NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2001
TOÀN TẬP
TÂM NHƯ TRÍ THỦ
--- o0o ---
TẬP I
Bồ tát Thiên thân tạo
Pháp sư Cưu ma la thập dịch
Phạn văn ra Hán văn
Thích Trí Thủ dịch Hán văn ra Việt văn 1962
Bồ tát Thiên Thân Ngài sanh trưởng trong gia đình thế phiệt, tại thành La
duyệt kỳ, Ấn độ, sau Phật nhập diệt 900 năm. Thân sinh tên là Quang Cái, mẹ tên
là Mghiêm Nhất, anh ruột là ngài Vô Trước Bồ tát.
Hai ông bà Quang Cái tin Phật chân thành, hằng ngày chuyên lo tu nhân tích đức,
nhân dân trong xứ bấy giờ vô cùng kính phục, ca ngơi, nhất là nhờ có hai người
con thông minh tài trí cũùg như đức hạnh không ai sánh kịp.
Lớn lên, Vô Trước và Thiên Thân cả hai anh em đều xuất gia học Phật, nhưng hướng
đi của hai người khác nhau: Ngài Vô Trước xu hướng Đại thừa, ngài Thiên Thân
thực hành theo Tiểu thừa.
Nhờ nhân duyên trong nhiều kiếp trước, các ngài xuất gia không bao lâu, Tam tạng
kinh điển đều thông hiểu sâu rộng. Bấy giờ cả hai ngài đều hết sức xiển dương
giáo pháp theo đường lối riêng của mình.
Ngài Vô Trước tạo luận để tuyên dương giáo pháp Đại thừa thì ngược lại ngài
Thiên Thân trước tác 500 bộ luận để bài xích Đại thừa và nêu cao giáo pháp Tiểu
thừa.
Ngài Vô Trước rất lo ngại em mình đã lạc hướng, không những có hại cho bản thân
mà còn có hại cho đạo pháp nữa. Tìm cách cứu em quay trở lại với giáo pháp Đại
thừa, nên ngài Vô Trước liền thị hiện bệnh nặng, cho mời ngài Thiên Thân đến ngỏ
lời vĩnh biệt:
-
Anh chắc không qua khỏi !
-
Anh đau về bệnh gì mà mau yếu thế ?
-
Vì em !
-
Ngạc nhiên, ngài Thiên Thân hỏi tiếp :
-
Em có chuyện gì làm cho anh phải đau?
-
Em hủy báng giáo pháp Đại thừa, tội ấy cực trọng, sợ em sẽ đọa địa ngục vô gián,
anh quá lo nên anh bệnh !
Ngài Thiên Thân vô cùng cảm động, nhận thấy chỗ lỗi lầm của mình, nhân sẵn có
con dao bên cạnh, muốn tỏ cho ngài Vô Trước thấy lòng hối hận của mình, bèn cầm
dao đưa lên và nói:
Giờ đây, trước anh, em xin cắt lưỡi, chặt tay để chuộc tội.
Không ! Không ! Làm thế không chuộc
được tội đâu ! Em đã dùng lưỡi biện luận, tay trước tác, hủy báng Chánh pháp.
Giờ đây cũng dùng chính lưỡi ấy, tay ấy mà xiển dương chánh pháp mới chuyển được
tội !
Từ
đấy, ngài Thiên Thân vận dụng hết tâm trí và năng lực, trong thời gian ngắn đã
trước thuật500 bộ luận xiển dương Đại thừa, thuyết phục hàng muôn người trở về
Đại thừa, làm cho Đại thừa chói sáng khắp nơi.
Ngài Thiên Thân suốt đời chăm lo tu luyện, một niệm hiến thân vì Đạo, xiển dương
chánh pháp, phục vụ chúng sanh. Ngài đã chứng đến bậc Đại thừa gia hạnh vị.
Do
tài trước tác ngàn bộ luận cả tiểu thừa và đại thừa, nên mọi người tôn xưng ngài
làThiên Thân hay Thiên bộ luận sư (Vị luận sư làm ngàn bộ luận) và cũng do tài
thuyết phục thâu nhiếp người đời hầu hết hướng về ngài, thân cận học hỏi, cúng
dường nên còn có tên là Thế Thân. Chính tên ngài tiếng Phạn: Vasubandhu, dịch âm
là Bà tu bàn đầu.
Ngài là vị tổ thứ 23 ở Ấn độ, đắc pháp với ngài Xà dạ da. Ngài cùng anh là Vô
Trước bồ tát chấn hưng giáo pháp đại thừa Duy thức tôn, nên riêng về tôn này,
ngài là vị tổ thứ ba, thừa tiếp giáo nghĩa của đức Di lặc từ tôn và ngài Vô
Trước bồ tát.
Ngài Thiên Thân thọ tám mươi tuổi, tịch tại thành A du ca.
Hiện nay, nếu ai nghiên học về Duy thức thì không ai là không nhớ đến công hạnh
và qui ngưỡng cao danh của Ngài.
PHẨM THỨ NHẤT
Kính lễ vô biên trần sát độ
Vị lai, quá khứ, hiện tại Phật,
Bậc trí bất động như hư không,
Đấng Cứu thế Đại bi Đại nguyện.
Có diệu pháp tối
thượng đại phương đẳng, là pháp tu hành của đại Bồ tát Ma đắc lặc già tạng
()
là pháp khuyến khích ưa thích tu tập đạo vô thượng bồ đề, pháp ấy thường khuyến
chúng sanh phát tâm sâu rộng, xây dựng thệ nguyện đến mức tuyệt đối trang
nghiêm, xả bỏ thân mạng, của cải, thâu phục kẻ tham lẫn; tu năm tụ giới (),
hóa đạo kẻ phạm cấm; thực hành rốt ráo nhẫn nhục, điều phục những kẻ sân si;
phát tâm dũng mãnh tinh tấn an lạc cho chúng sanh; tu tập các pháp thiền định,
để soi thấu mọi tâm địa, tu hành trí huệ, diệt trừ vô minh; chứng nhập pháp môn
chân như, hầu xa lìa các chấp trước; nêu rõ hạnh vô tướng thậm thâm, xưng tán
công đức, làm cho Phật chủng không đoạn. Có vô lượng phương tiện như vậy để tán
trợ làm pháp nhập môn thanh tịnh vào đạo bồ đề nên tôi vì tất cả những bậc
Thượng thượng thiện nhơn phân biệt chỉ bày khiến hết thảy đề chứng quả vô thượng
Chánh đẳng chánh giác (Phật quả).
Này các Phật tử ! Nếu các đệ tử của Phật, thọ trì lời Phật và vì chúng sanh diễn
thuyết chánh pháp, thì trước tiên nên xưng dương tán thán công đức của Phật.
Chúng sanh nghe rồi mới phát tâm cần cầu trí huệ Phật; nhờ sự phát tâm đó mà
Phật chủng bất đoạn.
Nếu tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di trong khi tu đạo bồ tát nhớ nghĩ
Phật, nhớ nghĩ pháp, lại nhớ nghĩ Như lai vì sự cần cầu chánh pháp, trải qua vô
số kiếp chịu các cần khổ. Vì nhớ nghĩ như thế nên nói pháp cho các bồ tát nghe,
dù chỉ một bài kệ, bồ tát được nghe pháp ấy hoan hỷ lợi ích (thị giáo lợi hỷ),
trồng được căn lành, tu tập theo Phật pháp, chứng được quả vô thượng Chánh đẳng
chánh giác.
Vì
muốn đoạn trừ các khổ não vô thỉ sanh tử cho vô lượng chúng sanh cho nên đại bồ
tát muốn thành tựu vô lượng thâm tâm tinh tấn tu tập phát nguyện rộng lớn, thi
hành đại phương tiện, khởi đại từ bi, cầu đại trí tuệ tối thượng tuyệt đỉnh. Cầu
đại pháp của chư Phật, như vậy thì nên biết pháp ấy là vô lượng vô biên. Vì pháp
vô lượng nên phước đức quả báo cũng vô lượng. Như lai dạy rằng: các vị bồ tát
lúc đầu phát tâm tuy chỉ trong một niệm rất sơ sài mà phước đức quả báo dầu nói
đến trăm ngàn muôn kiếp cũng không hết, huống nữa một ngày một tháng một năm hay
suốt đời phát tâm bồ đề tu tập tinh tấn thì phước đức quả báo đâu có thể nói hết
được. Vì sao? Vì rằng chỗ sở hành của bồ tát là vô tận là muốn khiến cho tất cả
chúng sanh đều an trú Vô sanh pháp nhẫn, được thật chứng Phật quả vô thượng
Chánh đẳng chánh giác.
Nầy các Phật tử ! Bồ tát sơ thỉ phát tâm bồ đề, ví như biển lớn bắt đầu có , nên
biết đó là chỗ an trú của ngọc như ý bảo châu, giá trị tăng dần từ hạ trung
thượng cho đến vô giá, vì thứ bảo châu ấy đều từ biển lớn phát sanh. Bồ tát phát
tâm bồ đề cũng như thế. Khi mới bắt đầu sanh khởi, sơ phát tuy nhỏ, nhưng nên
biết đó là chỗ khởi thỉ của tất cả thiện pháp thiền định, trí huệ của nhơn,
thiên, thanh văn, duyên giác, bồ tát và chư Phật.
Lại nữa, như tam thiên đại thiên thế giới, khi mới bắt đầu thành lập, nên biết
về sau đó là chỗ che chở, nương tựa của tất cả chúng sanh trong 25 cõi. Bồ tát
phát tâm bồ đề cũng như vậy. Khi bắt đầu sanh khởi, bồ đề tâm là chỗ y chỉ che
chở và nương tựa cho tất cả vô lượng chúng sanh trong sáu cõi, bốn loài.Chánh
kiến, tà kiến, tu thiện, làm ác, giữ giới, phạm giới, tôn thờ tam bảo hay hủy
báng chánh pháp, tà ma ngọai đạo, phạm chí, sa môn, sát đế lợi, bà la môn, tỳ
xá, thủ đà ... Bồ đề tâm là y chỉ hết thảy.
Bồ
tát phát tâm lấy lòng từ bi làm đầu. Lòng đại từ của bồ tát vô lượng vô biên nên
sự phát tâm cũng vô lượng vô biên mênh mông như chúng sanh giới. Như hư không
giói, không chỗ nào là không cùng khắp, sự phát tâm của bồ tát cũng như thế, vô
luợng vô biên không có cùng tận. Hư không vô cùng tận cho nên chúng sanh cũng vô
cùng tận. Chúng sanh không cùng tận cho nên bồ tát phát tâm cũng không cùng tận
như chúng sanh giới...Giờ đây tôi xin vâng lãnh trình bày sơ lược để gợi một ý
niệm về sự không cùng tận ấy, từ đây qua Đông phương cùng tột ngàn ức hằng hà sa
vô lượng thế giới chư Phật, Tây, Nam, Bắc phương và bốn phíaThượng phương Hạ
phương mỗi mỗi đều có ngàn ức hằng hà sa vô lượng thế giới chư Phật, mỗi mỗi thế
giới đều nghiền vụn làm vi trần, các vi trần ấy nhỏ đến nổi mắt thường không
trông thấy được. Rồi cho những chúng sanh ở trong trăm ngàn ức hằng hà sa vô
lượng tam thiên đại thiên thế giới đến nhóm họp, chung nhau lấy một vi trần; cho
đến chúng sanh ở trong hai trăm ngàn ức hằng hà sa số vô lượng tam thiên đại
thiêân thế giớ cũng đến nhóm họp chung nhau lấy ra hai vi trần; cứ như thế lần
lượt lấy hết trăm ngàn ức hằng hà sa số vi trần trong khắp mười phương thế giới
chư Phật, số chúng sanh kia chỉ mới một phần ít thôi. Số vi trần ấy hết rồi, thế
mà số chúng sanh kia vẫn còn chưa hết được. Lại nữa, ví như có người chẻ một sợi
lông chia làm trăm phần, dùng một phần lông ấy nhúng vào biển lớn để lấy ra một
giọt nước, tôi nay nói một phần ít chúng sanh thì các người nên hiểu phần ít ấy
cũng chỉ bằng giọt nước, còn những chúng sanh chưa nói đến còn nhiều vô cùng vô
tận, như nước trong biển cả, giả sử chư Phật ở trong vô lượng vô biên a tăng kỳ
kiếp, rộng nói thí dụ cũng không làm sao hết được số lượng chúng sanh. Bồ tát
phát tâm thảy đều che chở cùng khắp số chúng sanh rộng lớn ấy.
Thế nào các thiện nam tử, tâm bồ đề ấy có cùng tận được không? Nếu có bồ tát
nghe nói như vậy mà không kinh hãi, không lo sợ, không thối tâm, không tránh
trút thì nên biết người đó quyết định phát bồ đề tâm được. Dù cho vô lượng chư
Phật ở trong vô lượng a tăng kỳ kiếp tán thán công đức kia cũng không thể hết
được. Vì sao vậy? Vì tâm bồ đề kia không có hạn lượng không thể hết được.Có vô
lượng lợi ích như thế đó, cho nên cần phải tuyên thuyết khiến cho chúng sanh
thảy đều được nghe sự phát tâm bồ đề vậy.
PHẨM THỨ HAI
Bồ
tát phát tâm như thế nào? Vì nhân duyên gì mà tu tập đạo Bồ đề?
Bồ
tát phát tâm bằng cách thân cận thiện tri thức, cúng dường chư Phật, tu tập
thiện căn, lập chí cầu chánh pháp, tâm thường nhu hòa, gặp khổ chịu nhẫn nhục
được, từ bi thuần hậu, thâm tâm bình đẳng, ưa thích pháp đại thừa, mong cầu được
trí huệ Phật. Nếu ai có đầy đủ mười điều nói trên mới có thể phát tâm vô thượng
chánh đẳng chánh giác.
Phát tâm tu tập vô thượng bồ đề lại cần có bốn duyên; một là suy nghĩ đến chư
Phật; hai là quán các tội lỗi của tự thân; ba là thương xót chúng sanh; bốn là
cầu quả tối thắng, tức quả Phật.Nhờ có bốn nhân duyên kia mà tâm bồ đề thêm kiên
cố.
1.
Nghĩ rằng các đức Phật trong ba đời mười phương, lúc mới bắt đầu phát tâm, cũng
đầy dẫy phiền não như ta ngày nay, nhưng cuối cùng các ngài trọn thành được quả
chánh giác để làm đấng Vô thượng tôn. Vì nhân duyên đó nên phát bồ đề tâm.
2.Nghĩ rằng hết thảy các đức Phật trong ba đời nhờ sự phát tâm đại dõng mãnh nên
thảy đều chứng đạo quả vô thượng bồ đề; đạo quả bồ đề ấy đã là pháp có thể đạt
được, thì ta ắt cũng phải đạt được. Vì nhân duyên đó nên phát bồ đề tâm.
3.
Nghĩ rằng hết thảy các đức Phật trong ba đời, nguyện cũng chìm đắm trong cõi vô
minh như ta, nhưng nhờ tích tập khổ hạnh, đập tan thành trì mê lầm, phát sanh
trí huệ sáng ngời mà gầy dựng được tâm thù thắng và thảy đều tự cất mình vượt ra
khỏi ba cõi. Vậy thì ta cũng phải bắt chước theo mà tự cứu độ. Vì nhân duyên đó
nên phát bồ đề tâm.
4.
Nghĩ rằng hết thảy các đức Phật trong ba đời, là những bậc đại hùng lực trong
nhân gian, thảy đều thoát khỏi bể lớn sanh tử phiền não thì ta đây cũng là bậc
trượng phu hẳn cũng có thể tự độ, cũng phải vượt khỏi bể lớn phiền não sanh tử.
Vì nhân duyên đó nên phát bồ đề tâm.
5.
Nghĩ rằng hết thảy các đức Phật trong ba đời phát tâm đại tinh tấn, xả bỏ thân
mạng của cải để cầu nhứt thế trí, thì ta nay cũng nên học theo chư Phật để đạt
được như Phật. Vì nhân duyên đó nên phát bồ đề tâm.
1.
Quán sát tự thân ta là bởi năm uẩn bốn đại cấu hợp lại mà thành rồi vì nó, ta đã
gây ra vô lượng ác nghiệp. Nay muốn xả bỏ nên phát bồ đề tâm.
2.
Quán sát tự thân ta có chín lỗ thông, thường hay lưu xuất những đồ ô uế bất tịnh
nên sanh tâm nhàm chán. Vì nhàm chán nên phát bồ đề tâm.
3.
Quán sát tự thân ta có vô lượng phiền não tham sân si thường thiêu đốt thiện
tâm. Vì muốn diệt trừ các phiền não ấy nên phát bồ đề tâm.
4.
Quán sát tự thân ta không có gì là vững chắc mà chỉ là một chuỗi dài sanh diệt
tiếp nối nhau, chờn vờn như mây bay, mong manh như bọt nổi, toàn là những pháp
hư hoại vô thường. Vì muốn vứt bỏ các thứ ấy nên phát bồ đề tâm.
5.
Quán sát tự thân ta bị vô minh bao phủ, thường tạo ác nghiệp, luân hồi trong sáu
đường quanh quẩn mãi không làm được việc gì lợi ích. Vì không lợi ích đó nên
phát bồ đề tâm.
1.
Thấy các đức Như lai tướng tốt trang nghiêm, hào quang chói lọi , kẻ nào trông
thấy đều dứt trừ được phiền não. Vì muốn tu tập nên phát bồ đề tâm.
2.
Thấy các đức Như lai pháp thân thường trú, thanh tịnh không bị nhiễm ô. Vì muốn
tu tập nên phát bồ đề tâm.
3.
Thấy các đức Như lai tu tập đủ năm pháp thanh tịnh là giới, định, huệ, giải
thoát và giải thoát tri kiến. Vì muốn tu tập nên phát bồ đề tâm.
4.
Thấy các đức Như lai có đủ mười lực, bốn vô sở úy, đại bi và ba niệm xứ. Vì muốn
tu tập nên phát bồ đề tâm.
5.
Thấy các đức Như lai có nhứt thế trí, thương xót chúng sanh, đem lòng từ bi che
chở khắp tất cả, có thể hướng dẫn tất cả kẻ ngu mê theo đường chánh đạo. Vì muốn
tu tập nên phát bồ đề tâm.
1.
Thấy các chúng sanh bị vô minh ràng buộc nên phát bồ đề tâm.
2.
Thấy các chúng sanh bị vô số khổ đau đoanh vây nên phát bồ đề tâm.
3.
Thấy các chúng sanh chiêu tập các nghiệp bất thiện nên phát bồ đề tâm.
4.
Thấy các chúng sanh tạo những tội cực ác nên phát bồ đề tâm.
5.
Thấy các chúng sanh không tu chánh pháp nên phát bồ đề tâm.
V.
Vô minh ràng buộc lại có bốn
điều
a/
Thấy các chúng sanh bị si ác mê hoặc phải chịu đại kịch khổ.
b/
Thấy các chúng sanh không tin nhơn quả tạo tác ác nghiệp.
c/
Thấy các chúng sanh xa bỏ chánh pháp tin theo tà đạo.
d/
Thấy các chúng sanh trôi dạt trong sông phiền não bị bốn giòng nước sanh già
bệnh chết lôi cuốn.
a/
Thấy các chúng sanh sợ sanh lão bệnh tử mà không cầu giải thoát lại gây thêm ác
nghiệp.
b/
Thấy các chúng sanh lo buồn khổ não mà vẫn thường tạo nghiệp, không hề dừng
nghỉ.
c/
Thấy các chúng sanh khổ vì ân ái chia lìa mà không giác ngộ để trừ nhiễm trước.
d/
Thấy các chúng sanh vì hay gặp gỡ oan gia mà vẫn thường ganh ghét nhau gây thêm
oán hận mới.
a/
Thấy các chúng sanh vì lòng ái dục tạo các ác nghiệp.
b/
Thấy các chúng sanh biết tham dục sanh ra khổ mà chẳng chịu bỏ tham dục.
c/
Thấy các chúng sanh tuy muốn cầu an vui mà không chịu xây dựng giới hạnh,
d/
Thấy các chúng sanh tuy không ưa khổ não mà vẫn tạo nhơn khổ không ngừng.
a/
Thấy các chúng sanh hủy phạm trọng giới, tuy là lo sợ nhưng vẫn buông lung.
b/
Thấy các chúng sanh tạo năm nghiệp vô gián rất ác độc, vẫn ngoan cố giấu che
không sanh lòng tàm quí.
c/
Thấy các chúng sanh hủy báng chánh pháp phương đẳng đại thừa chuyên chấp lòng
ngu khởi tâm kiêu mạn.
d/
Thấy các chúng sanh tuy có chút thông minh triết sĩ mà không có chánh tín, cứ
dương dương tự đắc không biết hối cải.
a/
Thấy các chúng sanh sanh trong tám nạn mà chẳng nghe chánh pháp, chẳng biết tu
thiện.
b/
Thấy các chúng sanh may gặp Phật ra đời được nghe chánh pháp mà chẳng chịu thọ
trì.
c/
Thấy các chúng sanh tập nhiễm theo ngoại đạo ép mình tu theo khổ hạnh không chịu
thoát ly.
d/
Thấy các chúng sanh mới tu được định phi tưởng, phi phi tưởng mà đã cho là chứng
niết bàn, nên khi thiện báo đã hết, trở lại sa đọa ba đường dữ (địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh).
Bồ
tát thấy chúng sanh vì vô minh mà liên miên tạo nghiệp đêm dài chịu khổ, xa bỏ
chánh pháp, me lầm đường xuất ly; vì các lẽ ấy, Bồ tát phát tâm đại từ bi, lập
chí cầu đạo vô thượng bồ đề, vội vã như cứu lửa cháy trên đầu, nếu chúng sanh
còn có người bị khổ não thì tức thời sẽ đến cứu vớt không bỏ sót một chúng sanh
nào.
Nầy các Phật tử ! Như trên đây là ta chỉ mới nói sơ lược về sự duyên khởi phát
tâm của các vị muốn tu tập hạnh bồ tát. Nếu quảng diễn ra cho rộng rãi thêm thì
thật là vô lượng vô biên, không bao giờ nói hết được.
PHẨM
THỨ BA
Bồ
tát làm thế nào mà phát tâm xu hướng bồ đề và dùng hành động gì để thành tựu bồ
đề? Người phát tâm bồ tát an trú địa vị Càn huệ ()
trước tiên phải có phát nguyện chơn chánh thâu nhiếp tất cả vô lượng chúng sanh.
Ta cầu đạo vô thượng bồ đề là để cứu hộ độ thoát không phân biệt một loài nào
đều được cứu cánh chứng vô dư niếtbàn ()
không bỏ sót một ai. Vậy nên sơ thỉ phát tâm lấy đại bi làm căn bản, vì do lòng
đại bi ấy, cho nên có công năng nẩy nở lần lượt tăng thắng mười đại chánh
nguyện.
Mười chánh nguyện ấy là những gì?
1.
Nguyện ta đời trước cho đến đời này, có làm những thiện căn gì, xin đem thiện
căn ấy ban bố cho tất cả vô biên chúng sanh đều cùng nhau hồi hướng quả vô
thượng bồ đề; giữ thế nào cho nguyện ấy của ta mỗi niệm tăng trưởng chuyển đời
nầy qua kiếp khác, sanh vào đâu cũng được sự thủ hộ của đại tổng trì, luôn luôn
giữ ở lòng không vì một lẽ gì mà quên mất.
2.
Nguyện ta hồi hướng đại bồ đề rồi, nhờ thiện căn ấy không sanh vào quốc độ không
có Phật, hễ sanh ra thường được cúng dường hết thảy chư Phật.
3.
Nguyện ta được sanh vào quốc độ chư Phật rồi, thường được thân cận hầu hạ tả hữu
như bóng theo hình, không một giây lát xa rời chư Phật.
4.
Nguyện ta được thân cận chư Phật rồi, tùy lòng mong muốn của ta mà chư Phật vì
ta thuyết pháp, liền được thành tựu năm pháp thần thông của bồ tát.
5.
Nguyện ta đã được năm pháp thần thông của bồ tát rồi, liền thông đạt giả danh
lưu bố của thế đế (chơn lý thế tục) được trí chánh pháp đúng như tánh chơn thật
mà chứng ngộ nhất nghĩa đế (chơn lý tuyệt đối).
6.
Nguyện ta được trí chánh pháp rồi, đem tâm thích thú vì chúng sanh thuyết pháp,
đều khiến cho khai giải ‘thị giáo lợi hỷ’ (khai thị chơn giáo lợi lạc hoan hỷ).
7.
Nguyện đã khai giải cho chúng sanh được rồi, dùng sức thần thông của Phật, khắp
đến mười phương vô tận thế giới cúng dường chư Phật và thỉnh thọ chánh pháp,
nhiếp hóa mọi loài chúng sanh.
8.
Nguyện ta ở trước chư Phật thỉnh thọ chánh pháp rồi, liền hay tùy theo căn cơ
chuyển pháp luân thanh tịnh (thanh tịnh thuyết pháp); mười phương thế giới tất
cả chúng sanh nghe ta thuyết pháp, nghe danh hiệu của ta, đều được phát tâm bồ
đề, xả bỏ hết thảy phiền não.
9.
Nguyện khi ta đã làm cho chúng sanh phát tâm bồ đề rồi, thường theo dõi hộ trì,
trừ bỏ các việc không lợi ích, gây cho chúng sanh vô lượng nguồn vui chơn chánh,
xả bỏ thân mạng, tài sản, phụ trách chánh pháp hóa độ chúng sanh.
10. Nguyện ta khi đã phụ trách với chánh pháp, tuy thực hành chánh pháp mà tâm
không chấp trước chỗ sở hành; cũng như sự thực hành chánh pháp của các bồ tát,
không chấp trước chỗ sở hành hay không sở hành, chỉ vì hóa độ chúng sanh mà
không xa bỏ chánh nguyện.
Ấy
gọi là mười đại chánh nguyện của bồ tát phát tâm. Mười đại chánh nguyện nầy cùng
khắp chúng sanh giới thâu nhiếp tất cả hằng sa các nguyện, nếu chúng sanh giới
hết, nguyện ta mới hết. Mà thật ra chúng sanh giới không khi nào hết, thì đại
nguyện ấy của ta cũng không bao giờ hết.
Lại nữa, bố thí là nhơn của bồ đề, vì để nhiếp thủ tất cả chúng sanh. Trì giới
là nhơn của bồ đề, vì được đầy đủ các điều thiện và thỏa mãn bản nguyện. Nhẫn
nhục là nhơn của bồ đề, vì thành tựu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp.
Tinh tấn là nhơn của bồ đề, vì tăng trưởng hạnh lành, siêng năng giáo hóa mọi
loài chúng sanh. Thiền định là nhơn của bồ đề, vì tự điều phục mình và biết được
các tâm hạnh của chúng sanh. Trí huệ là nhơn của bồ đề, vì biết được đầy đủ tánh
tướng của các pháp vậy. Nói tóm lại thì sáu pháp ba la mật là chánh nhơn của bồ
đề, bốn vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả), ba mươi bảy phẩm trợ đạo và muôn hạnh
lành là cùng nhau trợ thành bồ đề. Nếu bồ tát tu tập sáu pháp ba la mật, thì tùy
năng lực thực hành lần lượt được đến gần đạo vô thượng bồ đề.
Các Phật tử ! Người cầu đạo vô thượng bồ đề không buông lung. Hành động buông
lung nó bại hoại gốc lành, nếu bồ tát chế ngự sáu căn (mắt tai mũi lưỡi thân ý)
không để nó buông lung thì người ấy đủ năng lực tu sáu pháp ba la mật. Bồ tát
phát tâm trước hết vận lòng chí thành, lập thề quyết định, Người đã lập thề
quyết định thì không bao giờ còn buông lung giải đải, trễ nải, khinh lờn. Vì
sao? Vì đã lập thề quyết định, thì có năm việc duy trì:
1.
Tâm được kiên cố.
2.
Chế ngự được phiền não.
3.
Ngăn đón được sự buông lung.
4.
Phá trừ được năm điều ngăn che (ngũ cái)
5.
Siêng năng tu hành sáu pháp ba la mật.
Như lời Phật đã tán thán
Như Lai bậc đại trí
Nói rõ các công đức
Nhẫn, huệ và phước nghiệp
Sức thệ nguyện hơn cả.
Lập thệ nguyện như thế nào? Nếu có người đến cầu xin các thứ, lúc bấy giờ ta tùy
theođó mà ban cho, tuyệt nhiên không sanh tâm niệm bỏn sẻn, dù chỉ một niệm nhỏ
nếu sanh ác ý thời gian chỉ như một gảy móng tay, dùng nhơn duyên bố thí ấy để
cầu quả báo tốt, thì ta đã khinh dối mười phương thế giới vô lượng vô biên a
tăng kỳ hiện tại chư Phật, qua đời vị lai cũng quyết chắc không thành quả vị vô
thượng chánh đẳng bồ đề. Nếu ta trì giới gặp cảnh đến đổi mất thân mạng, quyết
tâm thanh tịnh thề không thay đổi, thối hối. Nếu ta nhẫn nhục, thì dù có kẻ vô
lý xâm hại, dù đến cắt da xẻo thịt đi nữa vẫn thường giữ lòng thương xót thề
không sân hận. Nếu ta tu hạnh tinh tấn, rủi gặp khí hậu lạnh nóng, chính quyền
hà khắc, giặc giả, lửa nước, sư tử, cọp beo, đại hạn mất mùa, lụt bão đói rét
v.v... thì cần phải kiên gan trì chí thề quyết không thối chuyển. Nếu ta tu về
thiền định bịngoại cảnh làm rối loạn không thể nhiếp tâm thì cần phải buộc tâm
niệm vào một chỗ, thề quyết không bao giờ khởi loạn tưởng phi pháp. Nếu ta tu
trí huệ, quan sát tánh như thật của tất cả các pháp, cương quyết tùy thuận thọ
trị tánh như thật ấy, đối với thiện, bất thiện, hữu vi, vô vi, sanh tử, niết bàn
v.v... không khởi tâm phân biệt kiến chấp bên này bên kia. Nếu tâm ta loạn tưởng
thối hối bực tức chướng ngại, chỉ trong một gảy móng tay sanh khởi kiến chấp bên
này bên kia, dùng tư tưởng ấy mà tu các hạnh như trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền định, trí huệ v.v... để cầu quả báo tốt, thì ta đã khi dối mười phương thế
giới vô lượng vô biên a tăng kỳ hiện tại chư Phật; qua đời vị lai cũng sẽ quyết
không thành tựu được quả báo vô thượng bồ đề.
Bồ
tát dùng mười đại nguyện hành trì chánh pháp và dùng sáu đại thệ chế ngự tâm
buông lung, thì quyết đủ năng lực tinh tấn tu tập sáu pháp ba la mật thành tựu
đạo quả vô thượng bồ đề (a nậu đa la tam miệu tam bồ đề).
PHẨM
THỨ TƯ
Bồ
tát tu hạnh bố thí như thế nào? Bố thí mà nếu vì tự lợi lợi tha và cả hai đều
lợi, sự bố thí như thế mới có thể trang nghiêm được đạo bồ đề. Bồ tát sở dĩ tu
hạnh bố thí là vì muốn điều phục chúng sanh, làm cho xa lìa sự khổ não. Người tu
hạnh bố thí đối với tài vật của mình thường sanh lòng xả bỏ; đối với người đến
cầu xin thường khởi tâm tôn trọng, tưởng như cha mẹ, sư trưởng, thiện tri thức;
đối với người bần cùng hạ tiện thường khởi tâm lân mẫn tưởng như con một của
mình và tùy sự cần dùng mà đem lòng cung kính hoan hỷ cung cấp. Thế mới gọi là
sơ phát tâm tu hạnh bố thí của bồ tát. Sự bố thí như vậy, tiếng tốt đồn khắp,
ngày sau sanh vào chỗ nào của cải cũng sung túc, ấy là tự lợi. Làm cho lòng
chúng sanh được thỏa mãn, hoan hỷ, điều phục, giáo hóa mọi người không còn tâm
bỏn sẻn, ấy gọi là lợi tha. Đem đức tu bố thí vô tướng lớn lao của mình cảm hóa
chúng sanh khiến đồng tu như mình đồng hướng công đức lợi lạc lớn lao như mình,
ấy gọi là cả hai đều lợi.
Nhơn tu hạnh bố thí, tương lai sẽ được quả vị Chuyển luân thánh vương, cảm hóa
vô lượng chúng sanh, lần lượt hưởng được vô tận pháp tạng của chư Phật, ấy gọi
là trang nghiêm được đạo bồ đề.
Bố
thí có ba loại: Pháp thí (bố thí chánh pháp), Vô uý thí (bố thí sự an vui), Tài
thí (bố thí bằng của cải).
Pháp thí là đánh tan tà kiến, chỉ rõ các tội lỗi chấp đoạn (chết
là hết), chấp thường (hằng còn mãi mãi), phân biệt, giải thích ý nghĩa chơn lý
tuyệt đối, tán thán công đức tinh tấn, chê trách tội ác buông lung, khuyến khích
tu trì giới pháp, khêu gợi phát lòng xuất gia, ấy gọi là pháp thí.
Vô úy thí là khi thấy chúng sanh lâm vào cảnh sợ hãi như chánh
quyền hà khắc, cọp beo thú dữ, nước lửa, giặc cướp, thiên tai nhơn họa v.v. bồ
tát trông thấy hoàn cảnh ấy vận hết năng lực tìm mọi phương tiện cứu chữa, ấy
gọi là vô úy thí.
Tài thí là đem tài vật thân mạng của mình bố thí cho mọi người mà
không lẫn tiếc, trên từ thân thể, ngọc ngà châu báu, xe cộ ngựa voi, gấm vóc
hàng lụa, gạo thóc cơm áo, dưới đến một cây kim, một ngọn cỏ v.v. hoặc nhiều
hoặc ít, tùy sự cần dùng cung cấp thỏa mãn, gọi là tài thí.
Tài thí lại có năm thứ : 1, đem lòng chí thành mà bố thí. 2, đem lòng chánh tín
mà bố thí. 3, tùy thời mà bố thí. 4, tự tay mình bố thí. 5, đúng như pháp mà bố
thí. Ngược lại có năm việc không nên bố thí: của cải phi nghĩa không nên bố thí,
vì đó là tài vật bất tịnh; rượu và thuốc độc không nên bố thí, vì làm tán loạn
chúng sanh vậy; lưới bẩy nơm nò không nên bố thí, vì não hại chúng sanh vậy;
gươm đao súng đạn không nên bố thí, vì sát hại chúng sanh vậy; âm nhạc mỹ sắc
không nên bố thí, vì làm bại hoại tinh thần của chúng sanh vậy. Tóm lại, những
của cải không hợp pháp, gây não loạn cho chúng sanh, không nên đem bố thí. Ngoài
ra tất cả những gì làm cho chúng sanh được an vui thì gọi là bố thí đúng như
pháp.
Những người ưa thích bố thí thì lại đượcnăm thứ danh dự thiện lợi:
1/
Thường được thân cận các bậc hiền thánh. 2/ Tất cả chúng sanh ưa thích nhìn thấy
và gần gũi. 3/ Ở giữa đại chúng được mọi người tôn kính. 4/ Tiếng tốt khen ngợi
đồn khắp mười phương. 5/ Gây nhơn thượng diệu cho quả vị bồ đề. Người tu hạnh bồ
tát gọi là bố thí tất cả (nhất thiết thí).
Bố
thí tất cả không phải là vụ nhiều của cải, mà chính là vụ lòng bố thí vậy. Đúng
như pháp mà cầu tài để đem dùng vào việc bố thí, gọi là thí tất cả. Đem lòng
thanh tịnh, không mưu cầu quanh co mà bố thí, gọi là bố thí tất cả. Thấy người
bần cùng đem lòng thương xót mà bố thí, gọi là bố thí tất cả. Thấy người lâm tai
ách, đem lòng từ bi mà bố thí, gọi là bố thí tất cả. Vật quý trọng ưa thích mà
sẵn lòng bố thí, gọi là bố thí tất cả. Không cần biết trì giới hay phá giới
phước điền hay không phước điền đều bình đẳng bố thí, gọi là bố thí tất cả.
Không cầu quả báo an lạc cảnh nhơn thiên hoan hỷ bố thí, gọi là bố thí tất cả.
Nhất chí cần cầu đạo vô thượng đại bồ đề mà bố thí, gọi là bố thí tất cả. Ưa
thích bố thí, trong khi bố thí thì hoan hỷ, bố thí rồi không ân hận, gọi là bố
thí tất cả.
Bố
thí tất cả là gây nhơn lành: Nếu đem hoa mà bố thí là vì để đầy đủ pháp đà la ni
thất giác hoa vậy. Nếu đem hương mà bố thí là vì muốn đầy đủ hương giới, định,
huệ xông ướp vào thất vậy. Nếu đem quả (trái cây)ø bố thí là vì muốn đầy đủ
thành tựu quả vô lậu vậy. Nếu đem đồ ăn uống bố thí là vì muốn đầy đủ mạng sống
lâu dài, biện tài vô ngại, thân hình đẹp đẽ (sắc), sức lực dồi dào và an lành
vui vẻ vậy. Nếu đem áo quần bố thí là vì muốn trang sức thanh tịnh, trừ bỏ sự hỗ
thẹn vậy. Nếu đem đèn sáng mà bố thí là vì muốn được đầy đủ Phật nhãn soi rõ tất
cả thật tánh và cácpháp vậy. Nếu đem ngựa voi xe cộø bố thí là vì muốn được vô
thượng, đầy đủ thần thông vậy. Nếu đem anh lạc (chuỗi ngọc) mà bố thí là vì muốn
đầy đủtám muơi vẻ đẹp của thân hình vậy. Nếu đem trân bảo bố thí là vì muốn đầy
đủ ba mươi hai tướng tốt của đấng trượng phu vậy. Nếu đem sức lực màbố thí là vì
muốn đầy đủ mười sức lực và bốn vô sở úy của Phật vậy. Tóm lại, cho đến đem
thành trì vợ con, đầu mắt tay chân, cả thân mạng màbố thí, lòng không lẫn tiếc
là muốn đạt đến quả vị vô thượng bồ đề để cứu tất cả chúng sanh vậy.
Bồ
tát Ma ha tát (Đại bồ tát) tu hạnh bố thí đến mức không thấy của cải bố thí,
người bố thí, kẻ nhận bố thí, vì đức vô tướng đó, cho nên đầy đủ Đàn na Ba la
mật (Bố thí thanh tịnh cứu cánh).
PHẨM
THỨ NĂM
(Thi
la ba la mật)
Thế nào là bồ tát tu hạnh trì giới ? Nếu vì tự lợi, lợi tha và cả hai điều lợi
mà trì giới thì sự trì giới như thế mới trang nghiêm được đạo bồ đề. Bồ tát vì
muốn điều phục chúng sanh khiến xa lìa khổ não cho nên trì giới.
Người tu hạnh trì giới là điêu luyện ba nghiệp: thân, khẩu, ý đều được thanh
tịnh, xả bỏ tất cả hành vi bất thiện, luôn luôn thống trách các hạnh phá giới,
trong lòng thường sợ hãi đối với những tội nhỏ; ấy gọi là bồ tát bắt đầu phát
tâm trì giới. Vì sự tu trì giới hạnh mà xa lìa tất cả những tội lỗi xấu xa,
thường được sanh vào cảnh giới tốt đẹp; ấy gọi là tự lợi. Cảm hóa chúng sanh,
khiến đừng phạm các điều ác, ấy gọi là lợi tha. Dùng chỗ tu hành của mình hướng
về quả vị bồ đề dắt dẫn chúng sanh đồng hưởng lợi lạc như mình, ấy gọi là cả hai
đều lợi. Nhân sự trì giới lần lượtsẽ được xả bỏ dục vọng cho đến chứng quả vô
lậu, thành bậc tối thượng chánh giác; ấy gọi là trang nghiêm đạo bồ đề.
Giới có ba loại : Thân giới, khẩu giới và ý giới.
Thọ trì về thân giới là thường xa lìa hành vi ác như sát sanh, trộm cắp và dâm
dục; không giết hại thân mạng người và vật, không chiếm đoạt của cải ai, không
xâm phạm đến ngoại sắc, cũng không tạo các nhơn duyên và phương tiện sát hại,
trộm cắp và dâm dục, không dùng cây, gậy, gạch, đá làm thương tổn chúng sanh.
Nếu là tài vật thuộc về của người, người ta thọ dụng, dầu là một cây cỏ, một
ngọn lá, họ không cholà không nên lấy. Cũng không nên liếc nhìn nữ sắc. Ở trong
bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi phải dịu dàng cẩn trọng, gọi là thân giới.
Hành trì khẩu giới là đoạn trừ tất cả lời nói dối, lời nói hai lưỡi, lời nói thô
dữ, lời nói thêu dệt, thường không gạt gẫm, ly gián sự hòa hợp, phỉ báng, chê
bai, trau chuốt giọng lưỡi và tạo những phương tiện xúc não đến người; nói phải
thành thật, êm dịu, ngay thẳng và lợi ích, khuyến hóa mọi người quay về điều
thiện, gọi là khẩu giới.
Hành trì ý giới là phải diệt trừ lòng tham lam, sân hận và tà kiến; thường giữ
tâm chân chánh, tu tập đức từ bi, không gây các tội lỗi, tin chắc rằng đã gây ra
tội nghiệp thế nào cũng bị quả báo xấu, nhờ sức tư duy ấy mà không tạo các ác
nhơn, đối với tội nhẹ tưởng nhưlà rất nặng, dù cho việc làm lầm lẫn cũng rất sợ
hãi ăn năn; không bao giờ khởi tâm sân hận đến với chúng sanh, thấy chúng sanh
liền sanh tâm aí hộ, nhớ đến ân chúng sanh lòng mong đền đáp mà không tiếc lẫn
vật gì, thường ưa thích làm các phước đức để giáo hóa mọi người, luôn luôn tu
tập từ tâm lân mẫn tất cả, gọi là ý giới.
Tu
mười giới thiện nghiệp trên đây là sẽ có năm việc lợi ích: 1/ chế phục được hành
vi ác. 2/ tạo nên những thiện tâm. 3/ ngăn đón được các phiền não. 4/ thành tựu
được tịnh tâm. 5/ tăng trưởng được giới hạnh. Nếu ai khéo tu hạnh bất phóng dật
(không buông lung) giữ niệm chơn chánh phân biệt thiện ác, nên biết người đó
quyết định đủ năng lực tu mười thiện nghiệp giới. Tám vạn bốn ngàn vô lượng giới
phẩm thảy đều thâu nhiếp vào trong mười giới thiện nghiệp cả. Mười thiện nghiệp
này là căn bản cho tất cả điều thiện, nó đủ năng lực đoạn trừ tội ác của thân,
khẩu và ý, chế phục tất cả những pháp bất thiện, cho nên gọi là giới.
Giới có năm loại: 1. Giới Ba la đề mộc xoa (Tàu dịch là biệt biệt giải thoát) .
2. Giới định cộng (do tu thiền định mà không phạm các tội lỗi).3. Giới vô lậu (
do tu trí huệ vô lậu mà không phạm các tội lỗi). 4. Giới nhiếp căn (thâu nhiếp
các căn mắt tai mũi lưỡi, không buông lung). 5. Giới vô tác (một lần thọ giới,
vĩnh viễn không tạo tội, không thọ giới lần thứ hai, nên gọi là vô tác).
Trước giới đàn, do tam sư thất chứng bạch tứ kiết ma cầu xin lãnh thọ, gọi là
giới ba la đề mộc xoa. Tu theo bốn thiền căn bản, bốn thiền vị đáo, gọi là giới
định cộng. Do tu thiền định, phát sinh trí huệ vô lậu, gọi là giới vô lậu. Thâu
nhiếp các căn giữ lòng chánh niệm, thấy, nghe, hay, biết đối với sắc, thanh,
hương, vị, xúc không bị lôi cuốn quyến rũ, gọi là giới nhiếp căn. Dù bỏ thân
mạng, quyết không gây các điều ác, gọi là giới vô tác.
Bồ
tát tu tịnh giới không như Thanh văn, Độc giác, vì không chung cùng một giới,
nên gọi là khéo trì giới. Vì khéo trì giới nên được lợi ích tất cả chúng sanh;
vì từ tâm trì giới nên cứu hộ chúng sanh đều khiến an lạc; vì bi tâm trì giới,
nhẫn thọ các khổ nên cứu vớt ách nạn cho tất cả; vì hỷ tâm trì giới, nên hoan hỷ
tu điều thiện không bê trể, biếng nhác; vì xả tâm trì giới, nên người oán kẻ
thân đều bình đẳng, xả bỏ được lòng thương ghét; vì ân huệ bố thí mà trì giới,
cho nên điều phục giáo hóa được chúng sanh; vì nhẫn nhục mà trì giới, nên lòng
thương êm dịu, không còn sân hận; vì tinh tấn mà trì giới, nên nghiệp thiện mỗi
ngày mỗi tăng trưởng không còn thối lui; vì thiền định mà trì giới, nên xa lìa
dục vọng không tốt, thiền quán được lên cao; vì trí huệ mà trì giới, nên căn bản
đa văn không bao giờ nhàm chán; vì thân cận thiện tri thức mà trì giới, nêngiúp
nhau chóng thành đạo vô thượng bồ đề; vì xa lìa ác tri thức mà trì giới, nên xả
bỏ cảnh giới ba đường dữ và tám hoạn nạn.
Bồ
tát tu hạnh trì giới thanh tịnh, không nương vào dục giới, không gần sắc giới,
không trú trước vô sắc giới, gọi là giới thanh tịnh. Xả bỏ dục trần, diệt trừ
sân nhuế ngu si, đánh tan vô minh chướng ngại, gọi là giới thanh tịnh. Không
chấp trước những tướng giả danh của năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức , gọi là
giới thanh tịnh. Không bận tâm đến nguyên nhân đầu tiên, không sanh khởi các tà
kiến, không còn ngờ vực, gọi là giới thanh tịnh. Không còn ba căn bản phiền não
tham sân si, gọi là giới thanh tịnh. Không còn ngã mạn, kiêu mạn, tăng thượng
mạn, mạn quá mạn và đại mạn, khiêm tốn thuận hòa, gọi là giới thanh tịnh. Không
bị khen chê lợi hại khổ vui, thương ghét khiến động tâm chí, gọi là giới thanh
tịnh. Không nhiễm giả danh hư vọng của thế tục mà thường tùy thuận chơn lý, gọi
là giới thanh tịnh. Không bứt rứt, không nóng nảy, trầm lặng, vô tư, gọi là giới
thanh tịnh. Tóm lại, cho đến không tiếc thân mạng, quán sát lẽ vô thường, sanh
tâm nhàm chán, dõng mãnh, tinh tấn, chuyên tu thiện nghiệp, gọi là giới thanh
tịnh.
Bồ
tát Ma ha tát tu hạnh trì giới, vì xa lìa được vọng tưởng, nên không còn thấy
lòng mình được thanh tịnh, mới gọi là trì giới ba la mật (trì giới cứu cánh).
PHẨM
THỨ SÁU
(Sàn đề
ba la mật)
Bồ
tát tu hạnh nhẫn nhục như thế nào ? Nếu vì tự lợi, lợi tha và cả hai điều lợi mà
tu hạnh nhẫn nhục thì mới trang nghiêm được đạo bồ đề.
Bồ tát vì muốn điều phục chúng sanh
làm cho đều xa lìa khổ não nên tu nhẫn nhục. Người tu nhẫn nhục, tâm thường
khiêm nhường đối với tất cả chúng sanh, những hành vi tự đắc, kiêu mạn không còn
tồn tại, thấy người thô ác thì khởi lòng lân mẫn, lời nói thường êm dịu để
khuyến hóa mọi người tu theo điều thiện. Phân biệt giảng giải một cách rõ ràng
sự sai khác tốt xấu giữa quả báo sân hận và hòa nhẫn, go5i la2 bồ tát sơ phát
tâm tu hạnh nhẫn nhục. Vì tu nhẫn nhục mà xả bỏ tất cả các điều ác, nên thân tâm
thường được an vui, như thế gọi là tự lợi. Cảm hóa chúng sanh khiến thảy đều hòa
thuận, như thế gọi là lợi tha. Đem sự lợi ích của công phu tu vô lượng nhẫn nhục
của mình giáo hóa chúng sanhđều hưởng lợi lạc như mình, như thế gọi là cả hai
đều lợi. Nhờ nhơn tu hạnh nhẫn nhục mà được thân hình đẹp đẽ. mọi người trông
thấy sanh lòng tôn kính mến yêu, lần lượt sẽ được tướng đẹp thiện diệu như chư
Phât, như thế gọi là trang nghiêm đạo bồ đề.
Nhẫn nhục có ba: nhẫn về thân, nhẫn về miệng và nhẫn về ý. Thế nào gọi là nhẫn
về thân?Nếu gặp trường hợp bị người xâm phạm đánh đập gây thương tích đến thân
thể, vẫn chịu đựng nhẫn nại không sân hận, thấy chúng sanh bị oai võ bức bách
khủng bố, mình đem thân thay thế mà không tránh trút sợ hãi, như thế gọi là nhẫn
về thân. Thế nào gọi là nhẫn về miệng ? Nếu nghe người chưởi rủa mà mình vẫn
thản nhiên im lặng không trả lời, bị la mắng một cách phi lý mà vẫn dùng lời dịu
ngọt hòa thuận ứng đáp lại, bị phao vu nhục nhã làm cho dư luận chê bai xôn xao
mà vẫn thản nhiên thọ được tất cả, như thế gọi là nhẫn về miệng. Thế nào gọi là
nhẫn về ý ? Thấy có người đối xử sân si với mình mà lòng vẫn không giận, bị
người xúc não một cách vô lý mà lòng vẫn bất động, bị hủy báng tàn tệ mà lòng
vẫn không oán trách, như thế gọi là nhẫn về ý.
Ở
đời bị đánh đập có hai loại: một là đánh phải, hai là đánh ngang trái. Nếu mình
có tội lỗi, bị người hiềm khích đánh đập, ta nên nhẫn thọ như uống cam lồ và
phải sanh lòng cung kính đối với người ấy. Vì sao?Vì người ấy có lòng dạy dỗ
điều phục ta, làm cho ta xa tránh được các tội lỗi. Nếu gặp trường hợp không
phân biệt phải trái, bị xâm hại đánh đập một cách vô lý ngang ngược, thì nên suy
nghĩ rằng ngày nay tuy ta vô tội nhưng biết đâu không vì túc nghiệp của đời quá
khứ gây nên? Như vậy, cũng nên nhẫn nại. Lại nữa, nên suy nghĩ thêm rằng thân ta
do bốn đại đất nước gió lửa và năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức cấu hợp giả dối
tạo thành hoàn toàn vô ngã. Như thế, ai là người bị đánh? Lại nữa nên xem người
đó như say, như điên, sanh lòng thương xót họ mới phải, sao lại không nhẫn nại?
Lại nữa, lời chưởi mắng cũng có hai thứ: một là đúng hai là sai. Nếu mắng chưởi
mà đúng thì ta nên sanh lòng hỗ thẹn cải tiến, còn mắng chưởi không đúng thì có
can hệ gì với ta? Mắng chưởi không đúng cũng như tiếng vang, như gió thoảng,
không tổn hại gì đến ta cả. Vậy nên cần nhẫn nại. Sự sân si cũng thế, người ta
sân si với mình, mình nên nhẫn thọ, nếu mình sân si lại với người ta, vì sự sân
si ấy, đời sau sẽ đọa vào ác đạo, chịu quả báo khổ não vô lượng. Vì nhân duyên
đó, nên dù thân ta có bị cắt xẻ phân ly cũng không nên sân hận, cần phải quan
sát nhân duyên của nghiệp trước mà phát lòng từ bi thương xót tất cả. Cái khổ
não nho nhỏ như vậy mà mình chưa nhẫn nại được, thì làm thế nào tự điều phục
được tâm mình, huống nữa là điều phục chúng sanh, khiến tất cả được giải thoát
hết thảy các pháp mà thành tựu đạo quả vô thượng bồ đề.
Nếu là người trí ưa tu hạnh nhẫn nhục thì người ấy sẽ được dung nhan đẹp đẽ,
giàu có của báu, ai trông cũng hoan hỷ kính phục. Lại nữa, quan sát những người
thân hình tàn tật, nhan sắc xấu xí đui què mẻ sứt nghèo hèn thiếu thốn đều là
kết quả của nhân duyên sân si gây nên. Vì những lý do đó, người có trí cần phải
tu hạnh nhẫn nhục. Nhân duyên sanh trưởng nhẫn nhục có mười việc như sau:
1. Không còn thấy tướng ngã (ta) và
vật sở hữu của ngã,
2. Không nhớ nghĩ đến dòng dõi,
3. Phá trừ các kiêu mạn,
4. Không báo thù điều ác,
5. Quán sát tướng vô thường,
6.Tu tập hạnh từ bi,
7. Tâm không buông lung,
8.Thản nhiên trước hoàn cảnh đói no,
vui khổ,
9. Đoạn trừ sân hận,
10. Tu tập trí huệ,
Nếu người nào thành tựu được mười việc trên đây, nên biết người ấây tu tập được
hạnh nhẫn nhục.
Bồ
tát ma ha tát trong khi tu tập hạnh thanh tịnh nhẫn nhục rốt ráo, nếu chứng nhập
không, vô tướng và vô tác mà không cùng hòa hợp với kiến, giác, nguyện, tác và
cũng không ỷ trước vào không, vô tướng, vô nguyện và vô tác. Như vậy kiến, giác,
nguyện, tác đều không. Nhẫn như vậy mới là nhẫn không hai tướng, gọi là nhẫn
thanh tịnh rốt ráo.
Nếu chẳng nhập cảnh giới hết kiết phược hoặc chứng nhập cảnh giới tịch diệt mà
không cùng hòa hợp với cảnh giới hết kiết phược sanh tử và cũng không ỷ trước
vào cảnh giới hết kiết phược tịch diệt như vậy các kiết phược sanh tử đều không,
nhẫn như vậy là nhẫn không hai tướng, gọi là nhẫn thanh tịnh rốt ráo.
Nhẫn như vậy là thuộc về tánh nhẫn, mà đã là tánh thì không phải tự nhiên mà có,
không phải do cái khác mà có, không phải hòa hợp (tự nhiên và cái khác) mà có,
cũng không phải là không có, nó là bất khả phá hoại. Vìlà bất khả phá hoại, nên
nó là vô tận. Nhẫn như vậy là nhẫn không hai tướng, gọi là nhẫn thanh tịnh rốt
ráo. Nhẫn ấy không còn có tác vi hay không tác vi, không chỗ ỷ trước, không phân
biệt, không trang nghiêm, không tu trị, không tiến phát, hoàn toàn không tạo tác
sanh khởi. Nhẫn như vậy gọi là ‘vô sanh nhẫn’. Bồ tát trong khi tu hạnh nhẫn như
thế, tức là đã được thọ ký nhẫn.
Bồ
tát ma ha tát tu hạnh nhẫn nhục, vì không thấy có chúng sanh nên tánh tướng đều
không. Như thế gọi là đầy đủ sàn đề ba la mật, cứu cánh nhẫn nhục.
PHẨM
THỨ BẢY
Bồ
tát tu hạnh tinh tấn như thế nào ?
Tinh tấn mà nếu vì tự lợi, lợi tha và tự tha đều lợi, như thế mới hay trang
nghiêm được đạo bồ đề. Bồ tát sở dĩ tu hạnh tinh tấn là vì muốn thuyết phục
chúng sanh làm cho xa lìa sự khổ não. Người tu hạnh tinh tấn không quản thời
gian, luôn luôn siêng năng tu tập thực hành phạm hạnh thanh tịnh, xả bỏ biếng
nhác, lòng không buông lung, đối với việc lợi ích, dù cho gian nan, lòng vẫn
tinh tấn không bao giờ thối lui. Thế mới gọi là sơ phát tâm tu hạnh tinh tấn của
bồ tát. Vì tu tinh tấn nên được thiện pháp tối thượng nhiệm mầu ở thế gian và
xuất thế gian, ấy gọi là tự lợi. Giáo hóa chúng sanh, làm cho mọi người phát tâm
siêng năng tu thiện, gọi là lợi tha. Đem chánh nhơn tu tập đạo pháp bồ đề của
mình, giáo hóa tất cả chúng sanh đều được lợi lạc như mình, gọi là cả hai đều
lợi. Nhơn tu hạnh tinh tấn mà thu hoặch được quả nhiệm mầu, mỗi ngày càng tiến
đến thanh tịnh, siêu việt các cấp bực, địa vị, thẳng tiến đến quả vị Toàn giác
một cách mau chóng, ấy gọi là bồ tát trang nghiêm đạo bồ đề.
Tu
hạnh tinh tấn có hai mục đích: 1 Vì cầu đạo vô thượng, 2 Vì muốn cứu độ tất cả
chúng sanh đang đau khổ.
Muốn phát tâm tu hạnh tinh tấn, bồ tát cần phải thành tựu mười điều tâm niệm sau
đây: 1 Nhớ nghĩ Phật có vô lượng công đức. 2 Nhớ nghĩ chánh pháp là pháp giải
thoát bất khả tư nghì. 3 Nhớ nghĩ chúng tăng là thanh tịnh vô nhiễm. 4 Nhớ nghĩ
hạnh Đại từ là ban vui cho chúng sanh. 5 Nhớ nghĩ hạnh Đại bi là cứu khổ đau cho
muôn loài. 6 Nhớ nghĩ chánh định là để khuyến khích chúng sanh ưa thích tu
thiện. 7 Nhớ nghĩ chúng sanh đang mê theo tà định, khuyến khích quay trở về
chánh pháp. 8 Nhớ nghĩ thương xót nỗi đau khổ đói khát của loài ngạ quỉ. 9 Nhớ
nghĩ thương xót nỗi khổ đau của loài súc sanh. 10 Nhớ nghĩ thương xót cảnh nước
lửa đau thương vô hạn của địa ngục. Đó là mười điều tâm niệm mà bồ tát phải luôn
nhớ nghĩ. Bồ tát còn phải ghi nhớ công đức của Tam bảo ta phải tu học, từ bi,
chánh định, ta phải khuyến khích; những chúng sanh mê theo tà định và nỗi khổ
của ba đường dữ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh ta phải cứu vớt. Bồ tát chuyên tâm
suy nghĩ như vậy không xao lãng và ngày đêm phải siêng năng tu tập không ngừng,
mới gọi là phát tâm chánh niệm tinh tấn.
Hạnh tinh tấn của Bồ tát lại còn có bốn việc cần làm theo. Nghĩa là tu hành theo
bốn pháp chánh cần:
1. Những điều ác chưa sanh, ngăn ngừa
đừng cho phát sanh.
2. Những điều ác đã sanh, phải liền
trừ diệt
3. Những điều thiện chưa sanh, nên
tìm cách làm cho phát sanh.
4. Những điều thiện đã sanh, nên cố
gắng phát triển tăng tiến.
Bồ
tát tu tập theo bốn pháp chánh cần như thế không dừng nghỉ, mới gọi là tu tinh
tấn. Sư tinh tấn như thế có công năng phá hoại tất cả những chủng tử phiền não
và được tăng trưởng chánh nhơn vô thượng bồ đề. Bồ tát nếu đủ năng lực chịu đựng
tất cả các khổ não về tâm hồn cũng như thể xác, chỉ vì muốn đem lại an lạc cho
tất cả chúng sanh, nên không từ mệt nhọc, ấy gọi là tinh tấn.
Bồ
tát xa lìa sự tinh tấn tà vạy siểm khúc tội ác để tu hành tinh tấn chơn chánh,
nghĩa là tu theo chánh tín, bố thí, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ, từ, bi, hỷ,
xả, đã tu, đang tu và sẽ tu, thành tâm chuyên chú thường xuyên dũng tiến không
ân hận, đối với các thiện pháp và sự cứu khổ cho chúng sanh, như cứu lửa cháy
trên đầu, lòng không thối khuất, Ấy gọi là tinh tấn ba la mật.
Bồ
tát tuy không tiếc thân mạng, nhưng vì cứu độ chúng sanh và truyền bá chánh
pháp, nên cần phải bảo trọng giữ đúng oai nghi và thường tu thiện pháp, tâm
không giải đải, dù mất thân mạng cũng không bỏ chánh pháp. Ấy gọi là bồ tát thực
hành tinh tấn, tu đạo bồ đề. Những người giải đải, không thể nhất thời mà bố thí
tất cả, cũng không thể trì giới, nhẫn nhục đối với khổ não mà siêng năng tinh
tấn, thâu nhiếp thân tâm, nhớ nghĩ đến thiền định và phân biệt được thiện hay
ác. Vậy nên nói rằng sáu pháp Ba la mật là nhờ có tinh tấn mới phát triển lớn
lao. Nếu Bồ tát ma ha tát tu hạnh tinh tấn phát triển mạnh mẽ thời được mau
chóng chứng đạo quả A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề (Vô thượng chánh đẳng chánh
giác = Phật đà).
Bồ
tát khởi tâm tu hạnh tinh tấn là vì phát tâm đại trang nghiêm, lại còn có bốn
việc:
1- Phát đại trang nghiêm,
2- Tích tập dũng kiện,
3- Tu các thiện căn,
4- Giáo hóa chúng sanh.
Thế nào gọi là Bồ tát phát đại trang nghiêm? Bồ tát phát tâm chịu đựng tất cả sự
khổ đau trong đường sống chết không kể đến số kiếp, dù phải trải qua vô lượng vô
biên trăm ngàn muôn ức na do tha hằng hà sa a tăng kỳ kiếp mới được thành Phật
lòng vẫn không chán nản mệt nhọc biếng nhác, gọi là đại trang nghiêm tinh tấn.
Thế nào gọi là tích tập dũng kiện? Bồ táttích tập dũng mãnh thường hành tinh
tấn. Giả như lửa dữ đầy dẫy cả tam thiên đại thiên thế giới, chỉ vì muốn thấy
Phật, muốn nghe chánh pháp, muốn hướng dẫn và điều phục chúng sanh an trú vào
thiện pháp mà cần phải đi qua đường lửa ấy do vì lòng từ bi thúc đẩy nên thề
quyết vượt qua không quản sự thiêu đốt khổ sở, ấy gọi là dũng kiện tinh tấn.
Thế nào gọi là tu các thiện căn? Bồ tát chỉ muốn tu tập thiện căn nên khởi tâm
tinh tấn, vì muốn thành tựu quả vị Nhất thiết trí nên đem tất cả thiện căn đã
gieo trồng thảy đều hồi hướng về đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, ấy gọi là
tu tập thiện căn tinh tấn.
Thế nào gọi là giáo hóa chúng sanh? Nghĩa là Bồ tát khi phát tâm khởi hạnh tinh
tấn để giáo hóa chúng sanh, thì nên biết các tâm chúng sanh không thể kể xiết,
thật là vô biên rộng rãi như hư không. Bồ tát lập thệ nguyện, ta sẽ cứu độ hết
tất cả chúng sanh không bỏ sót một loài nào. Bồ tát sở dĩ chuyên cần tu hành
tinh tấn là chỉ vì giáo hóa chúng sanh ấy mà thôi. Như thế gọi là tinh tấn giáo
hóa chúng sanh.
Nói tóm lại, sở dĩ Bồ tát khởi tâm tinh tấn tu hành công đức mục đích là giúp
cho sự tu hành Phật pháp thành tựu trí huệ vô thượng. Công đức của chư Phật vô
lượng vô biên, nên Bồ tát ma ha tát phát tâm đại trang nghiêm tu hạnh tinh tấn
cũng vô lượng vô biên.
Bồ
tát ma ha tát tu hạnh tinh tấn không rời tâm từ chỉ vì cứu thoát sự khổ cho
chúng sanh. Như thế mới cụ túc tinh tấn ba la mật.
PHẨM
THỨ TÁM
Thế nào là tu tập thiền định ?
Tu
tập thiền định, nếu vì tự lợi, lợi tha và tự tha đều lợi, thiền định như thế mới
trang nghiêm được đạo Bồ đề. Bồ tát sở dĩ tu tập thiền định là vì muốn điều phục
chúng sanh, khiến chúng sanh xa lìa khổ não. Người tu tập thiền định khéo thâu
nhiếp lòng mình, hết thảy loạn tưởng không cho quấy động. Đi đứng nằm ngồi, luôn
luôn giữ gìn chánh niệm, ngược xuôi quán sát, từ đầu đến cổ, xương sống, cánh
tay, ngực, bụng, hông, rún, bàng quang, bắp vế, đầu ống chân, gối, bàn chân, hơi
thở ra vào, tuần tự rõ ràng không còn chao động. Như vậy gọi là Bồ tát bắt đầu
tu tập định tâm.
Nhờ tu định tâm nên không thọ các
điều ác, mà tâm thì được thường vui vẻ; như vậy gọi là tự lợi. Giáo hóa chúng
sanh, khiến chúng sanh tu tập chánh niệm; như vậy gọi là lợi tha. Đem pháp tam
muội thanh tịnh đã lìa khỏi ác giác ác quán của mình đã tu tập được mà hóa độ
chúng sanh, khiến chúng sanh cũng đồng được lợi như mình; như vậy gọi là tự tha
đều lợi.
Nhân tu thiền định, thu hoặch được tám món giải thoát, cho đến Thủ lăng nghiêm,
Kim cang tam muội; như vậy gọi là trang nghiêm đạo Bồ đề.
Thiền định sanh ra là nhờ có ba pháp: một là văn huệ, hai là tư huệ, ba là tu
huệ. Nhờ thực hành ba pháp ấy mà lần lần phát sanh hết thảy tam muội.
Thế nào gọi là Văn huệ ?
Như đối với giáo pháp đã được nghe sanh tâm ưa thích. Lại phải như thế này: Tất
cả các Phật pháp như vô ngại, giải thoát v.v... cần phải nhờ nghe nhiều mới được
thành tựu. Có được quan niệm như thế thời bất cứ lúc nào cũng học chánh pháp,
lòng mình cũng càng thêm tinh tấn, ngày đêm thường thích nghe chánh pháp, không
khi nào nhàm chán. Như vậy gọi là văn huệ.
Thế nào gọi là Tư huệ ?
Suy nghĩ quan sát hết thảy các pháp đúng như thật tướng. Đúng như thật tướng
nghĩa là các pháp hữu vi đều vô thường, khổ, không, vô ngã và bất tịnh. Chúng
vốn niệm niệm sanh diệt, tồn tại không lâu và rất chóng hư hoại. Chúng sanh
không biết như thế để lòng bị trói buộc trong yêu ghét cầu lo theo các pháp ấy,
chỉ vì lửa tham, sân, si thiêu đốt khiến tăng trưởng thêm nhiều khổ não, chồng
chất cho kiếp sống vị lai. Nếu biết được rằng các pháp hữu vi chỉ là huyễn hóa
không có thật tánh, thời đối với bất cứ pháp hữu vi nào, lòng mình cũng sanh
nhàm chán, xa lìa càng thêm tinh tấn và xu hướng về trí huệ Phật. Xu hướng về
trí huệ Phật bằng cách tư duy: trí huệ ấy bất khả tư nghì không thể đo lường,
trí huệ ấy có một đại thế lực không ai hơn nổi. Nhờ tư duy như thế mà tự xây
dựng được cho mình một thành trì an ổn lớn lao, khiến tâm kuhông lo sợ, không
thối chuyển, lại cứu độ được vô lượng chúng sanh khổ não. Biết vì thấy trí huệ
Phật vô lượng như thế, thấy các pháp hữu vi vô lượng như thế, chí nguyện cầu vô
thượng đại thừa mới càng phaấn chấn thêm lên. Như vậy gọi là Tư huệ.
Thế nào gọi là Tu huệ ?
Từ khi bắt đầu quán sát cho đến khi
đạt được quả vị A nậu đa la tam miệu tam bồ đề , gọi là Tu huệ .
1.
Bắt đầu xa lìa các pháp bất thiện về dục giới, còn có giác, có quán ly sanh hỷ
lạc, đi vào định sơ thiền.
2.
Diệt hết giác và quán, bên trong được tâm thanh tịnh duy nhất, không còn giác và
quán nữa nhờ thiền định và hỷ lạc, tức đi vào định nhị thiền.
3.
Muốn xa lìa tâm hỷ lạc thô trọng nên tu hành xả; thân tâm an hưởng niềm vui tế
nhị không thể mô tả, các bậc hiền thánh có nói ra cũng xả bỏ. Thường niệm
thọlạc, tức đi vào định tam thiền.
4.
Đoạn hết khổ và lạc, trước hết phải diệt sạch niệm mừng và lo, không còn khổ,
không còn lạc, tu theo niệm hành xả được thanh tịnh, tức đi vào định tứ thiền.
5.
Vượt qua hết thảy sắc tướng; diệt trừ hết thảy các tướng đối đải; không nhớ nghĩ
hết thảy các tướng sai biệt; thấy được hư không vô biên, tức đi vào định sắc
vô hư không.
6.
Vượt qua hết thảy các tướng hư không, đến một cõi không còn thức nữa, tức đi vào
định thức vô sắc.
7.
Vượt qua hết thảy thức tướng, đến một cõi không còn sở hữu nữa, tức đi vào
định vô sắc vô sở hữu.
8.
Vượt lên một tầng qua các cõi vô sở hữu, đến một cõi không còn tưởng hay phi
tưởng; an ổn trong cõi ấy tức đi vào định phi tưởng phi phi tưởng.
Trải qua các giai đoạn tu định trên đây, hành giả chỉ tùy thuận tu hành theo các
pháp, tâm không đắm trước sự an vui của thiền định mà chỉ quyết cầu nguyện đạt
đến vô thượng thừa để hoàn thành quả tối chánh giác. Như vậy gọi là Tu huệ.
Bồ
tát theo ba pháp Văn huệ, Tư huệ và Tu huệ mà tinh tấn điều nhiếp lòng mình,
thời thành tựu được ‘Thông minh tam muộïi’ tức là Thiền Ba
la mật.
Lại nữa, Bồ tát tu định còn phải thực hành thêm mười pháp không chung với hàng
Thanh văn và Bích chi phật. Mười pháp ấy là những pháp nào?
1.
Tu thiền định vì muốn đủ các thiền định của Phật trước hết phải dẹp bỏ
ngã chấp riêng biệt.
2.
Tu thiền định vì muốn xả bỏ tâm ô nhiễm, không cầu vui riêng cho mình nên
không say đắm cảnh vui trong thiền định.
3.
Tu thiền định vì muốn biết tâm hạnh của chúng sanh nên đầy đủ các hạnh nghiệp
thần thông.
4.
Tu thiền định vì muốn độ thoát chúng sanh nên cần phải biết tâm niệm của
chúng sanh.
5.
Tu thiền định vì muốn dứt trừ sự phiền não ràng buộc cho chúng sanh nên phải
tu hạnh đại bi.
6.
Tu thiền định vì muốn thiện xảo thấy biết sự nhập định, xuất định vượt ngoài tam
giới, nên phải tu hết các thiền tam muội.
7.
Tu thiền định vì muốn đầy đủ tất cả các thiện pháp, nên thường được tự tại.
8.
Tu thiền định vì muốn thắng hơn các thiền tam muội của nhị thừa nên tâm
thường vắng lặng.
9.
Tu thiền định vì muốn thoát ngoài thế gian đến bờ cứu cánh nên thường trau
dồi trí huệ.
10. Tu thiền định vì muốn hưng thạnh tam bảo khiến không đoạn tuyệt, nên
thường tuyên dương chánh pháp.
Mười loại thiền định như vậy, không chung cùng với hàng Thanh văn và Bích
chi phật.
Lại nữa, để biết tâm phiền não của hết thảy chúng sanh cho nên tu tập các pháp
thiền định, giúp thành tâm an trú, khiến thiền định ấy an trú trong tâm bình
đẳng; vì thế nên gọi là Định.
Các loại thiền định bình đẳng như thế, thời bình đẳng với không, vô tướng, vô
nguyện, vô tác. Không, vô tướng, vô nguyện, vô tác bình đẳng thời chúng sanh
bình đẳng. Chúng sanh bình đẳng thời các pháp bình đẳng. Vào trong chỗ bình đẳng
như thế cho nên gọi là Định.
Lại nữa, Bồ tát tuy hành động thiệp thế nhưng không nhiễm theo đời. Bồ tát bỏ
đời bước vào chánh pháp, cắt đứt sợi dây trói buộc, xa lìa những cảnh huyên náo,
ưa thíchnơi vắng lặng. Tu hành thiền định như vậy, nên tâm bồ tát an ổn bình
lặng, luôn luôn xa lìa mọi tác động phiền não của thế gian.
Lại nữa, Bồ tát thiền định, có đầy đủ thông trí và phương tiện huệ.
Thế nào gọi là thông trí?
Hoặc được thấy sắc tướng, hoặc nghe được âm thanh, hoặc biết được tha tâm, hoặc
nhớ được quá khứ, hoặc soi khắp được các thế giới chư Phật, mhư vậy gọi là
Thông. Còn nếu biết sắc tướng tức là pháp tánh, nếu biết rõ âm thanh là do
tác động của tâm, nếu thấu suốt tánh tướng đều tịch diệt, ba đời thảy bình đẳng,
nếu rõ các cõi Phật đồng với tướng hư không mà không bao giờ thiên về diệt tận;
như vậy gọi là Trí.
Thế nào gọi là phương tiện huệ?
Khi vào thiền định, khởi đại từ bi, không xả bỏ thệ nguyện, tâm rắn như kim
cương, quán sát thế giới chư Phật trang nghiêm Bồ đề đạo tràng; như vậy gọi là
Phương tiện. Bấy giờ, tâm ấy vĩnh viễn vắng lặng, không còn tướng ngã và
tướng chúng sanh, tư duy các pháp bản tánh vốn bất loạn, thấy thế giới chư Phật
đồng với hư không, quán đạo tràng đồng với trang nghiêm đồng với tịch diệt; như
vậy gọi là Huệ.
Các pháp tu như thế gọi là pháp tu thiền định thông trí và phương tiện
sai biệt của Bồ tát. Thực hành một loạt tất cả bốn việc ấy, tức là đã gần
được A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề.
Bồ
tát tu hành thiền định, vân dụng pháp bất động nên không còn sót lại các tâm.
Như vậy tức là đã hoàn thành đầy đủ các pháp Thiền na Ba la mật.
PHẨM
THỨ CHÍN
BÁT NHÃ BA LA MẬT
Thế nào gọi là Bồ tát tu tập trí huệ ? Tu tập trí huệ, nếu vì tự lợi, lợi tha và
tự tha đều lợi, trí huệ như thế mới hay trang nghiêm được đạo Bồ đề. Bồ tát sở
dĩ tu tập trí huệ là vì muốn điều phục tất cả chúng sanh khiến xa lìa khổ não.
Người tu tập trí huệ phải học tất cả công việc trong thế gian, dứt trừ tham sân
si và tô bồi từ tâm. Thương xót và làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Thường suy
nghĩ, tìm phương tiện làm người hướng dẫn, dứu giúp cho tất cả; hay phân biệt,
thuyết minh tà đạo, chánh đạo, thiện báo, ác báo. Như vậy gọi là Bồ tát sơ phát
tâm tu trí huệ.
Vì
tu tập trí huệ mà xa lìa được vô minh, diệt trừ được chướng ngại phiền não và
chướng ngại trí huệ, như thế gọi là tự lợi. Giáo hóa chúng sanh khiến được điều
phục, gọi là lợi tha. Đem phương pháp tu hành cầu đạo vô thượng bồ đề của mình,
giáo hóa cho tất cả chúng sanh, khiến đồng được lợi lạc như mình, ấy gọi là tự,
tha đều lợi. Nhơn tu tập trí huệ nên được chứng quả từ sơ địa cho đến trí huệ
bát nhã, như vậy gọi là trang nghiêm đạo bồ đề.
Bồ
tát tu hành trí huệ lần lượt xây dựng hai mươi tâm sau đây:
1.
Tâm xa lìa kiêu mạn và buông lung.
2.
Tâm tùy thuận lời dạy bảo và thích nghe chánh pháp.
3.
Tâm nghe chánh pháp say sưa không chán và luôn luôn suy nghiệm nghĩa lý.
4.
Tâm thật hành bốn phạm hạnh và tu tập chánh trí.
5.
Tâm quán pháp bất định và nhàm chán xa lìa.
6.
Tâm quán bốn đế và mười sáu thánh tâm.
7.
Tâm quán mười hai nhân duyên và tu pháp minh huệ.
8.
Tâm nghe các pháp ba la mật suy nghĩ muốn tu tập.
9.
Tâm quán các pháp là vô thường, khổ, không, vô ngã, tịch diệt.
10. Tâm quán không, vô nguyện, vô tác.
11. Tâm quán ấm, nhập, giới là nhiều tội lỗi.
12. Tâm hàng phục phiền não như là bạn lành.
13. Tâm giữ gìn các thiện pháp như là bạn ác.
14. Tâm đè nén các ác pháp khiến đều đoạn diệt.
15. Tâm tu tập chánh pháp khiến càng tăng trưởng.
16. Tâm tuy tu theo pháp nhị thừa nhưng thường xa lìa.
17. Tâm nghe bồ tát tạng ưa thích phụng hành.
18. Tâm tự lợi lợi tha, tùy thuận tăng tiến các thiện nghiệp.
19. Tâm tu trì hạnh chơn thật tham cầu tất cả Phật pháp.
20. Tâm phát sanh ưa thích việc thiện, gần gũi những bạn lành.
Thứ lại, Bồ tát tu hạnh trí huệ có mười thiện tư duy tâm, mười pháp này không
cùng chung với hàng Thanh văn và Bích chi phật. Mười tư duy tâm là:
1.
Suy nghĩ phân biệt căn bản định, huệ.
2.
Suy nghĩ không bỏ hai biên kiến : đoạn, thường.
3.
Suy nghĩ nhơn duyên sanh khởi các pháp.
4.
Suy nghĩ không có tướng chúng sanh, ngã, nhơn, thọ, mạng.
5.
Suy nghĩ không có pháp ba đời qua lại và dừng nghỉ.
6.
Suy nghĩ không có phát hành mà không đoạn nhơn quả.
7.
Suy nghĩ các pháp là không mà vẫn siêng năng gieo trồng việc lành.
8.
Suy nghĩ vô tướng mà không bỏ phế việc cứu độ chúng sanh.
9.
Suy nghĩ vô nguyện mà vẫn không xa bỏ chí cầu đạo bồ đề.
10. Suy nghĩ vô tác mà không bỏ sự hiện thọ thân.
Thứ lại, Bồ tát tu hạnh trí huệ có mười hai pháp thiện nhập pháp môn. Mười hai
pháp ấy là:
1.
Thiện nhập các pháp tam muội: không, vô tác, vô nguyện v.v... mà không đắm trước
quả chứng.
2.
Thiện nhập các pháp thiền tam muội mà không chướng ngại vì thiền.
3.
Thiện nhập các thông trí mà không chứng pháp vô lậu.
4.
Thiện nhập pháp nội quán mà không chứng quyết định.
5.
Thiện nhập quán sát tất cả chúng sanh là không tịch, nhưng không bỏ lòng đại từ.
6.
Thiện nhập quán sát tất cả chúng sanh là vô ngã mà không bỏ lòng đại bi.
7.
Thiện nhập sanh vào các ác thú mà không phải vì nghiệp buộc.
8.
Thiện nhập pháp ly dục mà không chứng pháp ly dục.
9.
Thiện nhập xả bỏ những dục lạc mà không xả pháp lạc.
10. Thiện nhập xả bỏ tất cả cảm giác hý luận mà không bỏ các quán phương tiện.
11. Thiện nhập suy lường các pháp hữu vi là tội lỗi, mà không bỏ pháp hữu vi.
12. Thiện nhập pháp vô vi là thanh tịnh viễn ly, mà không trú trước vô vi.
Bồ
tát khéo léo tất cả các pháp môn thiện nhập tức là hiểu rõ được ba đời là không,
không có sở hữu. Nếu quán sát như thế là nhờ sức trí huệ mà quán sát ba đời là
không vậy. Nếu đem vô lượng công đức đã gieo trồng trong ba đời chư Phật đều hồi
hướng về đạo vô thượng Bồ đề, như vậy gọi là Bồ tát dùng phương tiện khéo léo
quán sát ba đời.
Lại nữa, tuy hiểu rõ cùng tận các pháp quá khứ đến vị lai, mà thường tu thiện
căn tinh tấn không giải đải, quán sát các pháp vị lai tuy là chưa đến, mà không
rời tinh tấn, nguyện hướng đến quả Bồ đề, quán sát các pháp hiện tại tuy mỗi
niệm mỗi niệm tiêu diệt không ngừng, nhưng tâm không xu hướng bồ đề. Như vậy gọi
là Bồ tát dùng phương tiện khéo léo quán sát ba đời. Quá khứđã diệt, vị lai chưa
đến, hiện tại không ngừng, tuy như vậy quán sát tâm vương tâm sở sanh diệt tan
hoại, mà thường không bỏ sự chứa nhóm căn lành để trợ giúp cho pháp bồ đề. Đó
gọi là Bồ tát dùng phương tiện khéo léo quán sát trong ba đời.
Lại nữa, Bồ tát quán sát tất cả các pháp thiện, bất thiện, ngã, vô ngã, thật,
không thật, không, chẳng phải không, thể trú đế, chơn đế, chánh định, tà định,
hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu, hắc pháp, bạch pháp, sanh tử, niết bàn, như tánh
của pháp giới, là nhất tướng, vô tướng, trong ấy không có một pháp gì có thể gọi
là vô tướng, cũng không có một pháp gì cho là vô vô tướng. Như vậy gọi là nhất
thể pháp ấn, bất khả hoại ấn, ở trong ấn ấy cũng không có tướng ấn. Được như vậy
gọi là chơn thật trí huệ phương tiện Bát nhã Ba la mật. Bồ tát Ma ha tát phát
tâm bồ đề nên như thế mà tu học, nên như thế mà hành trì, hành trì được như thế
mới gần gũi được đạo quả vô thượng bồ đề. Bồ tát Ma ha tát tu hạnh trí huệ an
tâm bất động, pháp tánh thanh tịnh. Như vậy là đầy đủ Bát nhã Ba la mật.
PHẨM
THỨ MƯỜI
PHÁP MÔN NHƯ THẬT
Nếu thiện nam, tín nữ nào tu tập sáu phép ba la mật, cầu đạo vô thượng chánh
đẳng chánh giác thì phải xa lìa bảy pháp sau đây:
1.
Xa lìa ác tri thức. Ác tri thức hay khuyên người bỏ mất đức chánh tín, lòng mong
muốn và sức tinh tấn tối thượng chân chánh, để chạy theo dục vọng
2.
Xa lìa nữ sắc, không tham đắm dục lạc và những tập tục theo thói đời.
3.
Xa lìa ác giác. Ác giác là cảm giác sai lầm; tự quán hình dung, sanh tâm tham
ái, luyến tiếc, chấp đắm và cho rằng có thể bảo tồn trường cửu.
4.
Xa lìa sân nhuế, tàn bạo, kiêu căng , ganh ghét, khơi dậy sự tranh tụng, làm rối
loạn thiện tâm.
5.
Xa lìa sự buông lung, kiêu mạn, biếng nhác, tự ỷ có chút tiểu xảo khinh miệt kẻ
khác.
6.
Xa lìa sách luận ngoại đạo và những văn chương thêu dệt giả dối của thế tục,
không nên tán tụng những lời không phải Phật dạy.
7.
Không nên thân cận những kẻ tà kiến, ác kiến.
Bảy pháp kể trên Bồ tát phải nên xa lìa. Phật dạy: không thấy còn có pháp gì
chướng ngại Phật đạo bằng bảy pháp trên, cho nên Bồ tát cần phải xa lìa.
Nếu muốn chóng đạt vô thượng bồ đề, nên tu bảy pháp sau đây:
1.
Bồ tát cần phải thân cận thiện tri thức. Thiện tri thức là chư Phật, bồ tát,
hoặc hàng thanh văn có công năng khiến Bồ tát an trú thâm nhập pháp tạng và các
pháp ba la mật, gọi là bồ tá Thiện tri thức.
2.
Bồ tát nên thân cận người xuất gia, cũng nên thân cận pháp a lan nhã, lánh xa nữ
sắc và các thị dục, không cùng với người đời làm những điều tục lụy.
3.
Bồ tát nên tự quán sát hình hài như đất, phân chứa đầy ô uế, phong đàm, nhiệt
huyết, không nên tham đắm, nay còn mai mất mỗi ngày bước gần đến cửa chết, nghĩ
thế mà nhàm chán cảnh vô thường, lo siêng năng tu đạo.
4. Bồ tát thường tu hạnh nhu hòa, nhẫn nhục, thuận thảo, cung kính và khuyên
người khác cũng tu những pháp ấy.
5.
Bồ tát nên tu hành tinh tấn, thường biết tàm quí, cung kính, phụng thờ sư
trưởng, thân cận, xót thương những kẻ bần cùng; thấy người nguy khốn, đem thân
mình thay thế.
6.
Bồ tát cần phải tu tập Phương đẳng đại thừa bồ tát tạng và thọ trì đọc tụng
những pháp Phật thường khen ngợi.
7.
Bồ tát phải tu tập đệ nhất nghĩa đế (chơn lý tuyệt đối) nghĩa là thật tướng,
nhất tướng, vô tướng.
Nếu Bồ tát muốn mau được quả vị vô thượng bồ đề phải luôn luôn thân cận thực
hành bảy pháp nói trên.
Lại nữa, nếu người phát tâm bồ đề mà đem lại tâm hữu sự đắc trong vô lượng a
tăng kỳ kiếp tu tập từ, bi, hỷ, xả, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định, trí huệ, nên biết người đó không thể lìa sanh tử cũng không đến được bồ
đề. Vì sao? Vì có tâm sở đắc và các kiến chấp về sở đắc, kiến chấp ngũ ấm, thập
nhị nhập, thập bát giới,kiến chấp ngã, kiến chấp nhơn, kiến chấp chúng sanh,
kiến chấp thọ mạng, kiến chấp từ, bi, hỷ, xả, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh
tấn, thiền định, trí huệ. Tóm lại, có kiến chấp Phật, pháp , tăng và kiến chấp
niết bàn. Có những kiến chấp hữu sở đắc như thế tức là có tâm chấp trước, tức là
tà kiến. Mà người tà kiến thì hằng bị luân chuyển trong tam giới khó giải thoát
được. Người chấp trước cũng khó được giải thoát. Cuối cùng không thể chứng được
vô thượng chánh đẳng bồ đề.
Ngược lại, nếu người phát tâm bồ đề phải nên quán xét tâm ấy là không tướng. Tâm
ấy là gì? Và tại sao gọi là không tướng?
Tâm gọi là ý thức, tức là thức ấm, ý nhập và ý giới. Tâm không tướng là tâm
không tướng tâm, cũng không tác giả. Vì sao? Vì tâm ấy thật tướng là không,
không có tạo tác, không có sự sai sử tác giả. Nếu không tác giả thì làm gì có
tác tướng. Nếu bồ tát hiểu rõ các pháp như thế thì đối với tất cả các pháp không
còn chấp trước. Vì không chấp trước nên đối với các pháp thiện, ác, hiểu rõ,
không bị quả báo, với các công đức tu tập lòng từ, tuyệt đối không còn ngã kiến;
đức bi, tuyệt đối không còn chúng sanh kiến; đức hỷ, tuyệt đối không có thọ mạng
kiến; đức xả, tuyệt đối không có nhơn kiến. Tuy thật hành bố thí, không thấy vật
bố thí; tuy thật hành trì giới,không thấy tâm thanh tịnh; tuy thật hành nhẫn
nhục, không thấy có chúng sanh;tuy thật hành tinh tấn, không thấy có tâm ly dục;
tuy thật hành thiền định, không tâm trừ ác; tuy thật hành trí huệ, tâm an bấùt
động. Đối vớ mười duyên đầu là trí huệ mà không chấp trước trí huệ, không sở đắc
trí huệ, không thấy có trí huệ. Hành giả tu hành trí huệ như thế mà không thấy
có chỗ tu, cũng không phải không tu. Vì hóa độ chúng sanh nên thị hiện thực hành
lục độ mà thật ra trong tâm thường thanh tịnh.
Hành giả khéo léo tu tập tâm niệm như thế, trong một khoảnh khắc gieo trong
thiện căn, thì phước đức quả báo vô lượng vô biên, trăm ngàn vạn ức a tăng kỳ
kiếp không thể cùng tận, tự nhiên được gần đạo quả A nậu đa la tam miệu tam bồ
đề.
PHẨM
MƯỜI MỘT
KHÔNG VÔ TƯỚNG
Một hôm, đức Phật cùng đại chúng đông đảo vân tập tại rừng trúc Ca lan đà.
Bấy giờ Đức Thế Tôn ban dạy chánh pháp, bảo Đại chúng rằng: “Như lai nói các
pháp là vô tánh, không, không sở hữu. Tất cả thế gian khó hiểu và khó tin điều
ấy. Vì sao? Vì sắc, không buộc không mở. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không buộc
không mở. Sắc vô tướng, lìa các tường; thọ, tưởng, hành, thức cũng vô tướng, lìa
các tướng. Sắc vô niệm, lìa các niệm; thọ, tưởng, hành, thức cũng vô niệm, lìa
các niệm. Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân tiếp
xúc, ý đối với pháp trần cũng đều như thế cả; không thủ, không xả, không nhớp,
không sạch, không khứ, không lai, không mặt, không trái, không tối, không sáng,
không ngu si, không trí huệ, không bờ bên này, không bờ bên kia và cũng không
phải giữa dòng, ấy gọi là không trói buộc. Vì không trói buộc cho nên gọi là
không. Không ấy gọi là vô tướng. Vô tướng ấy cũng không, mới gọi là không. Không
ấy gọi là vô niệm. Vô niệm ấy cũng không, mới gọi là không. Trong cái ‘không’
ấy, không thiện, không ác, cho đến cái tướng ‘không’ cũng không, cho nên gọi là
không. Bồ tát nếu rõ ngũ ấm, thập bát giới, lục nhập, tánh của nó là như thế,
tức không còn chấp trước, bảo thủ, gọi là pháp nhẫn. Bồ tát nhờ pháp nhẫn này mà
được thọ ký nhẫn.”
Các Phật tử ! Ví như có người viết lên giữa hư không, viết đủ mười hai bộ kinh
của Phật. Trải qua vô lượng kiếp, Phật pháp đã diệt hết. Những người cầu chánh
pháp hoàn toàn không thấy nghe gì cả, nên chúng sanh điên đảo, tạo ra vô biên ác
nghiệp. Thì có một người trí huệ thanh tịnh ở phương khác đến, vì thương xót
chúng sanh, cùng khắp tìm cầu Phật pháp, đi đến chỗ ấy thấy giữa hư không có
chữ, văn tự rõ ràng, liền biết đó là Phật pháp, nên đọc tụng, thọ trì, y pháp tu
hành và phân biệt quảng diễn lợi ích cho tất cả chúng sanh. Người viết giữa hư
không và người biết chữ giữa hư không ấy khó mà nghĩ bàn được, huống nữa còn thọ
trì, tu tập và đem truyền bá hướng dẫn chúng sanh khiến xa rời triền phược?
Lại nữa, Đức Phật dạy rằng: Về đời quá khứ, khi Ngài cầu đạo Bồ đề, được gặp
3.298.000 đức Phật, thời ấy Ngài đều làm chuyển luân thánh vương, dùng đủ tất cả
các sự vui sướng cúng dường chư Phật và hàng chúng tăng, nhưng vì có tâm sở đắc
nên không được thọ ký. Về sau tiếp tục. lại gặp được tám vạn bốn ngàn Bích chi
phật, cũng trọn đời đem tứ sự cúng dường. Sau đó lại gặp 6 201 261 đức Phật nữa,
Ngài vẫn làm chuyển luân thánh vương cũng đem tất cả các sự vui sướng, trọn đời
cúng dường. Khi chưPhật diệt độ, lại xây tháp bằng bảy thứ báu để cúng dường xá
lợi. Sau lại có Phật ra đời, Ngài vẫn cung phụng nghinh tiếp, ân cần khuyến
thỉnh chuyển đại pháp luân. Liên tiếp cúng dường như thế, trải qua trăm ngàn vạn
ức chư Phật. Các đức Phật ấy đều ở trong pháp không mà nói ra các pháp tướng,
nhưng vì còn có tâm sở đắc, cho nên Ngài vẫn không được thọ ký.
Cứ
lần lượt như thế cho đến khi gặp được đức Phật Nhiên Đăng ra đời, thấy Phật,
nghe pháp mới chứng được nhất thiết vô sanh pháp nhẫn. Được vô sanh pháp nhẫn ấy
rồi mới được thọ ký.
Đức Phật Nhiên Đăng cũng ở trong pháp không nói ra các pháp tướng, độ thoát vô
lượng trăm ngàn chúng sanh mà không thấy mình có nói pháp, cũng không thấy có độ
sanh.
Đức Phật Thích ca Mâu ni ra đời, cũng ở trong pháp không mà nói ra văn tự để
khai thị chánh giáo, lợi lạc chúng sanh, khắp nơi đều được lãnh thọ tu hành,
nhưng cũng không thấy có người hóa độ và người được độ. Nên biết pháp ấy, tánh,
tướng, hoàn toàn không tịch, người viết cũng không, người biết cũng không, người
nói cũng không, người hiểu cũng không, từ trước đến sau vốn không, về sau cũng
không, hiện tại cũng chẳng có. Nhưng các hàng bồ tát nhờ sức phương tiện tinh
tấn không ngừng tích tập muôn hạnh, công đức viên mãn, được chứng quả A nậu đa
la tam miệu tam bồ đề, điều ấy thật vô cùng khó khăn, không thể nghĩ bàn. Ở
trong vô đắc, nói ra pháp hữu sở đắc, sự việc như thế là cảnh giới của chư Phật,
phải dùng vô lượng trí mới hiểu được, chớ không phải dùng tâm phân biệt mà có
thể hiểu thấu.
Bồ
tát mới phát tâm, phải thành tâm kính ngưỡng ưa thích bồ đề, tin theo lời Phật
dạy, dần dần mới được thâm nhập.
Phải tin như thế nào ?
Phải tin rằng quán tứ đế sẽ diệt trừ được các phiền não vọng kiến ràng buộc,
chứng quả A la hán. Tin rằng quán mười hai nhân duyên sẽ diệt trừ được vô minh,
sanh khởi các hạnh, chứng quả Bích chi phật. Tin rằng tu bốn vô lượng tâm, sáu
ba la mật được chứng quả A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Như thế gọi là tín
nhẫn.
Chúng sanh từ vô thỉ sống chết, bị vọng tưởng chấp trước mà không thấy được pháp
tánh, nên trước hết phải quán sát tự thân do năm ấm giả hợp mệnh danh là chúng
sanh, kỳ thật, trong đó không có ngã, không có chúng sanh. Vì sao thế?Vì nếu quả
có ngã thì ngã ấy phải được tự tại, nhưng hiện tại chúng sanh thường bị sanh lão
bệnh tử, không hề được tự tại. Vì thế, biết là vô ngã. Đã vô ngã, tức là không
tác giả, không tác giả, tức là không thọ giả và không thọ giả thì pháp tánh
thanh tịnh như thật thường trú. Quán sát như thế, dù chưa thành tựu cứu cánh,
nhưng cũng gọi là thuận nhẫn.
Bồ
tát tu tín thuận nhẫn ấy rồi, không bao lâu sẽ thành pháp nhẫn tối thượng.
PHẨM
MƯỜI HAI
CÔNG ĐỨC THỌ TRÌ KINH
Bồ
tát tu luyện đầy đủ về tâm vô tướng, nhưng chưa bao giờ an trú nơi tác nghiệp.
Đối với nghiệp tướng, Bồ tát dù đã biềt rõ mà vẫn làm. Vì cầu đạo Bồ đề mà tu
tập thiện căn, nên các Ngài không xa rời pháp hữu vi. Vì độ chúng sanh mà tu tập
đại bi, nên không an trú nơi vô vi. Vì cầu diệu trí chơn thật của chư Phật, nên
không rời sanh tử. Vì độ hết thảy vô biên chúng sanh, nên không an trú nơi niết
bàn. Đấy là các vị bồ tát đem thân tâm cầu quả vị vô thượng bồ đề vậy.
Các Phật tử ! Bồ tát nhờ thành tựu mười pháp nên đối với đạo bồ đề không còn bị
thối thất. Mười pháp ấy là:
1.
Bồ tát phát tâm cầu vô thượng bồ đề một cách sâu xa, đồng thời giáo hóa chúng
sanh cùng phát tâm bồ đề ấy.
2.
Thường mong cầu thấy Phật để được gieo trồng thiện căn bằng cách đem trân bảo
của mình cúng dường lên Phật.
3.
Vì cầu chánh pháp nên đem tâm tôn kính cúng dường các vị pháp sư và nghe pháp
không bao giờ nhàm chán.
4.
Nếu thấy các thầy tỳ kheo phân chia làm hai bộ phái để tranh tụng công kích
nhau, thì cố gắng tìm phương tiện khuyên giải để được hòa hợp.
5.
Nếu gặp quốc độ đầy dẫy tà ác, làm cho Phật pháp phải suy vi, thì siêng năng đọc
tụng, diễn giảng cho đến một bài kệ để làm cho chánh pháp không bị đoạn tuyệt,
chuyên tâm hộ trì chánh pháp không tiếc thân mạng.
6.
Thấy chúng sanh lâm cảnh sợ hãi khổ não thì phát tâm cứu độ ban bố lòng vô úy.
7.
Phát tâm tu hành chuyên cần theo các kinh điển phương đẳng đại thừa tâm diệu
trong bồ tát tạng.
8.
Khi đã cầu được chánh pháp, phát tâm thọ trì đọc tụng, đúng như lời kinh dạy mà
tu hành và an trú.
9.
Khi mình đã an trú trong chánh pháp, lại khuyến dẫn chúng sanh cùng an trú trong
chánh pháp.
10. Khi đã được an trú trong chánh pháp, nên diễn giảng chỉ bày điều ích lợi ra
cho tất cả chúng sanh được khai ngộ vui mừng.
Các vị bồ tát thành tựu được mười pháp như trên thì đối với đạo vô thượng bồ đề
không còn bị thối chuyển. Các vị bồ tát phải đúng như kinh này mà tu hành. Kinh
điển này thật không thể nghĩ nghì, vì hay phát sanh tất cả hạt giống đại từ bi,
hay khai ngộ dắt dẫn chúng sanh phát tâm bồ đề, hay làm nguyên nhân chính cho
những người hướng về đạo bồ đề, hay thành tựu tất cả công hạnh của bồ tát, cũng
là kinh được các đức Phật trong các đời đã qua, hiện tại và sẽ đến hộ niệm.
Nếu có nam hay nữ Phật tử nào muốn tu tập đạo vô thượng bồ đề, hãy nên thường
xuyên hoằng dương và lưu truyền kinh điển này trong cõi Diêm phù đề cho vô lượng
vô biên chúng sanh đều được nghe được biết.
Nếu có nam hay nữ Phật tử nào được nghe kinh điển này thì tất cả đều được đại
trí huệ mãnh lợi và quả báo phúc đức bất khả tư nghị. Vì sao? Vì kinh này hay mở
vô lượng thanh tịnh huệ nhãn, hay làm cho giống Phật tương tục không đoạn, hay
cứu độ vô lượng chúng sanh khổ não, hay chiếu phá hết thảy vô minh, hay phá trừ
tứ ma và tất cả ma nghiệp, hay phá trừ tất cả ngoại đạo tà kiến, hay dập tắt tất
cả lửa dữ phiền não, hay tiêu trừ nhơn duyên sanh khởi các hành nghiệp, hay đoạn
trừ sáu thứ trọng bệnh là xan tham, phá giới, sân nhuế, giải đãi, loạn ý, ngu
si, hay đoạn trừ được các nghiệp chướng, pháp chướng, phiền não chướng, kiến
chướng, vô minh chướng, trí chướng, tạp chướng. Tóm lại, kinh nầy hay tiêu diệt
tất cả ác pháp không sót mảy may và làm cho thiện pháp ngày càng tăng trưởng
mãnh liệt.
Nếu có nam hay nữ
Phật tử nào sau khi nghe kinh này, phát tâm hoan hỷ ưa mến, nên biết người ấy đã
từng cúng dường vô lượng đức Phật và đã gieo trồng thiện căn nhiều lắm. Vì sao?
Vì kinh nầy là chỗ đi lại của ba đời các đức Phật. Vì thế nên người tu hành khi
đã được nghe kinh nầy rồi, phải tự lấy làm vinh hạnh là được đại thiện lợi. Nếu
người nào biên chép và đọc tụng kinh nầy, nên biết người ấy sẽ được phước báo vô
lượng vô biên. Vì sao? Vì kinh nầy có sở duyên rộng rãi vô biên phát khởi vô
lượng đại thệ nguyện, nhiếp thọ tất cả chúng sanh, trang nghiêm quả vị vô thượng
bồ đề. Vì thế, người nào thọ trì kinh nầy sẽ được phước đức vô lượng vô biên
không hạn lượng. Nếu còn thấu đạt được nghĩa lý và đúng như lời dạy mà tu hành
thì dù tất cả các đức Phật ở trong vô lượng a tăng kỳ kiếp, dùng vô lượng trí mà
diễn nói đến các phước báo kia cũng không cùng tận được. Nếu nơi nào có vị pháp
sư giảng kinh nầy thì nơi đó hãy nên xây tháp cúng dường. Vì sao? Vì đó là nơi
mà chánh pháp chơn thật phát sanh. Ở quốc độ, thành ấp, xóm làng, chùa miếu,
tịnh xá nào có kinh nầy, nên biết nơi ấy có pháp thân. Nếu người nào đem cúng
dường các thứ hương hoa, âm nhạc, tràng phan, bảo cái hoặc ca xướng tán thán,
chấp tay cung kính, nên biết người ấy đãgieo giống Phật. Nếu còn thọ trì kinh
nầy thì các người ấy thành tựu công đức trí huệ trang nghiêm, tương lai sẽ được
thọ ký, thành tựu quả vị vô thượng bồ đề.
1. Ngài là một vị Đại Bồ tát ra đời vì bản nguyện độ sanh, vì lẽ đó, lịch sử của
Ngài có tánh cách siêu việt hơn người thường.
2. Vì lòng từ bi lợi tha và tự chủ
trong sự thọ sanh, nên mỗi cử động trong đời Ngài đều hướng về sự giáo hóa trên
đường giải thoát.
3. Nên nhận rõ ý nghĩa của lịch sử hơn là câu nệ từng chi tiết nhỏ.
Đức Phật Thích ca nguyên tên là Tất đạt đa. Họ Ngài là Thích ca, một chi nhánh
của họ Kiều tất la, là một quí tộc. Tên Ngài nói đủ là Kiều tất la Thích ca Tất
đạt đa. (Kosala Cakya Siddharda). Còn Mâu ni là đức tánh trong sạch, vắng lặng
của Ngài, chỉ là tiếng để khen ngợi.
Ngài là con vua Tịnh Phạn nước Ca tỳ la vệ (Spilavastu), mẹ Ngài là Hoàng hậu Ma
da. Nước Ca tỳ la vệ tức là xứ Pipaova ở phía Bắc thành Ba la nại (Bénares) ngày
nay.
Thái tử sinh lúc mặt trời vừa mọc, nhằm ngày trăng tròn tháng Hai Ấn Độ, tức là
ngày Mồng tám tháng Tư lịch Tàu. Ngài sinh vào khoảng 563 năm trước Tây lịch.
Theo tục lệ Ấn Độ đàn bà có chồng lúc sinh nở phải trở về nhà cha mẹ. Bà Hoàng
hậu Ma da trở về ngang qua vườn Lâm tỳ ni của vua Thiện Giác thì sinh Ngài dưới
cây vô ưu. Khi mới sanh, Ngài đứng trên hoa sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ
đất, miệng nói: “Trên trời dưới trời chỉ một mình ta là lớn.”
Thái tử sinh ra có nhiều điềm lạ: quả đất rung động, vừa sinh ra Ngài đã đi bảy
bước,... mọi người đều hân hoan đón mừng vị cứu tinh xuất hiện. Thái tử sinh ra
đã có 32 tướng tốt báo trước Ngài là một vị xuất chúng và Ngài sẽ thành Phật để
dìu dắt muôn loài. Ngài sanh ra vừa được bảy ngày, mẹ Ngài từ trần. Bà dì Ngài
là bà Ma ha Ba xà ba đề nuôi nấng chăm sóc Ngài. Ngài rất thông minh, các vị
giáo sư danh tiếng dạy Ngài đều phải bái phục.
Thái tử sống trong cảnh cực kỳ sung sướng và được sự nuông chiều hết sức của vua
cha. Xung quanh Ngài luôn luôn vũ nữ ngày đêm đờn ca xướng hát để làm vui Ngài.
Tuy nhiên Thái tử vẫn trầm tư mặc tưởng. Trên mặt luôn luôn lộ nét buồn kín
đáo và, một đôi khi Ngài đã tỏ với vua cha xin đi xuất gia để tìm phương cứu
mình, cứu đời. Đoán biết ý con, vua Tịnh Phạn sinh sợ sệt và tìm đủ mọi cách
tăng thêm dục lạc, mong làm khuây được chí nguyện xuất gia của Ngài.
Sau nhiều lần mục kích những thảm trạng già, đau, bệnh, chết và sự bất công mạnh
hiếp yếu, khôn lấn dại, trong những cuộc du ngoạn ở bốn cửa thành. Thái tử Tất
đạt đa cảm nhận được những nỗi thống khổ của con người. Lòng thương chúng sanh
bồng bột nổi dậy, Thái tử không còn vui được nữa.
Với một ý chí cương quyết tìm chân lý, nên trong một đêm kia sau buổi yến tiệc
linh đình, Ngài đã cỡi ngựa Kiền trắc vượt thành xuất gia với tên hầu cận trung
thành Xa nặc; giữa lúc mọi người đang chìm trong bóng tối và mê man theo giấc
ngủ. Ngài ra đi lúc 19 tuổi, ngày mồng Tám tháng Hai vào lúc giữa đêm.
Đi
sâu vào rừng đến bờ sông Anoma, Ngài cắt tóc và thay đổi y phục trao lại bảo Xa
nặc đem về dâng Phụ hoàng và tỏ rõ sự tình. Từ đây, thái tử đã trở thành một đạo
sĩ và dấn thân trên đường tìm đạo. Ngài đi đến thành Vương xá (Rajariha) xứ Ma
kiệt đà, tìm đến các vị Đạo sĩ Bà la môn mà tham khảo phương pháp tu hành. Sau
một thời gian tu luyện, Ngài không thỏa mãn vì cho rằng chưa được rốt ráo. Ngài
liền vào rừng Ưu lâu tần loa xứ Phật đà già da (Bouddhagaya) tu hạnh ép xác, một
ngày chỉ ăn một hạt mè, hạt gạo và suy nghĩ trong sáu năm, song vẫn thấy vô
hiệu. Ngài nhận thấy lối tu khổ hạnh ấy không phải là lối tu giải thoát. Và sau
khi nhận bát sữa của nàng Tu xà đề dâng cúng, thân thể bình phục, tâm hồn sảng
khoái, Ngài đến dưới gốc cây bồ đề ngồi trên thảm tọa và phát nguyện: ‘Nếu không
tìm ra chân lý thì thà chết ta không rời thảm tọa này’. Trải một thời gian thiền
quán, Ngài đã chiến thắng được tất cả những tật xấu xa của thân thể và nội tâm.
Ngài lại uốn dẹp được mọi sự phá rối của ma vương bên ngoài.
Đầu đêm, Ngài chứng được Túc mạng minh, thấy rõ ràng những đời quá khứ, hiện
tại, vị lai; nửa đêm, Ngài chứng được Thiên nhãn minh, thấy được cả vũ trụ bao
la; cuối đêm vào lúc sao mai mọc, Ngài chứng được Lậu tận minh, nhận chân nguồn
gốc sanh tử luân hồi là sự mê mờ gọi là vô minh, và hoàn toàn giác ngộ.
Ngài đã thành đạo vào lúc sao mai mọc, ngày 8 tháng Chạp. Sau khi thành đạo,
Ngài đã than: ‘Than ôi ! Chúng sanh vốn đầy đức tướng trí huệ Như lai, nhưng chỉ
vì vô minh che lấp nên phải sanh tử luân hồi đấy thôi !’.
Sau đó Ngài liền đến vườn Lộc uyển nói pháp Tứ đế độ cho năm ông tỳ kheo (Kiều
trần như, Aùc bệ, Thập lục ca diếp, Ma ha nam Câu ly và Bạc đề). Từ đó đạo Ngài
truyền khắp xứ Trung Aán Độ và lan mãi khắp hoàn cầu.
Trải qua 49 năm trên đường giáo hóa, Ngài đã tận lực gieo rắc ánh đạo vàng khắp
đó đây, hóa độ chúng sanh. Vô số người đã được mang ơn pháp nhũ của Ngài mà trở
về với chánh đạo. Nhơn duyên đã mãn, những người nên độ đều đã độ xong. Ngài vào
niết bàn tại rừng Ta la song thọ, để lại những nỗi thương tiếc tràn ngập cả lòng
người. Ngài nhập diệt lúc 81 tuổi, nửa đêm ngày Rằm tháng Hai ta.
1.
Vì lòng từ bi, Ngài ra đời cốt để vạch cho chúng sanh một con đường cao quí ý
nghĩa hơn, so với kiếp sống mong manh hiện tại.
2.
Tuy sống trang đài danh vọng, Ngài vẫn cảm thấy những nỗi vô vị của vật chất.
Và Ngài đã nói rằng: ‘Hạnh phúc không phải chỉ tìm trong khoái lạc của vật
chất’.
3.
Những cuộc du ngoạn và nhiều lần mục kích những thảm cảnh của con người, Ngài đã
cho ta thấy rằng: ‘Đời là một bể khổ đầy dẫy những bất công, tội lỗi, nếu ta duy
trì mãi tình trạng mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại, và thiếu một lòng thương thành
thật’.
4.
Ánh sáng có thể trở lại với những tâm hồn vị tha rộng rãi, biết hy sinh dục vọng
riêng tư. Và chỉ có chân lý Ngài đã tìm ra, sau bao cuộc thử thách chiến đấu với
ma chướng mời là phương pháp cứu khổ độ lạc.
5.
Sự hy sinh liên tiếp trong vô số kiếp của Ngài, đã làm cho Ngài trở nên một đức
Phật đầy đủ phước đức và trí huệ. Muốn cảm thông và được sức gia hộ của Ngài,
chúng ta phải thường niệm đến danh hiệu của Ngài và làm theo lời Ngài dạy.
--- o0o ---
Mục Lục Toàn Tập
Tập 1
|
1
|
2-0
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
Tập 2
|
7
|
8
|
9-1
|
9-2
|
9-3
|
9-4
|
9-5
|
9-6
|
9-7
|
9-8
|
10
Tập 3 |
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
|
20
--- o0o ---
Source:
www.phatviet.net
Vi tính: Nguyên Trang, Nhị Tường - Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-06-2004