NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2001
TOÀN TẬP
TÂM NHƯ TRÍ THỦ
--- o0o ---
TẬP 2
LUẬT TỲ
KHEO
YẾT MA YẾU CHỈ
Hòa thượng THÍCH TRÍ THỦ Soạn
LỜI GIỚI
THIỆU
Trước
khi nhập Niết bàn, đức Phật đã huấn thị tối hậu: "Giới luật là thọ mạng của Phật
pháp. Giới luật còn, Phật pháp còn.”
Giới
luật là sinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai
sứ, hành Như lai sự.
Sống
theo giới luật tức là sống đời sống phạm hạnh, tự mình đã tìm được nơi an trú
của tất cả thiện pháp. Đó cũng là một cách sống " ưng vô sở trú.”
Giới
luật là một trong ba tạng giáo điển của phật giáo: Kinh, Luật và Luận tạng. Luật
tạng có nhiều bộ không mấy đơn giản, trên nguyên tắc phần cơ bản đều đồng nhất
nhưng các giới điều nhẹ và sự tác pháp có nhiều khác biệt tùy hoàn cảnh và quốc
độ sinh hoạt của Tăng đoàn.
Việc
nghiên cứu, phiên dịch, biên soạn về giới luật hiện nay bằng Quốc văn còn ít ỏi,
phần lớn còn bằng chữ Hán. Đây cũng là vấn đề có hạn chế nhất định đối với Tăng
ni trong sự nghiệp tu trì.
Hòa
thượng Thích Trí Thủ, sau mấy mươi năm chuyên trách nhiệm vụ hoằng pháp, giảng
dạy giới luật tại các Phật Học viện: Báo Quốc, Hải Đức, Quảng Hương Già Lam,
Tịnh xá Trung Tâm, tuổi đời đã cao sức khỏe giảm sút, nhưng với hạnh nguyện
thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh, Hòa thượng hằng lưu tâm đến tiền đồ của
Đạo pháp trong sự nghiệp "Tục diệm truyền đăng", đã nỗ lực vừa hành trì, vừa tìm
tòi, nghiên cứu, dịch thuật và biên soạn bộ LUẬT TỲ KHEO, chú trọng trình bày ý
nghĩa có đối chiếu giữa các bộ Kinh, Luật, Luận, và sụ thi hành Luật của Tăng
già Bắc tông và Nam tông hiện nay.
Nội dung
có hai phần:
Phần 1 :
"YẾT MA YẾU CHỈ", trình bày các nguyên lý căn bản của Yết ma song song với tác
pháp tức là phần tác trì.
Phần II
: TỨ PHẦN HIỆP CHÚ", giảng giải (tập I), thiên tụ của giới bổn tức là phân chỉ
trì (tập 2).
Nói cách
khác, là trình bày phương cách hành trì giới luật và giảng giải bản thân của
giới luật.
Đây là
một sự đóng góp lớn cho Tăng Ni chúng ta, qua đó Tăng Ni có thể dễ lãnh hội, dễ
thu thập đối với việc thọ trì giới luật, phát huy đạo nghiệp. Đạt đến mục đích
có thể bằng nhiều con đường nhưng con đường rút ngắn được không thời gian cho
chúng ta vẫn là con đường thẳng ngắn nhất. đó là điểm mà Hòa thượng có thể giúp
cho Tăng Ni chúng ta là một phần không nhỏ.
Nếu đã
hiểu giới luật chính là bước thang đầu của đạo quả Giác ngộ, là nền tảng của
Thiền định, Trí tuệ, là ngọc Anh lạc để trang nghiêm Pháp thân, là thuyền bè để
đưa người qua biển khổ sanh tử, là kho tàng vô lượng công đức của bậc đại thiện
hữu đối với chúng ta.
Tôi xin
nhất tâm tùy hỷ với sự tùy hỷ của Hòa thượng đã dành cho tôi đọc bản văn này.
tôi trân trọng giới thiệu với toàn thể Tăng Ni làm hành trang VĂN, TƯ, TU trong
đạo nghiệp.
Hy vọng
càng tiếp cận với đời sống phạm hạnh càng tích lũy được muôn hạnh lành, chánh
pháp càng có cơ thường trú tại thế gian. đó chính là kết quả vô lượng vô biên
của người thọ trì giới luật. Và đó chính cũng là đại nguyện của hàng đệ tử Phật,
của Tăng Ni chúng ta.
Nha Trang Mùa An Cư năm Quí Hợi
Phật Lịch 2527 – 1983
Hòa thượng THÍCH THIỆN SIÊU
LỜI TỰA
Theo
quan điểm Bộ phái Đàm Vô Đức, tức các vị thọ trì Luật Tứ phần thì một trong các
dấu hiệu về sự diệt tận của chánh pháp là các pháp yết ma hoàn toàn không được
thực hiện, không có pháp yết ma sẽ không có các Tỳ kheo đắc giới như pháp, bản
thể của Tăng không thành tựu. Không có sự tồn tại của Tăng thì chánh pháp mà
Phật giảng dạy không có người tu và chứng. Như vậy có nghĩa là Chánh pháp sẽ
không tồn tại. Cho nên việc học hỏi các học xứ trong giới Kinh và thông suốt các
pháp yết ma là phận sự hàng đầu của Tỳ kheo trong suốt 5 năm đầu kể từ khi đắc
giới cụ túc. Đây là điều kiện căn bản tác thành tư cách bậc thầy hàng Thượng tọa
trong Tăng chúng. Nếu Tỳ kheo không hoàn tất phận sự học hỏi này không bao giờ
được phép rời Y Chỉ sư dù cho tuổi đời 80 và tuổi hạ 60, nghĩa là luôn luôn phải
sống nương tựa vào bậc Thượng tọa, không được phép thế độ người xuất gia. Đây là
điều qui định trong tất cả Luật Tạng, cần phải nghiêm chỉnh chấp trì vì sự tồn
tại bền vững của Phật pháp.
Về các
nguyên lý căn bản của yết ma, tất cả các bộ Luật đều đồng nhất, nhưng sự tác
pháp có rất nhiều khác biệt, do điều kiện lịch sử và địa lý nơi mà Tăng đoàn
sinh hoạt. Nếu không có sự lý giải về các nguyên tắc căn bản, tất sẽ khó có thể
hội thông các điều sai biệt này. do đó việc nghiên cứu và học hỏi các phép Yết
ma cần phải hội đủ hai mặt: nắm vững sự lý giải và thông suốt tác pháp. tổng
quát mà nói, có hai bộ phận chính của tất cả pháp yết ma. Một bộ phận chi phối
các sinh hoạt tập thể của Tăng, tức gồm các luật yết ma như kiết giới, truyền
thọ cụ túc, thuyết giới, tự tứ v.v… Bộ phận khác chi phối sinh hoạt cá nhân một
Tỳ kheo, tức các yết ma trị phạt như sám tăng tàn, ba dật đề….
Bộ luật này gồm có hai
phần:
Phần thứ
nhất là YẾT MA YẾU CHỈ, trình bày các nguyên lý căn bản của yết ma song song với
tác pháp.
Phần thứ
hai là TỨ PHẦN HIỆP CHÚ, giảng giải các thiên tụ của giới bổn.
Bộ luật này
ra đời là do kết quả nhiều năm giảng dạy luật cho tăng chúng tại các Phật học
viện: Báo Quốc, Hải Đức, Quảng Hương Già Lam. Nhưng sự biên tập được hoàn thành
là do công đức đóng góp của các thầy ĐỔNG MINH và NGUYÊN CHỨNG. Hai vị đã cố
gắng rất nhiều trong công việc ghi chép lại những điều tôi đã giảng giải, tham
khảo các luật bộ, đối chiếu và thảo luận đả thông những điểm sai biệt giữa các
luật bộ.
Ở đây tôi
ghi nhận công đức đóng góp của hai vị và cùng hồi hướng công đức này cầu nguyện
chánh pháp tồn tại lâu dài ở thế gian để lợi lạc hữu tình.
Quảng Hương Già Lam, mùa hạ
PL. 2527 – 1983
Tỳ kheo THÍCH TRÍ THỦ
CHƯƠNG MỘT
TỔNG
LUẬN VỀ YẾT
MA
TIẾT MỘT
YẾT
MA TRONG SINH HOẠT
CỦA CỘNG ĐỒNG TĂNG LỮ
I- KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT VỀ CỘNG ĐỒNG TĂNG LỮ
Tăng hay
nói đủ là tăng già, là phiên âm từ SAMGHA của tiếng Phạn.()
Nó có nghĩa là một chúng hội, một cộng đồng mà các thành viên của nó được ràng
buộc lẫn nhau trong một mục đích duy nhất. Trong đời sống tập quần xã hội, bất
cứ một cộng đồng nào mà các thành viên của nó cùng sống và cùng sinh hoạt dưới
sự chi phối của một số nguyến tắc của nội qui và kỷ luật tập thể, cùng có những
quan hệ bình đẳng hợp lý về các nghĩa vụ và quyền lợi, cùng hướng đến một mục
đích chung, đều có thể được gọi là Tăng cả. Tuy nhiên khi từ này được áp dụng
cho cộng đồng đệ tử xuất gia của Phật thì tiếng Tăng già có nội dung vượt ngoài
các ý nghĩa quán lệ như thế. Nó không đơn giản là một cộng đồng hòa hiệp, mặc dù
tinh thần hòa hiệp là sinh mạng của bất cứ cộng đồng nào trong xã hội loài
người. Nó cũng không đơn giản là một cộng đồng gồm những người có cùng chung một
mục đích, một lý tưởng, mặc dù đó là động lực cơ bản cho bất cứ sự đoàn kết và
hòa hiệp Tăng già, cộng đồng đệ tử xuất gia của Phật, trong ý nghĩa mà đức Phật
thiết lập, phải là mảnh đất tốt cho sự tăng trưởng của thiện pháp, là nền tảng
cho tất cả mọi tiến bộ tâm linh, tức là những phát triển của nhận thức chân
chính về sự thật của đới sống, vì chỉ có nhận thức ấy trí tuệ vô lậu mới có thể
giải thoát những đau khổ của con người. Chính vì thế mà Tăng già được đặt vào
trong hàng Tam bảo, làm nơi nương tựa an ổn cho thế gian. Do vậy, sự tồn tại của
Tăng già có nghĩa là sự tồn tại của Phật Pháp, tất nhiên phải tồn tại trong ý
nghĩa chân chính mà đức Phật thiết lập.
Như thế,
tinh thần hòa hiệp của Tăng già không phải là sự ngẫu hợp của những người cùng
sống cho một mục đích và lại càng không phải là sự ngẩu hợp của những người có
những quyền lợi chung, cần phải đoàn kết thành một khối để đấu tranh cho các
quyền lợi được đòi hỏi ấy. Cho nên, dù tất cả mọi công dân trong một nước cùng
đoàn kết thành một khối thuần nhất, cùng chia sẻ bình đẳng hợp lý các nghĩa vụ
và quyền lợi, cùng hướng đến một mục đích lý tưởng chung, nhưng không phải vì
thế mà đủ để gọi là Tăng già.
Đương nhiên
tiếng SAMGHA hay Tăng già, không phải là từ ngữ do đức phật đặt ra để gọi riêng
cộng đồng các đệ tử xuất gia của Ngài. Nó là tiếng có sẵn trong ngôn ngữ đương
thời. Các nhóm cộng đồng xuất gia khác cũng tự gọi họ là một SAMGHA. Thế thì sự
khác biệt không phải do ở nội dung quán lệ của danh từ, mà do chính sinh hoạt
thực tiễn mang đến. Nếu các đệ tử xuất gia của Phật mặc dù sống đoàn kết và hòa
hiệp, nhưng tinh thần hòa hiệp ấy không phản ảnh sinh động những giáo pháp cơ
bản của Phật, thì cộng đồng xuất gia như thế cũng chưa thể gọi là Tăng được. Nó
có thể nghĩa là gì? Nói một cách nghiêm xác theo tinh thần của Luật tạng, nếu
sinh hoạt của các tỳ kheo không đúng theo các lý tắc cơ bản của pháp yết ma thì
dù có hòa hiệp, vẫn được gọi là hòa hiệp trong phi pháp, và như vậy không đủ khả
năng làm nền tảng cho sự phát sinh của các pháp vô lậu. Nghĩa là bản thể của
Tăng già không thành tựu.
Trên đây
là nói về Tăng già trong ý nghĩa tuyệt đối của nó tức thắng nghĩa tăng. Tăng già
mà nói theo ý nghĩa tuyệt đối như vậy thì thành phần của Tăng tất nhiên phải gồm
các tỳ kheo đã chứng đắc đạo quả Niết bàn.()
Nhưng trong ý nghĩa ước lệ thì từ bốn vị tỳ kheo trở lên cùng sống trong
một trú xứ, cùng thanh tịnh và hòa hiệp thì chỉ chừng mức ấy cũng đủ để gọi là
Tăng. Dù trong hiện tại các vị ấy chưa chứng đắc đạo quả Niết bàn gì cả nhưng
đời sống của các vị ấy có một hướng đi duy nhất là phải đạt thành mục đích ấy.
Như vậy, căn cứ trên nhân mà được gọi là Tăng. Chính trong ý nghĩa ước lệ này mà
các pháp yết ma có hiệu lực để tạo thành bản thể sinh động của Tăng.
Thành phần nguyên thủy
và căn bản của tăng là các tỳ kheo đã thọ giới cụ túc. Thế nào là một tỳ kheo
đắc giới cụ túc? Đó là người mà bản thể tỳ kheo đã thành tựu. Bản thể của tỳ
kheo được thành tựu hoặc do sự chứng đắc quả vị cứu cánh của Niết bàn, tức các
Thánh giả vô học. hoặc do sự thọ giới hợp pháp. Các trường hợp đắc giới này sẽ
được nói rõ trong chương thọ giới (chương III sau).
Về sau, có
vấn đề nữ giới được phép gia nhập đoàn với nền tảng là 8 kỉnh pháp, thì ngoài số
tỳ kheo tăng, còn có tỳ kheo ni tăng nữa.
Như vậy,
thành phần của Tăng gồm các tỳ kheo và tỳ kheo ni đã đắc giới cụ túc. Tuy nhiên,
trong quá trình hành đạo, học tập các bổn phận căn bản một tỳ kheo hay tỳ kheo
ni, chúng đệ tử xuất gia của Phật còn có những thành phần dự bị sa di, sa di ni
và thức xoa ma na. Những vị này do chưa hội đủ điều kiện để đắc giới cụ túc, cần
phải trải qua một thời gian học tập. Mặc dù cũng là thành phần xuất gia, nhưng
không được dự vào hàng tăng chúng, do đó các vị này không có liên hệ hay ràng
buộc gì với các pháp yết ma cả.
Tổng quát,
có ba phân loại chính yếu về Tăng: 1. Phân loại theo túc số; 2. Phân loại theo
tính phái, và 3. Phân loại theo trú xứ.
1. Phân
loại theo túc số
Mặc dù mỗi
tỳ kheo hay tỳ ni là một thành phần của Tăng, nhưng trong các sinh hoạt thuộc
phạm vi tập thể, tùy theo tăng sự, phải hội đủ túc số tối thiểu thì bản thể của
Tăng mới thành tựu. Trong phân loại này, có bốn trường hợp để túc số Tăng.()
Tăng gồm
bốn người: Đây là túc số tối thiểu, dưới con số này không thể gọi là Tăng.
Với túc số này, tăng có thể tác pháp yết ma cho những sinh hoạt thông thường như
thuyết giới v.v… Nghĩa là trừ tự tứ, thọ cụ túc, xuất tội tăng tàn còn lại các
yết ma khác đều có thể được tác pháp với túc số 4 người này.
Tăng gồm
năm người: Đây là túc số Tăng tác pháp yết ma truyền giới cụ túc tại những
địa phương mà số tỳ kheo ở đó quá ít. Ngoài ra, như việc yết ma tự tứ cũng cần
hội túc số này. Nghĩa là trừ việc truyền thọ cụ túc tại các đô thị, và xuất tội
tăng tàn, còn lại các yết ma khác đều có thể được tác pháp với túc số năm người
này.
Tăng gồm
mười người: Trừ xuất tội tăng tàn, còn lại các yết ma khác có thể làm với
túc số 10 người này.
Tăng gồm
hai mươi người: Túc số cần thiết để xuất tội tăng tàn, và tất cả cho pháp
yết ma khác.
Từ túc số
hai mươi người này, có thể thực hiện bất cứ tăng sự nào.
2. Phân
loại theo tính phái
Do sự khác
biệt tính phái, trên đại thể, Tăng già được chia làm hai bộ: tỳ kheo tăng và tỳ
kheo ni tăng. Tuy vậy, để phân biệt rõ ràng hơn, tại Trung quốc người ta thường
gọi cộng đồng các tỳ kheo ni là á tăng, cách gọi này thiệt ra không chính xác.
Cả hai bộ tỳ kheo và tỳ kheo ni đều được gọi chung là Tăng cả. Cho nên, trong
các văn tác pháp yết ma, danh từ á tăng không bao giờ được áp dụng.
3. Phân
loại theo trú xứ
Phân loại
chung về trú xứ thì có hai hạng tăng: chiêu đề tăng và thường trú tăng. Trong
lịch sử phát triển của tăng đoàn, ở giai đoạn nguyên thủy, các tỳ kheo không
thường trú tại bất cứ trú xứ nào. Tăng đoàn đầu tiên xuất hiện trong lịch sử gồm
năm vị A la hán, tức nhóm A nhã kiều trần như. Tiếp theo đó, Ngài lại hóa độ
nhóm Da xá và thân hữu cộng tất cả 55 người. Sau khi họ chứng đắc địa vị Thánh
giả vô học, đức Phật khiến họ lên đường đi hoằng hóa, và Ngài nói: Mỗi người đi
mỗi hướng, không nên đi chung.()
Và đấy là hình thức cộng đồng chiêu đề tăng đầu tiên. Về sau các tinh xá được
dựng lên do sự phát tâm của các đệ tử tại gia, các tỳ kheo thường ở lâu tại một
trú xứ, và từ đó, sự phân biệt giữa chiêu đề tăng và thường trú tăng được thành
hình. Do sự phát triển của cộng đồng thường trú tăng này mà tăng đoàn về sau
càng được chia nhỏ theo từng địa phương, và cũng chính do sự thành hình các tăng
đoàn địa phương này mà các bộ phái khác nhau xuất hiện và các luật tạng khác
nhau giữa các bộ phái cũng được thành lập dần dần.
Vào khoảng
thời gian cuối cùng trong cuộc đời hoằng hóa của đức Phật, xu hướng định cư của
tỳ kheo càng lúc càng phát triển mạnh, và sự sống chung trong một trú xứ như vậy
sẽ phát sinh nhiều sự kiện phức tạp, cho nên đức Phật đã thiết lập một số nguyên
tắc chi phối đời sống của cộng đồng tăng lữ.
Trên con
đường từ Ma kiệt đà để đi về Câu thi na, nơi Ngài sẽ nhập Đại Niết bàn, nhân vị
đại thần của vua A Xà Thế đến tham vấn ý kiến Phật về việc vua nước Ma kiệt đà
này muốn chinh phục dân chúng Bạt kỳ, đức Phật đã giảng cho các tỳ kheo bảy
nguyên tắc bất thối để duy trì sự hòa hiệp của Tăng. Bảy nguyên tắc ấy như sau:
()
1.
Các tỳ kheo cần phải thường xuyên tập họp, và tập họp đông đảo, để giảng
luận chính pháp, khiến cho có sự hòa thuận trên dưới của các tỳ kheo.
2.
Các tỳ kheo phải tụ họp trong tinh thần hòa hiệp, giải tán trong tinh
thần hòa hiệp, và chấp hành tăng sự trong tinh thần đoàn kết.
3.
Chúng tỳ kheo không ban hành những luật lệ không thích hợp, những luật lệ
không đáng được ban hành, và cũng không bãi bỏ những luật lệ đã được ban hành từ
trước; sống đúng những gì đã được quy định bởi cộng đồng tăng lữ.
4.
Các tỳ kheo luôn luôn phải kính trọng, phục vụ các tỳ kheo trưởng lão,
những vị có nhiều kinh nghiệm tu tập trong chính pháp luật, sẵn sàng nghe theo
những lời khuyên dạy của các bậc trưởng thượng như thế.
5.
Các tỳ kheo sống không bị lôi cuốn bởi những tham ái.
6.
Trú xứ cộng đồng các tỳ kheo luôn luôn là những trú xứ nhàn tịnh.
7.
Các tỳ kheo sống an trú trên chính niệm tạo thành một cộng đồng sinh
động, khiến cho các bạn đồng tu từ những phương khác nếu chưa đến thì muốn đến,
và đã đến thì muốn cùng sống và cùng tu tập trong sự an lạc.
Bảy nguyên
tắc được đức Phật nêu lên đó bao gồm những điều khoản đời sống cộng đồng, và một
số điều khoản cần thiết cho sự tiến bộ đời sống tinh thần, vốn là nội dung phong
phú của sự hòa hiệp. Các nguyên tắc chi phối cộng đồng là các nguyên tắc dân chủ
và bình đẳng; chính trên nền tảng này mà hệ thống luật tạng của tất cả các bộ
phái được xây dựng. Chúng cũng là những nguyên tắc chỉ đạo cho tất cả mọi thủ
tục tác pháp yết ma.
Rồi tiếp
tục hành trình đi về Câu thi na, hướng đến sa la song thọ, đức Phật dừng chân
tại sinh địa của bộ tộc Ma La. Tại đây, tin tức về việc Ni Kiền Thân Tử tạ thế,
và các đệ tử của Ni Kiền Tử đã bắt đầu tranh chấp nhau kịch liệt khiến một số
các Trưởng lão lo ngại sự kiện như thế có thể xảy ra giữa các đệ tử Phật. Do
thế, ngài Xá Lợi Phất tập họp các tỳ kheo để nhắc lại tất cả những điểm chính
yếu trong giáo pháp của đức Phật để về sau khi đức Thế Tôn không còn tại thế
gian các tỳ kheo sẽ không khởi lên dị kiến để đi đến chỗ tranh chấp nhau về các
vấn đề giáo lý.()
Mặt khác,
khi ngài A Nan được vị Sa di Chu Na báo tin cho biết việc tranh chấp dữ dội của
các đệ tử Ni Kiền Tử, Ngài cảm thấy "lo sợ đến dựng tóc gáy", và cùng Chu na đến
trình bày với Phật, thỉnh cầu ngài quy định cụ thể các nguyên tắc đưa đến sự hòa
hiệp giữa các tỳ kheo. Nhân dịp này, đức Phật giảng rộng các nguyên nhân đưa đến
sự tranh chấp giữa Tăng, và tiếp theo đó, ngài nêu lên bảy pháp diệt tránh, là
các biện pháp để chấm dứt sự tranh chấp giữa Tăng, và với sáu pháp khả ý, cũng
gọi là sáu pháp hòa kỉnh, để cho các tỳ kheo cùng sống chung trong tinh thần hòa
hiệp, nếu các nguyên tắc này được tuân thủ nghiêm chỉnh.()
Nói một
cách tổng quát theo như những gì vừa được khái quát trên, thì nền tảng cho sự
tồn tại của tăng là thanh tịnh và hòa hiệp. Chủ đích của các pháp yết ma là tạo
sự thanh tịnh cho các tỳ kheo. Người nào phạm tội, cần phải sám hối và sám hối
như thế nào là như pháp để không có sự cơ hiềm cho các tỳ kheo khác. Nói liên hệ
giữa các tỳ kheo, trong sự hỗ tương quan hệ về các bổn phận và quyền lợi cần
được xử lý như thế nào để cho không có sự tranh chấp giữa các tỳ kheo ấy là công
dụng của pháp yết ma.
Vậy, yết ma
là gì?
TIẾT HAI
PHÂN TÍCH NỘI DUNG CỦA YẾT MA
Yết ma là
phiên âm từ KARMAN của tiếng Phạn. Hán dịch là "tác pháp biện sự", và
thường được các luật sư Trung quốc giải thích rằng "Vạn sự do tư thành biện cố.”
Nghĩa là tất cả công việc của Tăng đều do nó mà được thành tựu mỹ mãn. Đây là
dịch và giải thích theo chức năng của yết ma. Trong nghĩa đen của tiếng Phạn,
KARMAN hay "yết ma" có nghĩa là hành động hay hành vi. Có hành động thuộc cá
nhân mà cũng có hành động thuộc tập thể. Để phân biệt rõ hai phạm vi trách nhiệm
như thế, trong thuật ngữ Hán dịch chữ NGHIỆP luôn luôn được dùng để chỉ cho hành
động thuộc cá nhân, và cá nhân ấy hoàn toàn chịu trách nhiệm về những hậu quả mà
nó đã làm. Trái lại, phiên âm yết ma chỉ dùng cho các hành vi tập thể. ()
Trong giáo
lý căn bản của Phật, không có hành động nào với sự cố ý mà không đưa đến hậu quả
tương xứng nhất định. Động lực của hành vi luôn luôn là ý chí, tức điều mà thuật
ngữ của Luận tạng gọi là tư. ()
Hoạt động của ý chí ngang qua sự biểu hiện của thân và ngữ. Khi ý chí đạt đến
mục đích mà nó mong muốn, bấy giờ nghiệp đạo căn bản được thành tựu. Nhưng quá
trình của bất cứ hành vi nào thuộc thân hay thuộc ngữ, bao giờ cũng phải đi qua
ba giai đoạn.()
Giai đoạn thứ nhất gọi là gia hành của nghiệp đạo, tức giai đoạn chuẩn bị cho
hành động. Giai đoạn thứ hai là căn bản của nghiệp đạo, lúc mà hành vi đạt đến
mục đích mong muốn. Và sau cùng là hậu khởi của nghiệp đạo, sự tiếp diễn của
hành động sau khi căn bản nghiệp đạo đã thành tựu. Sự phân biệt này không chỉ áp
dụng cho các hành vi cá nhân, mà cả trong các hành vi tập thể. Thí dụ trường hợp
thọ giới cụ túc. Sự thành tựu của giới cụ túc, nghĩa là giới tử đắc giới hay nói
rõ hơn, giới thể vô biểu đã phát sinh trong thân và tâm của giới tử, khiến cho
bản chất tỳ kheo hiện hữu nơi giới tử, sự thành tựu này là hành vi tập thể, tức
do tác pháp yết ma như pháp mà được thành tựu. Căn bản nghiệp đạo được thành
tựu, tức giới thể vô biểu phát sinh nơi giới tử, chỉ khi nào Tăng đã hoàn tất
tác pháp yết ma lần thứ ba. Tất cả các giai đoạn trước, kể từ khi giới tử phát
sinh tâm niệm cầu thọ cụ túc giới, được dẫn vào trước Tăng, thành khẩn nói những
lời cầu thỉnh giới sư v.v… cho đến Tăng đã thực hiện một lần tác bạch và ba lần
yết ma, tất cả những diễn tiến này đều được gọi là gia hành của nghiệp đạo. Sau
khi Tăng đã hoàn tất bạch tứ yết ma, giới thể vô biểu đã phát sinh nơi giới tử,
bấy giờ căn bản của nghiệp đạo được thành tựu. Từ đó trở đi, những việc như
truyền trao pháp tứ y, tứ khí, và các sự giáo giới của Tăng đối với vị tân tỳ
kheo đều được gọi là hậu khởi của nghiệp đạo.
Như vậy,
trên nền tảng, không có sự phân biệt giữa nghiệp cá nhân và nghiệp tập thể.
nguyên lý áp dụng cho một kẻ sát nhân thành tựu hành vi sát hại của nó qua các
giai đoạn gia hành nghiệp đạo, căn bản nghiệp đạo, và hậu khởi nghiệp đạo như
thế nào, thì nguyên lý ấy cũng áp dụng cho tác pháp yết ma của Tăng. Đây là
nguyên lý cơ bản để xác định tác pháp yết ma của Tăng được thành tựu hay không
thành tựu. Bởi vì, như một người khởi tâm muốn sát hại, và chuẩn bị tất cả điều
kiện cần thiết để hoàn tất sự sát hại, nhưng tội sát có thể không thành tựu vì
căn bản nghiệp đạo không đủ yếu tố để phát sinh, và cứ theo đó mà người ta xác
định các trường hợp khinh trọng của tội sát. Hành sự của Tăng cũng vậy, yết ma
thành hay không thành tựu đều được chi phối bởi nhiều điều kiện.
Xác định
tầm mức khinh trọng của một hành động cá nhân cố nhiên không phải đơn giản, do
sự diễn tiến phức tạp của hành vi, nhưng nếu so với việc xác định giá trị thành
hay hoại của hành vi tập thể thì sự phức tạp ấy vẫn còn tương đối đơn giản. Bởi
vì, trong giáo lý của Phật, động lực của nghiệp hay hành vi là ý chí. Nếu là ý
chí cá nhân, thì chỉ giới hạn trong trạng thái do dự hay cương quyết. Nhưng nếu
là ý chí tập thể, thì sự thống nhất ý chí trong tinh thần tuyệt đối hòa hiệp
phải được đặt lên hàng đầu. Tất nhiên, một tập thể không phải là một bản thể
trừu tượng, mà nó là một hợp thể của nhiều cá thể. Thái độ do dự của một cá thể
là sự nứt rạn của tập thể. Một tập thể bị nứt rạn thì chẳng khác nào một con
người bệnh hoạn, thương tích, bại liệt, không thể hoàn tất sự việc gì đáng kể.
Cho nên, yếu tố căn bản của tất cả mọi pháp yết ma là sự thanh tịnh và hòa hiệp
của Tăng.
Trong phạm
vi hành động tập thể như vừa nói, để phân biệt với hành động ca nhân, từ KARMAN
thay vì dịch là NGHIỆP thì Hán văn chỉ phiên âm là YẾT MA. Nhưng nếu nói cho đủ,
cho rõ ràng hơn phải nói là TĂNG GIÀ YẾT MA, tức tiếng Phạn nói SANGHAKARMAN –
hành vi của Tăng. Cần phải nói đủ như vậy mới có thể phân biệt hành vi của các
tập thể thế gian khác với hành vi tập thể của Tăng già, là cộng đồng các tỳ
kheo. Trong các tập thể khác của thế gian, khi người ta cần có một quyết định
chung thì những người tham dự quyết định cần phải hội đủ những điều kiện cần
thiết để xác định tư cách của mỗi thành viên; nhưng tư cách này chỉ cần căn cứ
trên chức năng của cá nhân ấy trong quan hệ tập thể. Trong phạm vi của Tăng, mà
thành phần là các tỳ kheo, yếu tố để xác định tư cách không chỉ là chức năng, mà
còn là bản chất. Cho nên, sự thanh tịnh của mỗi tỳ kheo trong việc giữ gìn các
điều học của giới bổn là bản chất của Tăng mà cũng là sự thanh tịnh của Tăng.
Nói tóm
lại, yết ma, hay nói đủ là Tăng già yết ma, là hành sự của Tăng, căn cứ trên nền
tảng là sự thanh tịnh và hòa hiệp của Tăng, gồm những nguyên tắc đòi hỏi phải
tuyệt đối tuân theo được áp dụng tùy theo đối tượng của hành sự.
Trong tư
tưởng triết học của đạo Phật, tiêu chuẩn sau đây được nhắc đến khi cần xác định
tính hiện thực của một sự hữu: "Cái gì hiện thực, cái đó có tác dụng, và ngược
lại cái gì có tác dụng, cái đó hiện thực.” Tác dụng được nói đến đó là một khía
cạnh khác của nghiệp hay hành động. Trên nền tảng lý tính duyên khởi, không có
tác dụng nào phát sinh từ hư vô, mà phát sinh trong điều kiện quan hệ hỗ tương.
Cho nên, khi phân tích sự thành tựu của căn bản nghiệp đạo, các luận sư của Luận
tạng đã không thể bỏ sót không đề cập y xứ của nghiệp đạo. y xứ tức đối tượng;
sự thành tựu của mỗi nghiệp đạo chỉ có thể được xác định chỉ khi nào xác định
được y xứ của nó. ()
Thí dụ, trường hợp một người phát nguyện thọ trì giới cấm không sát sinh. Động
lực của hành vi hay nghiệp đạo này là tư niệm hay ý chí. Bản chất của nghiệp đạo
này, khi đã thành tựu, là không sát hại bất cứ một sinh vật nào. Cho nên, toàn
thể sinh vật trên thế gian đều là y xứ của nghiệp đạo không sát sinh. Y xứ này
là đối tượng mà tư niệm duyên đến làm động lực cho các quá trình của nghiệp đạo
là gia hành, căn bản và hậu khởi. nếu tư niệm không bao trùm được toàn thể sinh
vật trên thế gian, tức y xứ bị khuyết, thì dù tư niệm luôn luôn có mặt trong
suốt giai đoạn gia hành, nhưng nó không đưa đến căn bản nghiệp đạo, tức giới thể
vô biểu của bất sát không phát sinh nơi người thọ giới. Y xứ như vậy gồm đối
tượng, tức toàn thể sinh vật và không gian, toàn thể sinh vật trên thế gian
không trừ địa vực nào, và trong tất cả thời gian.
Cũng như
mỗi nghiệp đạo thành tựu hay không thành tựu với các trường hợp trọng hay khinh
là tùy theo y xứ của nó toàn hay khuyết. Cũng vậy, yết ma của Tăng thành hay
không thành cần phải được cân nhắc theo từng đối tượng hay y xứ.
Trong lịch
sử truyền luật tại Trung quốc, các luật sư phân biệt có ba đối tượng của yết ma.
Đó là Nhân, Pháp và Sự.
1. Nhân:
Tức nhân cách hay cá nhân. Tăng tác yết ma với đối tượng là một cá nhân nào đó,
như các loại yết ma truyền giới cụ túc, yết ma trị phạt v.v… Thí dụ trong trường
hợp yết ma truyền giới cụ túc. Trước khi tác pháp, Tăng phải kiểm nghiệm tất cả
điều kiện cần thiết của giới tử tỳ kheo. Người muốn được Tăng tác pháp yết ma để
trao giới cụ túc phải không có các già nạn, tuổi đủ hai mươi, ba y và bình bát
phải đủ. ()
Tất cả điều kiện này tác thành nhân cách thành tựu của một giới tử tỳ kheo. Tăng
già yết ma trong trường hợp này chỉ có hiệu lực đối với một nhân cách thành tựu
như thế. Nếu có điều kiện nào còn thiếu, nhân cách không thành tựu, và như vậy
yết ma cũng không thành tựu. Đấy là sự quan hệ mật thiết giữa yết ma và y xứ của
yết ma. Cũng tương tợ, như trường hợp Tăng tác pháp yết ma cho một tỳ kheo sám
hối tăng tàn. Chỉ khi nào Tăng xét nghiệm thỏa mãn tất cả điều kiện tác thành
một tỳ kheo tăng tàn, thì tỳ kheo ấy mới trở thành y xứ của một loại yết mà này.
pháp tăng tàn chỉ hiện diện nơi bản thân một người đã thọ giới cụ túc đúng như
pháp; nếu trái lại thì dù người đó có hội đủ tất cả điều kiện tương xứng tội
tăng tàn, cũng không thể được gọi là tỳ kheo tăng tàn. Yết ma sám tăng tàn chỉ
có hiệu lực đối với y xứ là một tỳ kheo phạm tăng tàn, chứ không thể đối với sa
di hay các hạng người khác.
2. Pháp:
hay bình pháp, chỉ có các sinh hoạt tập thể của Tăng mà Phật đã quy định, như
việc thuyết giới mỗi nửa tháng, hay tự tứ v.v… Mục đích của việc thuyết giới là
duy trì và phát huy sự thanh tịnh và hòa hiệp của Tăng. ()
Như vậy, y xứ của yết ma thuyết giới là cộng đồng các tỳ kheo thanh tịnh và hòa
hiệp cùng sống chung trong một trú xứ. Trong sự xét nghiệm các điều kiện để thỏa
mãn y xứ này, trước hết là bản vị của cộng đồng, đó là sự hiện diện của các tỳ
kheo trong phạm vi đại giới của trú xứ. Nếu trong lúc Tăng đang tác pháp yết ma,
có một tỳ kheo nào đó không tham dự vào giới trường thuyết giới cũng không có
gởi dục đúng pháp, mặc dù tỳ kheo ấy đang ở trong phạm vi của đại giới; như vậy
y xứ này bị khuyết và yết ma không thành tựu. Mặt khác, như đã nói, mục đích
thuyết giới là củng cố và phát triển sự thanh tịnh và hòa hiệp giữa các tỳ kheo,
nếu lúc Tăng tác pháp yết ma thuyết giới mà trong phạm vi của giới trường có sự
hiện diện của một tỳ kheo không thanh tịnh, tức tỳ kheo có phạm tội, nhưng chưa
sám hối đúng pháp; như vậy y xứ này cũng bị khuyết. Vả lại việc thuyết giới là
một tăng sự có định kỳ; nếu Tăng tác pháp yết ma này mà triển hạn định kỳ không
đúng pháp, thì y xứ cũng bị khuyết. Bất cứ y xứ bị khuyết trong trường hợp nào,
yết ma thuyết giới cũng đều bất thành.
3.
Sự: tức là sự thể hay sự vật. Nói rõ hơn y xứ của yết ma trong các trường
hợp này là những vật thể hữu hình, như việc kết đại giới, tiểu giới, việc phân
chia tăng phòng, tăng vật v.v… mỗi loại đối tượng có một sắc thái tác thành bản
chất của nó. Thí du, đại giới thì phải có mốc rõ rệt của các đường ranh; tăng
vật thì có những vật dụng thuộc sở hữu của chiêu đề tăng, hay của thường trú
tăng. Như việc phân chia bình bát giữa tăng, nếu các bình bát này không được chế
tạo đúng theo qui luật, nó không thể là y xứ toàn vẹn của yết ma. Và nếu đối
tượng để phân chia là thường trú tăng trong một trú xứ, nhưng các tỳ kheo không
tập họp đúng pháp như vậy thì y xứ cũng bị khuyết.
Nói tóm
lại, bất cứ y xứ của yết ma là loại nào, mỗi loại đều có một số đặc tính hay
điều kiện để tác thành bản thể của nó. Khi các đặc tính không hội đủ, các điều
kiện còn thiếu sót, thì y xứ của yết ma sẽ bị khuyết một phần hay hư hoại toàn
bộ. Như một người tàn khuyết chỉ có thể thích hợp cho hành vi này mà không thể
thích hợp cho các hành vi khác; đương nhiên nó không thể hoàn tất hành vi mà nó
không thích hợp. Cũng vậy sự cân nhắc tính chất toàn khuyết của các y xứ tùy
theo loại để tương xứng với tác pháp yết ma là điều không thể coi nhẹ được.
Nếu dựa
trên tác phẩm để phân chia thì tổng quát có ba loại yết ma: tâm niệm, đối thú và
tăng pháp. Tâm niệm là tự mình nghĩ và nói lên lời mà không cần có người thứ hai
để nghe. Như tâm niệm bố tát hay tâm niệm tự tứ chẳng hạn. đối thú là sự tác
pháp giữa hai hay ba người. Một người nói, một hay hai người khác nghe. Cả hai
pháp này thực chất không phải là yết ma, nhưng sự tác pháp là tuân theo những gì
là Tăng đã qui định, duy chỉ có điều là không hội đủ túc số để thành tăng pháp.
Riêng về
tăng pháp yết ma, căn cứ trên pháp thức, thì chủ yếu có ba loại: đơn bạch, bạch
nhị và bạch tứ.()
Đơn bạch là chỉ một lần tác bạch giữa tăng, tức thì tăng pháp được thành tựu.
Bạch nhị là một lần bạch và một lần yết ma. Bạch tứ là một lần bạch và ba lần
yết ma. Ngoài ba loại tăng pháp yết ma chủ yếu này, căn cứ theo luật Tăng kỳ
thì có thể thêm một trường hợp nữa: cầu thỉnh yết ma, cầu thỉnh là tác bạch giữa
tăng để cầu thỉnh tăng thực hiện một pháp yết ma nào đó. Thực chất điều này cũng
không phải là pháp yết ma, nhưng vì là sự cáo tri sự việc giữa Tăng, mà những gì
được làm giữa Tăng đều gọi là yết ma, theo nghĩa rộng rãi nhất, vì thế nó cũng
được gọi là yết ma.
Ở trên đã
nói, nghĩa đen của yết ma là nghiệp hay hành động, hành vi. Trong phạm vi cá
nhân, thân và khẩu đều là biểu hiện của nghiệp. Bất cứ hành vi nào của thân và
ngữ, nếu hội đủ yếu tố để sẽ đưa đến hậu quả nhất định, đều được gọi là nghiệp
cả. Trong trường hợp tăng già yết ma, sự thống nhất ý chí phải được biểu hiện
bằng lời, và chỉ có sự biểu hiện này mới đưa đến hậu quả nhất định vì nó có đủ
hiệu lực để chi phối tất cả hành động khác của mỗi cá nhân trong một tập thể.
nói cách khác, trong các hành sự của Tăng, thân nghiệp không đủ năng lực để
thành tựu căn bản nghiệp đạo, mà duy chỉ có ngữ nghiệp. Cho nên bất cứ hành vi
nào được thực hiện giữa tăng đều phải được biểu hiện bằng lời nói. Lời nói phải
rõ ràng, mạch lạc, tất cả mọi người đều nghe và hiểu, như thế yết ma mới thành
tựu.
Như vậy,
trong sự diễn tiến của tác pháp yết ma, gia hành nghiệp đạo của yết ma có thể
được thực hiện bằng các động tác của thân và ngữ, như lễ bái, cầu thỉnh v.v…
nhưng căn bản nghiệp đạo của yết ma chỉ có thể thành tựu bằng nghiệp ngữ, tức
bằng lời nói. Không phải tất cả các tỳ kheo trong Tăng đều cùng nói một lượt để
xác định một vấn đề. Nhưng một tỳ kheo trong Tăng biết rõ các pháp thức yết ma,
đại diện Tăng tác pháp, lời nói của vị này trong khi tác pháp là lời nói cá
nhân, nhưng thể tính của căn bản nghiệp đạo ở đây là cộng nghiệp. Cũng như trong
các sinh hoạt tập thể của thế gian, khi một mệnh lệnh được ban hành hay một
quyết định được thông báo, thì chỉ có thể phát xuất từ lời nói của một người có
tư cách đại diện cho tập thể. Nếu trong lúc đó cả hai người cùng nói thì không
thể thành lệnh được. Pháp nhĩ như thị, bản chất của ngữ nghiệp là như vậy. Cho
nên, trong khi Tăng tác pháp yết ma, chỉ một tỳ kheo hội đủ điều kiện đại diện
Tăng nói lời tác bạch và yết ma, chứ không thể hai tỳ kheo cùng nói một lần. Nếu
cả hai người cùng nói, mặc dù cùng văn cú như nhau, nhưng như vậy là thành hai
quyết định của Tăng dù nội dung đồng nhất. ()
Trong ba
loại yết ma chủ yếu được phân loại theo pháp thức vừa kể trên, tùy theo đối
tượng của yết ma mỗi loại được thực hiện cho tương xứng.
Theo thống
kê tổng quát của Yết ma chỉ nam, có tất cả 44 pháp thuộc đơn bạch yết ma.
Tăng sự trong các trường hợp này vốn đơn giản, chỉ cần một lần tác bạch cho Tăng
biết là đủ.
Về bạch nhị
yết ma, tổng quát có tất cả 78 pháp, tăng sự trong các trường hợp này có tầm
quan trọng hơn các tăng sự thuộc loại đơn bạch yết ma. Do đó, sau khi tác bạch
cho Tăng biết sự việc mà Tăng cần phải quyết định, rồi bấy giờ hỏi xem các tỳ
kheo đang hiện diện giữa Tăng có ai phản đối hay không. Nếu tất cả đều im lặng,
không tỳ kheo nào nói lời phản đối, hay phủ quyết, thì quyết định của Tăng có
hiệu lực. Nói cách khác, bạch nhị yết ma tức là một lần tác bạch và một lần biểu
quyết.
Về bạch tứ
yết ma, tổng quát có 39 pháp. Một lần bạch và ba lần yết ma, tức một lần tác
bạch cho Tăng biết tăng sự cần làm rồi ba lần lấy biểu quyết. Đây là trường hợp
của những tăng sự quan trọng nhất. Căn bản nghiệp đạo của các tăng sự này chỉ có
thể thành tựu sau khi ba lần hỏi và ba lần toàn thể Tăng đều đồng ý chấp thuận
bằng cách im lặng.
Yết ma
thành tựu có nghĩa là căn bản nghiệp đạo của tăng sự thành tựu. Cũng như trong
trường hợp nghiệp đạo cá nhân, chỉ khi nào căn bản của nghiệp đạo thành tựu, thì
mới có thể đưa đến hậu quả tốt hoặc xấu tương xứng. Cũng vậy, căn bản nghiệp đạo
của Tăng sự có thành tự thì quyết định của Tăng mới có hiệu lực chi phối toàn
thể các tỳ kheo trong Tăng. Sau khi yết ma thành tựu như vậy, nếu có tỳ kheo nào
làm khác đi điều mà Tăng đã chấp thuận và quyết định, tỳ kheo đó phạm tội, khinh
hay trọng tùy theo loại tăng sự.
161 pháp
yết ma kể trên không phải là con số cố định. Tăng sự khinh hay trọng còn tùy
thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, môi trường xã hội các thứ. Nhưng điều căn bản cần
nắm vững là ba loại pháp thức yết ma ấy. Mỗi khi có sự việc gì xảy ra giữa Tăng,
cần phải cân nhắc y xứ để theo đó mà áp dụng một pháp thức yết ma nào cho tương
xứng. Điều này sẽ được nói rõ ở các chương sau.
Cũng như
quá trình diễn tiến của nghiệp đạo, cũng vậy, có ba giai đoạn chủ yếu của yết
ma: gia hành của yết ma, cũng gọi là tiền phương tiện; căn bản của yết ma tức
giai đoạn yết ma thành tựu, và từ đó trở đi cho đến khi Tăng giải tán gọi là hậu
khởi của yết ma.
Như đã nói,
bản chất của yết ma là ngữ nghiệp, do đó tất cả ba giai đoạn của yết ma đều lấy
ngữ nghiệp làm cơ sở. Những lời được nói giữa Tăng, vì là những lời có tính chất
cộng nghiệp, cần theo một qui tắc văn cú và văn mạch qui định sẵn, chứ không thể
tùy tiện nói sao thì nói.
Gia hành
hay tiền phương tiện của yết ma bắt đầu sau khi các tỳ kheo đã ổn định vị trí
giữa Tăng, tập họp đúng theo nguyên lý căn bản là thanh tịnh và hòa hiệp. Tất cả
các loại yết ma, từ đơn bạch cho đến bạch tứ, đều có tiền phương tiện giống
nhau, với lời văn như sau: Một tỳ kheo thượng tọa đại diện Tăng tác pháp yết ma,
bắt đầu hỏi; một tỳ kheo khác, gọi là vị duy na của Tăng, đại diện Tăng trả lời;
hỏi và trả lời lần lượt diễn ra như sau:
Hỏi:
Tăng đã họp chưa?
Đáp:
Tăng đã họp.
Hỏi:
Hòa hiệp không?
Đáp:
Hòa hiệp.
Hỏi:
Người chưa thọ cụ túc đã ra chưa?
Đáp:
Đã ra (hoặc nói: Trong đây không có người chưa thọ cụ túc).
Hỏi:
Các tỳ kheo không đến có thuyết dục không?
Đáp:
Không (nếu không có ai gởi dục. Có thì đáp là có và thuyết dục)
Hỏi:
Tăng nay hòa hiệp để làm gì?
Đáp: (nói
tăng sự) yết ma.
Các vấn đáp
trên có mục đích biểu hiện cụ thể sự thanh tịnh và hòa hiệp của Tăng qua ngữ
nghiệp. Tăng có thanh tịnh và hòa hiệp thì căn bản nghiệp đạo của yết ma mới có
thể thành tựu.
Vấn đáp
1, có mục đích xác nhận sự tập hợp của Tăng là đúng pháp. Tăng tập họp đúng
pháp là Tăng túc số. Mỗi loại yết ma đều có yêu cầu túc số tối thiểu nhất định,
tương xứng với đối tượng của yết ma. Vấn đề túc số Tăng sẽ được nói sau.
Vấn đáp
2, xác nhận sự hòa hiệp của Tăng. Trong cùng một giới, nếu Tăng không được xác
nhận là hòa hiệp thì yết ma của Tăng bất thành.
Vấn đáp
3, là kiểm điểm thành phần của Tăng. Những người chưa thọ cụ túc, nghĩa là
chưa đắc giới để thành tựu bản thể của tỳ kheo, không phải là thành phần của
Tăng không được tham dự yết ma của Tăng.
Vấn đáp
4, có một vài thay đổi tùy theo loại yết ma. Như các yết ma kết tiểu hay đại
giới, không tỳ kheo nào được vắng mặt dù bất cứ lý do nào, do đó hoàn toàn không
cho phép thuyết dục và như vậy vấn đáp này được bỏ qua.()
Trong trường hợp thuyết giới, các tỳ kheo đang có mặt trong đại giới, nhưng có
duyên sự chính đáng được phép không tập họp trong giới trường thuyết giới thì
phải gởi dục và thanh tịnh. Gởi dục là gởi ý chí tùy thuận Tăng, sẽ chấp hành
bất cứ một quyết định nào của Tăng. Và cũng phải báo cáo cho Tăng biết là đối
với các học xứ của tỳ kheo mình hoàn toàn thanh tịnh .()
Như vậy, trong trường hợp tác pháp thuyết giới, vấn đáp này cần nói đủ như sau:
- Các tỳ
kheo không đến có thuyết dục và thanh tịnh không?
Cũng trường
hợp tác pháp thuyết giới, vì theo điều Phật chế, tỳ kheo ni tăng mỗi nữa tháng
phải đến Tăng cầu thỉnh giáo thọ sư, là một trong Tám kỉnh pháp của tỳ kheo ni,
do đó, sau vấn đáp 4, còn có thêm vấn đáp này nữa.
- Có ai
sai tỳ kheo ni đến thỉnh giáo giới hay không?
Nếu có thì
đáp có, nếu không thì đáp không. Chi tiết của các việc này sẽ được nói rõ trong
chương thuyết giới.()
Vấn đáp
5, là xác định mục đích mà Tăng tập họp để tác pháp. Như nếu tập họp để
thuyết giới, thì đáp là: yết ma thuyết giới, nếu để kết đại giới thì đáp: yết ma
kết đại giới v.v….
Trên đây là
văn tiền phương tiện của yết ma. Nhưng pháp thức yết ma có đơn có kép khác nhau,
do đó trong một lần tác pháp, có trường hợp chỉ có một tiền phương tiện cho
nhiều tác pháp yết ma, nhưng cũng có trường hợp phải có mỗi tiền phương tiện cho
mỗi tác pháp yết ma. Thí dụ trường hợp tự tứ hay thuyết giới. Trong trường hợp
tự tứ, tác pháp chủ yếu là đơn bạch yết ma. Nhưng vì Tăng đông, cần phải sai
người hành trù để kiểm điểm tăng số, thì có thêm bạch nhị yết ma để Tăng sai
người hành xá la. Hoặc cần có người nhận sự tự tứ của các tỳ kheo, thì có thêm
bạch nhị yết ma để Tăng sai tỳ kheo làm người nhận tự tứ. Tất cả các yết ma này
đều là gia hành của yết ma tự tứ. Do đó, trong vấn đáp 5, câu trả lời vẫn phải
nói là yết ma tự tứ. Mặc dù tiếp theo đó bạch nhị Tăng sai tỳ kheo hành trù hay
nhận tự tứ rồi mới đến đơn bạch tác pháp tự tứ sau cùng. Như vậy, trong một lần
tập Tăng, cùng một tiền phương tiện gồm vấn đáp 1, 2, 3, 4, mà tác pháp nhiều
loại yết ma, lời văn vấn đáp 5 thay đổi theo từng việc.
Trường hợp
khác, như giải và kết đại giới hay tiểu giới. Sau khi tác tiền phương tiện để
tác pháp yết ma giải giới, lại cần có tiền phương tiện khác để yết ma kết giới.
Mặc dù thời gian của kết giới và giải giới được tiến hành liên tục, nhưng bản
chất của hai loại yết ma khác nhau, do đó không thể cùng chung một tiền phương
tiện. Tức là, bắt đầu từ vấn đáp một cho đến sau cùng hỏi và đáp: Tăng nay hòa
hiệp để làm gì? - Yết ma giải đại giới. Sau khi xong tác pháp giải giới, lại tác
tiền phương tiện khác, cũng bắt đầu với vấn đáp 1 cho đến sau cùng hỏi: Tăng nay
hòa hiệp để làm gì? Đáp Yết ma kết đại giới. Như thế gọi là tác pháp đơn. Nghĩa
là một tiền phương tiện cho một tác pháp duy nhất chứ không được phép kiêm cả
hai.
Có trường
hợp nhất định đơn, như yết ma kết và giải giới v.v… có trường hợp nhất định kép,
như truyền thọ cụ túc v.v…, có trường hợp bất định, như thuyết giới hay tự tứ
v.v…. nếu tiền phương tiện không được thực hiện đúng theo các tác pháp đơn hay
kép hay bất định như thế thì yết ma của tăng bất thành.
Sau khi
tiền phương tiện, tức gia hành của yết ma được thành tựu, bây giờ tùy theo loại
yết ma, hoặc đơn bạch, hoặc bạch nhị, hoặc bạch tứ, cần phải đúng pháp mà thực
hiện để cho căn bản nghiệp đạo của yết ma được phát sinh, và do thế yết ma của
Tăng được thành tựu. Văn của mỗi loại yết ma này sẽ được nói trong các chương
liên hệ.
Sau khi căn
bản nghiệp đạo của yết ma đã thành tựu, từ đó là hậu khởi của yết ma. Thí dụ,
sau đơn bạch thuyết giới, thì việc tụng đọc các học xứ trong giới kinh, từ bài
tựa cho đến các bài kệ thất Phật và cuối cùng là các kệ tán giới v.v… cho đến
cuối cùng các tỳ kheo đều ra khỏi giới trường thuyết giới, trọn cả giai đoạn này
gọi là hậu khởi của yết ma. Hậu khởi cũng phải được tiến hành như pháp. Thí dụ,
nếu là yết ma thuyết giới, thì phải đọc trọn giới kinh từ đầu đến cuối. Nếu vì
nạn duyên không thể đọc trọn, thì trường hợp nào có thể đọc đến đều khoản nào
cũng phải như pháp chứ không thể tùy tiện muốn đọc đến đâu và muốn nghỉ ở đâu.
Hoặc trong yết ma tự tứ cũng vậy. Sau đơn bạch tự tứ, các tỳ kheo bắt đầu lần
lượt nói tam sự tự tứ, cho đến tỳ kheo cuối cùng. Nếu còn một tỳ kheo nào chưa
kịp nói tam sự tự tứ mà Tăng đã giải tán, thì hậu khởi bị đứt ngang, dù tác pháp
yết ma có thành tựu đúng pháp, nhưng hiệu lực của yết ma bị giảm sút.
Do vậy,
trong khi tác pháp yết ma, phải thực hiện cho hoàn tất đúng pháp cả ba giai đoạn
của yết ma, không thể tiện thêm bớt.
Tùy theo,
mỗi loại yết ma cần hội đủ một số yếu tố nhất định mới thành tựu. Thí dụ, yết ma
truyền giới cụ túc, gồm 4 yếu tố thành tựu: 1) Nhân thành tựu, tư cách
giới tử đầy đủ. 2) Tăng thành tựu, tăng đủ số, gồm 5 hay 10 tỳ kheo tùy
địa phương. 3) Giới thành tựu, giới trường hay tiểu giới đã được tác pháp ấn
định như pháp. 4) Yết ma thành tựu, các giai đoạn của yết ma, gia hành, căn bản
và hậu khởi được thực hiện đầy đủ như pháp.
Tổng quát
có 4 yếu tố căn bản để yết ma được thành tựu: y xứ, giới, túc số và pháp thức.
1.
Y xứ: hay đối tượng của yết ma, như đã nói rõ ở trên.
2.
Giới: hay cương giới, sẽ được nói rõ trong chương tiếp theo
(ChươngII)
3.
Túc số: mỗi loại yết ma được thực hiện với một túc số tối thiểu.
Có 4 trường hợp túc số Tăng, tức cũng là bốn phân loại Tăng theo túc số như đã
nói ở trên. Nhưng túc số ở đây không phải kể theo đầu người, mà là kể theo phẩm
tính, tức là người đã thọ cụ túc, hoàn toàn thanh tịnh; nếu có phạm tội thì đã
sám hối như pháp, và phải cùng hiện diện trong một cương giới. Nếu đứng ngoài
các đường ranh của cương giới, hay dù ở trong cương giới nhưng bay lên khỏi mặt
đất, thảy đều không được kể là túc số.
Ở đây cũng
nên nói thêm một số chi tiết về túc số tăng bốn người. Nếu có bốn tỳ kheo trở
lên cùng tập hợp trong phạm vi một cương giới thì đủ để thành Tăng thể và có thể
tác pháp cho các Tăng sự như thuyết giới. Tuy nhiên, trong trường hợp tự tứ, nếu
cần có tỳ kheo tăng sai, thì người thọ sai ấy là đối tượng của yết ma, không thể
kể trong túc số bốn người. Các trường hợp tương tự khác, như phân chia vật dụng
giữa Tăng. Cần có người thọ sai vì là đối tượng của yết ma tăng sai do đó cũng
không được kể trong túc số bốn người. Nói tóm lại, trong các trường hợp tương tự
như thế, túc số Tăng phải kể là năm người, mặc dù tự bản chất, các loại yết ma
này có thể được tác pháp với túc số tăng bốn người.
Ngoài ra,
trong các loại yết ma, có các trường hợp cộng và bất cộng khác nhau. Bất cộng là
tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni tăng không được tác pháp chung. Như vậy, trong túc số
tỳ kheo không thể kể tỳ kheo ni vào và ngược lại cũng vậy.
4. Pháp
thức: Pháp thức thành tựu hay yết ma thành tựu là các quá trình diễn tiến
của yết ma được thực hiện như pháp, theo thứ tự mạch lạc. Chi tiết của quá trình
này đã được nói trên.
Tăng già
yết ma là biểu hiện tuyệt đối của sự thống nhất ý chí của Tăng. Do đó, khi Tăng
tác pháp, nếu có người đủ tư cách phủ quyết nói lên lời không chấp thuận tăng sự
đang được tác pháp, thì yết ma bất thành. Không có trường hợp đa số áp đảo thiểu
số mà luôn luôn phải là sự thuần nhất. Già yết ma tức là tăng sự bị phủ quyết.
Nhưng ai có tư cách phủ quyết này? có bốn trường hợp: ()
1.
Người được kể trong túc số tăng nhưng không được phép ngăn yết ma (tức
phủ quyết tăng sự): đó là những người đang là đối tượng của yết ma ha trách, yết
ma tẩn xuất, yết ma y chỉ, yết ma cấm không cho đến nhà bạch y
2.
Người không được kể trong túc số Tăng nhưng có quyền ngăn yết ma: đó là
người đang cầu thọ cụ túc. ()
3.
Người không được kể là túc số và cũng không có quyền ngăn yết ma: như khi
tỳ kheo tăng tác pháp, thì tỳ kheo ni không được kể trong túc số và cũng không
được phép ngăn. Những người khác chưa thọ cụ túc, những người phạm biên tội,
những người tặc tâm thọ giới, hoàng môn, ngũ nghịch, tỳ kheo đã bị tác pháp diệt
tẩn, biệt trụ trong khi sám tăng tàn, tỳ kheo không cùng trú xứ, tỳ kheo đang
hiện thần thông bay cách mặt đất, tỳ kheo ở ngoài tầm thấy và nghe khi Tăng tác
pháp, cùng những người đang là đối tượng của yết ma. Tất cả các hạng người vừa
nêu, không được kể trong túc số Tăng cũng không được phép ngăn Tăng tác pháp yết
ma.()
4.
Ngoài các hạng người kể trên, tỳ kheo thanh tịnh hiện diện được kể trong
túc số và có quyền ngăn yết ma. Trong trường hợp bị ngăn như vậy, yết ma bất
thành.
Trên đây đã
nói về ba y xứ và bốn yếu tố thành tựu của yết ma và cũng đã nói rằng thể tính
của tăng yết ma là ngữ nghiệp. Tất cả những điều đó là những điều kiện cần
nghiệm xét và cần hội đủ để yết ma của Tăng được thành tựu và có hiệu lực. Ở đây
sẽ nói đến các phi tướng của yết ma, tức những dấu hiệu cho biết yết ma không
thể thành tựu. Các dấu hiệu này căn cứ trên hai yếu tố để nhận biết. Đó là nhân
và pháp. Nhân hay nhân cách là thẩm quyền của một tỳ kheo trong túc số tăng, hay
toàn thể Tăng, có thể được sử dụng trong một giới hạn nào đó. Pháp, tức qui tắc
tác pháp. Chức năng của hai yếu tố này là kết hợp tất cả điều kiện cần có của
Yết ma thành một chỉnh thể thống nhất. Một trong hai nếu không toàn vẹn, dấu
hiệu bất thành của yết ma sẽ được nhận thấy.
1.
Phi pháp nhi tì ni: trong ba loại yết ma đơn bạch, bạch nhị và
bạch tứ, tùy theo tầm mức quan trọng của từng Tăng sự mà áp dụng. Với tăng sự
chỉ cần đơn bạch là đủ, nhưng Tăng lại tác pháp bạch nhị hay bạch tứ. Hoặc bạch
yết ma không theo thứ tự mạch lạc, như yết ma trước rồi bạch sau. Tất cả những
trường hợp như vậy gọi là phi pháp, nghĩa là tác pháp không đúng pháp thức. Mặt
khác, hoặc một người, cho đến hai hay ba người, chưa đủ tăng số mà tác pháp để
cử tội một người, cho đến hai hay ba người, hay cử tội tăng ().
Những trường hợp như vậy gọi là phi tì ni, vì nhân cách vượt ngoài thẩm quyền mà
luật đã qui định.
2.
Phi pháp biệt chúng: tác pháp không đúng pháp thức và Tăng không
được hòa hiệp, đây gọi là phi tướng của yết ma do phi pháp và biệt chúng. Phi
pháp ở đây cũng giống như đã nói ở trên. Biệt chúng là do sự tập họp tăng không
đúng qui tắc. Thí dụ trong trường hợp tự tứ hay thuyết giới theo qui tắc thì tất
cả tăng đang có mặt trong cùng cương giới của trú xứ đã được ấn định đều phải
tập họp toàn bộ, nếu không tập họp toàn bộ, và những người do duyên sự Tam bảo
được phép không đến nhưng lại không gởi dục, hoặc gởi dục không đúng pháp. Như
vậy, Tăng có thể bị chia thành hai chúng không hòa hợp, do đó gọi là biệt chúng.
Hoặc trong trường hợp truyền giới cụ túc, túc số tối thiểu phải mười vị tỳ kheo
cùng tập họp trong phạm vi của giới trường, nhưng cùng trong giới trường mà kẻ
đứng người ngồi không đồng nhất, thì đây cũng gọi là biệt chúng.
3.
Phi pháp hòa hiệp: Tăng hòa hiệp, nghĩa là không có biệt chúng,
nhưng các loại yết ma được áp dụng lại không đúng tầm mức quan trọng của các
tăng sự.
4.
Như pháp biệt chúng: Trái với các trường hợp phi pháp đã nói trên
tức là như pháp. Dù yết ma như pháp, nhưng chúng không hòa hiệp, cũng là phi
tướng của yết ma.
5.
Pháp tương tự biệt chúng: Các loại yết ma đơn bạch, bạch nhị hay
bạch tứ được áp dụng đúng cách theo tầm mức quan trọng của tăng sự, nhưng khi
tác pháp thì không đúng qui tắc, nghĩa là không theo thứ tự tác bạch trước rồi
yết ma (lấy biểu quyết) sau mà lại yết ma trước tác bạch sau. Loại yết ma không
đúng như thứ tự tác pháp điên đảo như vậy, gọi là tác pháp tương tự. Biệt chúng
thì như đã nói trên.
6.
Pháp tương tự hòa hiệp: Trái với biệt chúng là hòa hiệp. Pháp
tương tự thì giống như điều 5 vừa nói.
7.
Bị ngăn mà không đình chỉ: Yết ma bị ngăn cản đúng pháp, nghĩa là
người ngăn đủ tư cách đề ngăn, và ngăn đúng cách. Dù bị ngăn, tức bị phủ quyết,
nhưng Tăng vẫn cứ tiến hành tác pháp, như thế cũng là phi tướng của yết ma.
Nói tóm
lại, nếu phạm một trong bảy phi tướng kể trên, thì yết ma của Tăng bất thành, và
quyết định của Tăng không thể có hiệu lực.
Sự tồn tại
của Tăng là sinh mạng của Phật Pháp. Thanh tịnh và hòa hiệp là yếu tố của nền
tảng tạo thành sinh mạng của tăng. Cũng như bất cứ sự tồn tại của một cộng đồng
xã hội nào trong thế gian đều phải đặt trên nền tảng là sự thống nhất ý chí và
hành động; mà biểu hiện của sự thống nhất này là sự thống nhất quyết định và
mệnh lệnh được ban hành. Cũng vậy, Tăng có được sự hòa hiệp là do sự thống nhất
quyết định, và quyết định ấy được ban hành bằng mệnh lệnh mà tất cả thành phần
của Tăng phải tuân theo. Làm thế nào để có sự thống nhất ấy là chức năng của yết
ma.
Tuy nhiên,
tổ chức Tăng già, tức cộng đồng các đệ tử xuất gia của Phật, không giống như bất
cứ tổ chức nào của thế gian, cho nên các pháp yết ma của Tăng có những sắc thái
và nội dung riêng biệt.
Như đã nói,
tăng già yết ma là một hình thái khác của cộng nghiệp, hay hành vi tập thể.
Trong các cộng đồng của thế gian, vì mỗi tổ chức có một hay nhiều mục tiêu khác
nhau, và do đó, quan niệm về bản chất và sắc thái hành động để đạt đến mục đích
đó cũng khác nhau. Trong Phật pháp, mục đích tối thượng là giải thoát, là đạt
đến đạo quả của Niết bàn. Do sự chi phối của nghiệp lực con người có thể bị đoạ
lạc hay được thăng tiến, trở nên thấp hèn hay cao thượng. Sự chuyển hướng của
hành động là sự chuyển hướng bản chất của con người, thay đổi xu hướng đọa lạc
thành xu hướng siêu việt, đưa con người từ chỗ thấp hèn lên đến chỗ cao thượng.
Vì vậy quan niệm về bản chất và biểu hiện của nghiệp trong giáo pháp của Phật
không giống như các quan điểm về triết lý hành động của thế gian. Chính do điểm
này mà các yết ma của Tăng, mặc dù xét trên hình thức thì đại khái cũng giống
như các nguyên tắc sinh hoạt trong các cộng đồng xã hội, dù vậy, bản chất và sắc
thái yết ma của Tăng lại hoàn toàn khác hẳn. Nếu nắm vững giáo lý về nghiệp, gồm
cả biệt nghiệp và cộng nghiệp, mà đức Phật đã giảng dạy, thì có thể nắm vững
được những điểm tinh yếu của Tăng già yết ma.
Nguyên lý
căn bản của nghiệp trong Phật pháp có thể được phát biểu tóm tắt như vầy: "Sống
là hành động" nếu muốn nói theo ngôn ngữ thông thường. Hoặc hói: "cái gì hiện
thực, cái đó có tác dụng và ngược lại cái gì có tác dụng, cái đó hiện thực", đó
là muốn nói theo ngôn ngữ triết lý. Dù muốn nói theo các nào, nói là hành động,
hay nói là tác dụng, thảy đều là những cách nói khác về nghiệp. Yết ma là dấu
hiệu cho sự tồn tại hay tan vỡ của Tăng. Với tính chất quan trọng như vậy, việc
nghiên cứu các pháp yết ma là phận sự không thể nào xao lãng đối với tỳ kheo.
--- o0o ---
Mục Lục Toàn Tập
Tập 1
|
1
|
2-0
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
Tập 2
|
7
|
8
| 9-1
|
9-2
|
9-3
|
9-4
|
9-5
|
9-6
|
9-7
|
9-8
|
10
Tập 3 |
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
|
20
--- o0o ---
Source:
www.phatviet.net
Vi tính: Nguyên Trang, Nhị Tường - Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-06-2004