm được thì phải gấp rút và tinh tấn hành trì; có thế
phút lâm chung mới tránh khỏi cảnh hoang mang tay quàng chân rồi, lúng túng
chẳng biết về đâu!
Có một số thường nghĩ sai lầm rằng tay chân còn tráng kiện, đời sống còn
dài,việc tu niệm xin để gác lại, đợi khi nào già yếu sẽ bắt đâu hạ thủ công phu
cũng không muộn gì. Trong sự tu niệm bằng cách sắp đặt tính toán như trên thường
hay đưa đến hỏng việc.
Ngày xưa, có người đến nhà bạn là Trương Tổ Lưu khuyên niệm Phật. Trương nghe
theo, nhưng xin khất lại một ngày khác vì có ba việc chưa làm xong: một là cha
mẹ đang còn phải phụng dưỡng, hai là con cái chưa dựng gả xong, ba là việc nhà
chưa thu xếp gọn. Trương hẹn khi nào làm xong 3 việc ấy, sẽ hạ thủ công phút,
nhất tâm niệm Phật. Sau khi cáo từ ra về được vài ba tháng, người kia trở lui
thăm với chủ ý khiến ông bạn đừng nên chần chờ nữa, nhưng than ôi! Khi đến nơi
mới biết người bạn là người thiên cổ! Bèn ngậm ngùi than thở và làm một bài thơ
nói rằng:
“Ngô
hữu danh vi Trương Tổ Lưu
Khuyến y niệm Phật thuyết tam đầu,
Khước hận Diêm công na phân hiểu
Tam
đầu vị liễu tiện lai câu.”
Tạm dịch là:
“Ông bạn tôi tên Trương Tổ Lưu
Tôi đều khuyên niệm Phật hẹn ba điều.
Diêm vương ác hại không thèm hiểu,
Ba việc chưa xong vội bặt liều”.
Người đời dù quyền cao chức trọng đến đâu, vẫn không thể đảm
bảo cho tương lai đời mình một cách chắc chắn được. Trường hợp như Trương Tổ Lưu
trên đây không phải là hiếm, vì thế nếu đã có chí tu hành thì tâm phải cho quyết
và phải biết lợi dụng thời gian mới khỏi để ân hận về sau. Vậy, lúc nào tu được
là nên tu liền, phút nào niệm được là phải niệm ngay.
CHƯƠNG VII
TIẾT TÁM
TÁC DỤNG CỦA PHÁP MÔN NIỆM
PHẬT GỒM THÂU HẾT TÁC DỤNG CÁC TÔNG THUYỀN, LUẬT, GIÁO VÀ MẬT
a) So với Thuyền: Phép niệm Phật, chưa đạt được Nhứt Tâm bất loạn, so với
phép tu Thuyền định hai bên khác nhau rất xa. Buổi sơ phát tâm, với phép tu
Thuyền định, hành giả không được có tâm ưa, chán, thủ, xả; với phép tu niệm
Phật, hành giả lại phải ưa thủ cảnh cực lạc và mong xả cảnh Ta bà. Với phép tu
thiền định, tâm không được trú trước vào cảnh giới, nếu còn trú trước tức là sai
lạc; với phép tu niệm Phật, tâm lấy cảnh giới làm đối tượng, tâm năng duyên và
cảnh sở duyên phải rõ ràng. Với phép tu thuyền định tâm phải xa lìa pháp chấp;
với phép tu niệm Phật, hành giả cần phải lợi dụng pháp chấp. Với phép tu thiền
định, hanh giả phải thể nhận được tánh pháp thân ngay trong thế gian này; với
phép tu niệm Phật, hành giả khởi tưởng sẽ chết ở thế gian này và sẽ sanh về thế
giới bên kia. Vì các lý do trên. Thuyền tông và niệm Phật có chỗ bất đồng.
Nhưng khi niệm Phật đã đến chỗ nhất tâm bất loạn, nghĩa là đã đắc định rồi, thì
lại là việc khác. Ðạt được cảnh giới Tam muội, tức thời hư không tan rã, đại địa
lấp bằng, hiện tiền còn một niệm dung hợp được vói pháp thahn chư Phật trong
mười phương như trăm ngàn ngọn đèn cùng dung hợp ánh sáng và cùng chiếu chung
trong một căn nhà, không tan mất, không lẫn lộn. Lúc ấy, ý thức phân biệt ly
khai. Cảnh giới này so với cảnh giới chơn như Tam muội của Thuyền tông không hai
không khác. Xem thế thì đủ biết rằng Tịnh độ tức là Thuyền Tông, kết quả của hai
bên nào có khác gì nhau?
b) So với Luật: Tác dụng của Giới Luật là giữ gìn ba nghiệp thân, khẩu, ý
được trong sạch. Mục đích là làm điều lành, tránh điều dữ. Khi tu theo pháp môn
Tịnh độ, thân lễ Phật, miệng niệm Phật, ý tưởng nghĩ đến Phật, cả ba nghiệp đều
tập trung, hết thảy sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều thâu nhiếp. Nếu nói
làm lành thì chẳng có lành nào hơn. Nếu nói bỏ ác thì thử hỏi khi ba nghiệp đã
tập trung hết vào Phật, đâu còn có chỗ nào hở nữa để làm ác? Như thế. Vì sao
không nói được rằng tu Tịnh độ tức là tu Giới luật.
c) So với Giáo: Còn nói đến Giáo nghĩa thì tuy câu “Nam Mô A Di Ðà Phật”
chỉ có sáu chữ mà thôi, nhưng nếu bàn đến tác dụng thì 3 tạng 12 Bộ giáo lý của
Ðức Phật thuyết pháp trong 45 năm đều hàm chứa trong đó cả.
Vả lại, mục đích nghiên cứu giáo lý là cốt để hiểu rõ lý nghĩa là phát lòng
chánh tín, thiết thực tu trì để thật chứng quả Phật. Mục đích của pháp môn niệm
Phật là cắt đứt vọng tâm, duy trì chánh niệm, vãng sanh Cực lạc, lên bậc bất
thoái rồi cuối cùng cũng chứng quả Vô thượng Bồ đề. Vì thế nên hành giả phát tâm
thành thật tu niệm thì không cần phải nhọc công nghiên cứu giáo lý mà tựu trung
tất cả giáo lý đều đã đầy đủ. Như vậy, vì sao không nói được rằng tu Tịnh độ tức
là tu theo giáo nghĩa?
d) So với Mật: Phép tu của Mật tông chú trọng về “Tam mật gia trì”. Tam
mật gia trì là giữ gìn thân mật (thân bắt ấn). Khẩu mật (miệng đọc chú) và ý mật
(ý quán tượng tự mẫu). Nếu tinh tấn hành trì ba phép mật ấy thì “tức thân thành
Phật” và chứng được 6 món vô úy. Ðó là đặc điểm của Mật Tông. Nhưng với pháp môn
Tịnh độ thì khi ba nghiệp đã tập trung, kết quả thật tế so với tam mật gia trì
của Mật Tông không khác nhau mấy. Vả lại, tác dụng của các pháp môn niệm Phật có
công năng khiến tâm ta và tâm Phật dung hợp làm một, liền chứng được niệm Phật
Tam muội. Trong lúc Tam muội hiện tiền. Phật và ta không hai không khác, không
thể phân biệt rằng đó là ta hay hay là Phật. Vì vậy, trong lúc đương niệm “Nam
Mô A Di Ðà Phật”, tự thân ta chính là A Di Ðà rồi vậy. Như thế cũng có thể nói
là “tức thân thành Phật”. Dù cho chưa đạt được niệm Phật, được sự cảm ứng đạo
giao và được hào quang Phật nhiếp thọ, thì bản thân hành giả có oai lực thần
thông của Phật gia bị, có cái gì đáng sợ hãi nữa đâu? Như vậy, vì sao lại không
nói được rằng Tịnh độ tức là Mật Tông?
Tóm lại, căn cứ vào các ý nghĩa như trên, ta có thể thấy lý do vì sao xưa nay
các bậc cao tăng, đại đức, các hàng cư sĩ đại nhơn khi tu học Phật pháp đều đề
xướng pháp môn trách nhiệm. Phạm Cổ Nông tiên sinh cũng nói: “Học thì nên theo
Duy thức, hành thì nên quy về Tịnh độ.” Vì vậy cho nên, hễ cứ hành giả càng thâm
nhập kinh tạng chừng nào thì lại càng tán dương pháp môn Tịnh độ chừng ấy. Chỉ
có những ai còn đứng ngoài cửa nhìn vào mới xem thường Tịnh độ. Phải có con mắt
tinh vi mới phân biệt được ngọc và đá; biết được ngọc Biện Hòa dễ có mấy ai?
CHƯƠNG VII
TIẾT CHÍN
CHƠN NGHĨA CỦA PHÁP MÔN TỊNH
ÐỘ CHỈ CÓ PHẬT MỚI BIẾT HẾT
Ba bộ kinh Phật dạy về pháp môn Tịnh độ không hề trình bày một luận lý nào thâm
diệu. Trái lại, từ lời văn cho đến ý nghĩa, hết thảy rất bình dị đơn giản; do đó
một số người lầm tưỏng rằng phương pháp niệm Phật không có học lý. Họ cho rằng
đó chỉ là một phương pháp để an ủi các ông già bà lão mà thôi, chứ không là một
phương pháp dành cho các bậc thức giả triết sĩ tu tập: họ nghĩ rằng nếu những
người như họ mà cũng làm theo thì nào có khác gì ông bà lão hay kẻ ngu phu! Họ
sẽ làm trò cười cho thiên hạ, nhưng không, chính họ đã lầm to!
Trong các kinh nói về Tịnh độ, sở dĩ Phật không dùng lý để lập luận một cách
chặt chẽ mà chỉ chuyên khuyên phát tín tâm và thực hành, không phải vì pháp môn
Tịnh độ không có lý nghĩa vững chãi chẳng qua vì nghĩa lý ấy quá thâm diệu và
“bất khả tư nghì” nên không thể nào nói hết. Cảnh giới Tịnh độ đã “bất khả tư
nghì”, lại thêm ngôn ngữ chỉ hữu hạn, không thể nào nói đầy đủ được; dù cho có
nói nhiều đến đâu, cũng chỉ diễn tả được một khía cạnh nào đó thôi, không sao
tránh được thiếu sót, không sót bên nọ cũng sót bên kia, hoặc nói được một thì
sót đến mười. Ðó là lý do khiến Phật không lý luận mà chỉ chuyên khuyên tu trì,
thực hành phép niệm Phật. Nếu hành giả quyết tâm tu trì một cách chơn chánh và
thiết thực thì tất cả nền giáo lý Phật Ðà đều đã hàm chứa trong đó rồi. Tu theo
pháp môn Tịnh độ ví tắm nước biển, trong nước biển vốn đã có nước trăm sông ngàn
rạch quy tụ về.
Còn nói đến lý nghĩa và cảnh giới của pháp môn ấy thì duy chỉ có Phật mới liễu
ngộ được hết cái tinh vi uẩn áo, cao thâm diệu vợi của nó mà thôi, dù cho với
trí tuệ của các bậc Ðại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền; Quán Âm, Thế Chí v.v...
cũng chưa hiểu biết đến chỗ cùng tận.
Chúng ta thử nghĩ, nếu phương pháp trì danh niệm Phật không phải thật có nghĩa
cao siêu và công đức bất khả tư nghì thì tại sao trong kinh “Phật thuyết A Di
Ðà”, Phật dạy rằng khi Phật nói kinh đó thì hết thảy Chư Phật trong sáu phương
đều tán thán và hộ niệm? Như vậy, thì biết rằng pháp môn ấy đặc biệt và nhiệm
mầu như thế nào?
Vả lại, trong kinh có nói: “Không thể nhờ một ít nhơn duyên phước đức thiện
căn mà có thể vãng sanh được.” Tiếp đó Ngài lại dạy: “Bảy ngày chấp trì
danh hiệu, đạt được nhất tâm bất loạn thì liền được vãng sanh”. Như thế thì
thiện căn phước đức nhân duyên của sự chấp trì danh hiệu quả không phải nhỏ vậy.
CHƯƠNG VII
TIẾT MƯỜI
KHÔNG NÊN NGỘ NHẬN LÝ LUẬN:
TỰ TÁNH DI ÐÀ, DUY TÂM TỊNH ÐỘ
Có người vì quá thiên trọng lý thuyết, nên sinh ra khinh lờn thực hành. Lý do họ
thường viện ra câu: Tự tánh Di Ðà, duy tâm Tịnh độ”, rồi liền lầm cho rằng Tịnh
độ chỉ ở trong tâm, làm gì có cõi Tây phương mà hằng mong về! Thế là, họ phủ
nhận tất cả 48 đại nguyện của đức A Di Ðà và thế giới Cực lạc trang nghiêm.
Có sự chấp nê tai hại ấy, nguyên do chỉ vì họ lầm lẫn hai hiện tượng chơn đế và
tục đế mà họ vô tình đem trộn lại làm một. Vì lấy thể làm dụng nên thể dụng hổn
loạn, chơn tục bất phân. Ðã là người học Phật, ít nhất cũng từng học qua bài Bát
nhã Tâm kinh. Trong Tâm kinh có dạy: Vô trí diệt vô đắc, dĩ vô sở đắc cố” (không
có trí mà cũng không có sở đắc). Nhưng liền đoạn ấy, Tâm kinh lại dạy: “Ðắc a
nậu đa la tam miệu tam bồ đề” (... được quả vô thượng bồ đề). Qua hai đoạn kinh
ấy ta nhận thấy rằng: Nếu y vào chơn đế thì không có chỗ sở đắc (chỗ đạt được).
Nhưng nếu y vào tục đế thì phải nói rằng có chỗ sở đắc. Nếu lầm lẫn chơn đế và
tục đế, tức là tự mâu thuẩn rồi vậy.
Các câu như trên, không riêng gì Tâm kinh mới có, trong các kinh thường cũng nói
đến. Ðó là y cứ vào hai phương diện chơn và tục bất đồng mà khai thị cho rõ khía
cạnh, xin các học giả đừng ngộ nhận khiến sai lạc hết ý nghĩa uẩn áo của kinh
văn. Còn như Ngài Lục Tổ, khi Ngài phủ nhận cảnh giới Tây phương, chính là lúc
Ngài đương y và chơn lý thường trú để thuyết minh chơn tâm, chứ không phải y vào
tục đế để nói về các cảnh giới (7).
Vì duy chơn thì hết thảy đều không, nhưng duy tục thì vạn hữu đều có.
Chúng ta không nên tuyệt đối nhận lầm rồi chấp trước ý Tổ, khiến sinh tâm mạt
sát Tịnh độ. Có hiểu được như vậy thì mới thật là biết cách đọc sách cổ nhân một
cách thiện xảo và thâm hiểu ý cổ nhân một cách tinh vi.
Vì lý do trên, một lần nữa, ta phải cân nhắc lại thật kỹ để định lại một cách
chuẩn xác giá trị và phạm vi câu danh ngôn “Tự tánh Di Ðà, Duy Tâm Tịnh độ”. Nếu
đứng về phương diện Chơn đế mà nói thì không một pháp gì tồn tại (nhất pháp bất
lập), ngay đến Phật cũng không còn trú trước, huống nữa là Cực lạc và niệm Phật
cầu vãng sanh! Vì thế mà nói ngoài bản tánh không có Di Ðà (tự tánh Di Ðà) và
ngoài tâm không có Tịnh độ (duy tâm Tịnh độ). Cảnh giới ấy là cảnh giới tuyệt
đối của đệ nhất nghĩa không. Cho nên, đem “dụng” quy về “thể” thì không một pháp
nào được gọi là pháp sở đắc cả.
Ngược lại, khi chưa đạt được đệ nhất nghĩa không thì phải trụ trên “dụng” mà nói
và phải nương theo từng bậc tu chứng để làm bàn đạp và tiến lên, do đó mỗi tầng
bậc đều có những pháp sở đắc riêng biệt. Ðối với công phu nội chứng của hành giả
chưa đạt đến trình độ tuyệt đối thì không thể bảo rằng tâm cảnh đều không, thọ
tưởng đều tịch. Tâm cảnh chưa thông, thọ tưởng chưa tịch thì hiển nhiên là năng
và sở còn tồn tại, y báo và chánh báo đều phân minh: một sắc, một hương, một
cành hoa, một cành lá của cảnh giới Cực lạc trang nghiêm, thảy đều là đối tượng
của ta và ta cần phải mong cầu đạt đến chứ không thể bỏ qua. Nếu không tự lượng
sức, chỉ nhắm mắt học thuộc luận điệu của kẻ khác, có thể rất xác thực với kẻ
ấy, nhưng chỉ là lý suông đối với mình thì có khác nào kẻ điên rồ chưa qua khỏi
sông đã toan bỏ thuyền bè!
Ta hãy xem lại 3 bộ kinh thuyết minh Tịnh độ khi nói đến tướng tốt của Phật thì
không mảy lông n ào, một chân tóc nào, một hào quang nào, một sắc đẹp nào mà
không diễn tả ra một cách tuyệt trần vi diệu; khi nói đến cảnh giới trang nghiêm
của Tịnh độ thì nào là hoa thơm, quả báu, hồ ngọc, cây vàng v.v... không một
cảnh nào là cảnh hy hữu của thế gian? Tướng ấy, cảnh ấy toàn là sự thật mà Phật
đã thân chứng, chứ đâu phải vẽ vời đặt ra cho thêm hoa mỹ. Ta không nên có tà
kiến cho các cảnh ấy la không có mà bị đạo vào không vọng ngoại đạo rất là nguy
hiểm.
CHƯƠNG VII
TIẾT MƯỜI MỘT
LÝ VÀ SỰ CẦN PHẢI TƯƠNG XỨNG(8)
Trên bước đường tu tập, Lý và Sự phải hô ứng nhau cùng phối hợp để hỗ tương giúp
đỡ nhau mới mong đi đến thành tựu. Có Lý, Sự mới có chỗ y cứ dùng làm cương lãnh
và mục tiêu để khởi tác dụng. Ngược lại, có Sự, Lý mới chánh xác và có hiệu qủa.
Lý soi đường cho Sự, Sự thực hệin mục tiêu của Lý. Phàm làm việc gì mà có
Lý có Sự, việc mới thành tựu, ví như đã biết lộ trình mà còn chịu cất bước ra
đi. Nếu có Lý mà không có Sự thì nào có khác gì kẻ biết đường nhưng không chịu
đi; cũng như có Sự mà không có Lý thì không khác kẻ muốn đi mà không biết đường.
Người đã biết đường và chịu đi theo con đường ấy, Lý Sự tương xứng nhau, nhất
định phải thành công. Còn như hai hạng trên kia thật là khó có hy vọng thành
tựu, nhất là hạng không chịu đi. Hạng chịu đi, mặc dù không biết đường nhưng còn
biết trình độ mình thấp kém, trí không kiêu căng, lòng không tự mãn, trên lộ
trình chưa từng biết đích xác, hạng này với một ý chí cương quyết, cứ lần theo
con đường mòn của người trước đã đi qua và đã vạch sẵn, một mạch thẳng tiến
không chần chờ không do dự; như vậy cuối cùng rồi cũng sẽ đạt đến đích. Kinh,
Luận và sách trước tác của các bậc cổ đức thuật lại các sự tích xưa đều là những
mũi tên chỉ đường, người sau nên chiếu theo đó mà thực hành, quyết sẽ được thành
công như người xưa không khác.
Vì các lẽ ấy, cho nên, mặc dù thiếu Lý soi đường, những người chịu thực hành
cũng chưa lấy gì làm lo. Có lo chăng là với hạng người chỉ ngồi nói suông mà
không chịu thực hành thì dù có nói đến suốt đời cũng không tiến bộ được nửa
bước. Phê phán một cách xác thực hơn nữa thì người không có Sự, quyết nhiên cũng
không thể có Lý. Ví như biết nhà gần sập mà không biết tự liệu để tránh, cứ ngồi
nói suông cho khoái khẩu đến nỗi bị nhà đè chết, sao còn gọi là được biết? Vì
vậy Phật pháp có công năng độ kẻ ngu phu thất phụ một cách dễ dàng, chứ khó độ
người thế trí biện thông hoặc người không chịu thiết thiệt tu hành.
Người xưa, khi Phật còn tại thế, có ngài Châu Lợi Bàn Ðà Già là người rất độn
căn. Khi xuất gia làm đệ tử Phật, chỉ được Phật dạy cho hai chữ Thiều và Chửu,
thế mà học mãi không thuộc, Hễ nhớ được chữ sau lại quên chữ trước, học chữ
trước lại quên chữ sau. Tuy thế, ngài vẫn không nãn chí, hết lòng cố gắng, không
hề sao lãng, cuối cùng vọng niệm tiêu trừ, hoặc nghiệp đoạn giải, ngài chứng
được quả A La Hán.
Ðồng thời với Ngài Châu Lợi Bàn Ðà Già có Ngài Ðề Bà Ðạt Ða, một đệ tử rất thông
minh và có biện tài vô ngại. Ðề Bà học đủ hết các môn thần thông, đọc làu cả sáu
vạn pháp tụng, nhưng vì bản tánh kiêu căng, không chịu tu tập nên cuối cùng bị
đọa địa ngục. Xem đó đủ biết, dù bác thông giáo lý biện luận như nước chảy,
nhưng nếu không thiết thực tu trì hoặc nghiệp từ vô thỉ vẫn còn nằm yên bất
động, không giảm được một hào ly; thử hỏi sự hiểu biết ấy có bổ ích gì không?
Công hiệu lợi ích thiết thực so với một bà già nấu bếp, mặt lem mày luốc, nữa
chữ không tường, chưa chắc ai đã hơn ai, nhất là khi bà già này tinh tấn niệm
Phật, luôn luôn một lòng tin tưởng, lúc lâm chung nhất định sẽ được vãng sanh.
Hành giả nếu suốt đời vùi sâu vào các danh lý luận để cầu hiểu biết, những mong
làm nhà bác sĩ trong Phật giáo, nhưng không chịu hạ thủ tu hành thì luôn luôn
nhớ hai ví dụ Phật đã từng dùng để răn bảo đệ tử; ví dụ món ăn và ví dụ đếm
tiền. Người học mà không tu chẳng khác gì nói món ăn ngon mà tự mình không ăn,
hoặc đém của cho người mà tự mình không có một xu nhỏ; chung quy bụng đói vẫn
đói, túi rỗng vẫn rỗng.
Tóm lại, người học Phật mà thông Lý và y Lý hành Sự một cách đúng đắn thì nhất
định phước và trí huệ đều đầy đủ; phần lý giải và phần thực hành đã tương xứng
thì nhơn viên quả mãn; quả vị Phật chắc chắn mười phần đảm bảo. Thản hoặc, nếu
Lý không thể hiểu Sự, đích thành công mới có phần khả vọng. Ai là người học Phật
chân chính nên lưu ý điểm này.
CHƯƠNG VII
TIẾT MƯỜI HAI
TỊNH ÐỘ LÀ PHÁP MÔN THÍCH HỢP
CỦA HÀNG PHẬT TỬ TẠI GIA
Nếu muốn tu bất cứ một pháp môn nào cũng tương đối dễ dàng chỉ cần chịu khó gia
công thành tựu. Trái lại hàng tại gia bị gia đình ràng buộc, mưu sinh khó khăn,
công việc xã hội phức tạp, thực khó mà thực hành cho được các pháp môn thuyền
định quán tưởng và đồng thời nghiên cứu cho thấu đáo nền giáo lý thâm diệu của
Phật đà.
May thay, Ðức Phật đã vận dụng trí tuệ vô biên và từ bi vô lượng, đề ra pháp môn
Tịnh độ rất giản tiện và có hiệu lực rất lớn, giúp được tín đồ không phí thì
giờ, khỏi bỏ công việc, mà vẫn có thể thành tựu được đạo quả một cách chắc chắn.
Hễ ai có tu là có chứng, không luận tại gia hay xuất gia không bỏ sót một ai.
Hàng Phật tử tại gia, ngoài pháp môn niệm Phật này ra, tưởng cũng khó có hy vọng
thành công đối với các pháp môn khác. Càng khó thành công thì lại càng dễ hay
sinh chán nản, lắm lúc còn làm cho thoái thất ròi mắt hẳn tín tâm. Tai hại biết
bao! Vì các lẽ ấy nên nói rằng pháp môn niệm Phật là pháp môn thích hợp cho hàng
Phật tử tại gia.
Rất mong các đạo hữu tại gia nhận thức tròn đầy tất cả công hiệu viên dung của
pháp môn này để cùng nhau niệm Phật và một ngày kia cùng nhau trên ao sen bảy
báu của Ðức Phật A Di Ðà
Nam mô Liên trì Hải hộ Phật Bồ tát
(Phỏng theo
Tịnh pháp Khái thuộc
--- o0o ---
Mục Lục Toàn Tập
Tập 1
|
1
|
2-0
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
Tập 2
|
7
|
8
|
9-1
|
9-2
|
9-3
|
9-4
|
9-5
|
9-6
|
9-7
|
9-8
|
10
Tập 3 |
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
|
20
--- o0o ---
Source:
www.phatviet.net
Vi tính: Nguyên Trang, Nhị Tường - Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-06-2004