NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2001
TOÀN TẬP
TÂM NHƯ TRÍ THỦ
--- o0o ---
TẬP 2
LUẬT TỲ
KHEO
YẾT MA YẾU CHỈ
Hòa thượng THÍCH TRÍ THỦ Soạn
CHƯƠNG SÁU
AN
CƯ VÀ TỰ
TỨ
TIẾT MỘT
AN CƯ
I.
DUYÊN KHỞI VÀ Ý NGHĨA
Theo luật
Tứ phần ()
duyên khởi của đức Phật qui định mùa an cư của chúng tỳ kheo xả ra khi Ngài đang
trú tại Xá vệ, trong vườn của ông Cấp cô độc. Nguyên do của việc chế định này là
bởi vì sự than phiền của các người cư sĩ đối với nhóm sáu tỳ kheo. Nhóm sáu tỳ
kheo này thường du hành trong dân gian bất cứ vào mùa nào. Khi mùa mưa đến, họ
dẫm đạp chết vô số côn trùng. Các cư sĩ than phiền rằng những tu sĩ ngoại đạo
hằng năm vẫn có ba tháng cố định tại một chỗ, ngay đến các loài cầm thú vẫn còn
có mùa trú ẩn của chúng; huống chi những người sa môn Thích tử lại không biết
nghỉ chân vào mùa mưa, trái lại du hành bất cứ mùa nào. Đức Phật hay biết sự
này, và Ngài đã khiển trách nhóm tỳ kheo sáu người ấy.
Ở đây,
chúng ta có thể rút ra hai nhận xét. Thứ nhất sự than phiền của các cư sĩ chứng
tỏ rằng an cư mùa mưa đã trở thành tục lệ chung cho mọi tu sĩ của các giáo phái
tôn giáo thời bấy giờ. Các tỳ kheo do bởi không chấp hành tục lệ này nên bị các
cư sĩ chỉ trích. Thứ hai sự khiển trách của đức Phật chứng tỏ rằng mặc dù trước
đó Ngài chưa qui định việc an cư mùa mưa, nhưng các thánh tăng hay các tỳ kheo
sống tri túc và trì luật nghiêm chỉnh đều không đi lang thang trong các mùa mưa.
Như vậy, sự ấn định ba tháng an cư mùa mưa của Phật là hợp pháp hóa một thông lệ
hay một tập tục đã được chấp hành một cách tự nhiên giữa các tỳ kheo nói riêng,
và cũng chung cho mọi tu sĩ của các giáo phái ngoài đạo Phật đương thời.
Tuy nhiên,
xét theo thực tế hành trì của giáo đoàn Tăng lữ về việc an cư mùa mưa, thì sự an
cư này không chỉ giới hạn bởi sự việc lại gây tổn hại cho các sâu bọ và các thứ
cây cỏ sinh trưởng nhiều trong mùa mưa. Tham khảo thêm trong các kinh điển,
chúng ta sẽ thấy việc an cư còn có những mục đích khác hơn thế nữa.
Trước hết,
một đoạn ngắn trong kinh Điển Tôn ()
có ghi sự kiện như vầy. Đức Phật kể lại một câu chuyện quá khứ. Trong một tiền
kiếp xa xưa, lúc đức Thích Tôn còn hành Bồ tát đạo. Bấy giờ Ngài thọ sanh làm vị
đại thần có tên là Điển Tôn. Vị đại thần này được mọi người tôn kính, cho rằng
là đã từng thấy Phạm Thiên. Nhưng thực tế thì Điển Tôn chưa từng thấy Phạm
Thiên. Điển Tôn tự suy nghĩ rằng, theo truyền thuyết các bực túc nói lại, nếu ai
tu tập bốn vô lượng tâm trong suốt bốn tháng mùa mưa sẽ được hội kiến với Phạm
Thiên. Do vậy, đại thần Điển Tôn xin phép nhà vua được nghỉ ngơi để có thể tu
tập bốn vô lượng tâm trong suốt bốn tháng mùa mưa. Sau bốn tháng, quả nhiên Điển
Tôn được hội kiến với Hình Đồng Phạm Thiên, và được phạm Thiên đích thân giảng
giải đạo lý cho.
Câu chuyện
kể như vậy chứng tỏ việc an cư cố định tại một chỗ để tu tập vào mùa mưa là một
quan niệm đã có từ xưa, trước thời đức Thích Tôn rất lâu xa. Cho nên, việc an
cư, hạn chế sự đi lại trong mùa mưa, không chỉ vì tránh dẫm đạp côn trùng và cây
cỏ, mà mùa mưa còn được quan niệm từ xa xưa là thời gian thích hợp nhất cho sự
tu tập để có những tiến bộ tâm linh đáng kể. Chính do điều này mà kinh Chánh
pháp niệm xứ nói rằng vào thời kỳ an cư mùa mưa các tỳ kheo ngoại trừ các việc
đi đại và tiểu tiện, còn lại phải thường xuyên ngồi kiết già tại một chỗ để tu
tập thiền định.()
Ngoài ra,
sự an cư mùa mưa còn có một ý nghĩa quan trọng khác nữa. Đó là biểu hiện cho
tinh thần sống chung hòa hợp của cộng đồng tăng lữ tại một trú xứ. Điều này được
thấy rõ trong luật Tứ phần.()
Lúc bấy giờ đức Thích tôn trú tại Xá vệ, trong vườn Cấp Cô Độc. Sau ba tháng an
cư mùa mưa, một số đông các tỳ kheo ở Câu tát la đến hầu thăm Ngài. Đức Thế Tôn
theo thông lệ hỏi thăm đời sống của họ như thế nào trong ba tháng an cư. Họ
trình bày với Ngài sinh hoạt thường nhật của họ. Theo đó, các tỳ kheo này giao
ước với nhau trong suốt mùa an cư rằng không ai nói chuyện với ai bất cứ điều
gì. Nếu có những việc cần thiết mà người này cần đến sự giúp đỡ của người khác
thì chỉ được phép ra dấu chứ không được phép nói. Sinh hoạt này cũng thường xảy
ra giữa các nhóm tỳ kheo và được biết nhiều nhất là nhóm ba tỳ kheo dòng họ
Thích gồm tôn giả A na luật, tôn giả Nan đề và tôn giả Kim tỳ la, các tỳ kheo
khi thì ở Bát na nạn xà ()
khi thì ở Sa kê đế, ()
và luôn luôn được Phật khen ngợi. Nhưng trong trường hợp các tỳ kheo ở Câu tát
la này, thay vì được khen ngợi, đã bị đức Thế Tôn khiển trách. Ngài nói các tỳ
kheo này là những người ngu si, sống chung như vậy là khổ nhưng lại tưởng là an
lạc; chẳng khác nào những kẻ thù cùng sống trong một trú xứ. Nhiệm vụ các tỳ
kheo sống chung là phải giáo giới lẫn nhau, chỉ điểm và sách tấn nahu, chứ không
thể sống như những người câm với nhau, cùng một lề lối sinh hoạt, nhưng có
trường hợp Phật khen ngợi, lại có trường hợp bị Ngài khiển trách, ấy là thế nào?
Đức Phật luôn luôn ca ngợi đời sống trầm lặng của các tỳ kheo, sống xa lánh
những nơi ồn ào náo nhiệt. Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa rằng một tỳ kheo
nên sống tách biệt ngoài cộng đồng Tăng lữ. Sống chung và hòa hợp trong cuộc
sống thánh thiện cao cả, giáo giới và sách tấn lẫn nhau, đó là sinh mệnh của
Tăng đoàn. Đời sống của một tỳ kheo là sống không gia đình, không cố định vĩnh
viễn tại một trú xứ nào, nhưng các tỳ kheo được nối kết nhau thành một cộng đồng
thống nhất bằng giới bổn mà họ phải cùng nhau hòa hiệp để tụng đọc trong mỗi nửa
tháng. Và sự hòa hiệp ấy được củng cố bằng ba tháng an cư vào mùa mưa.
Như vậy, an
cư mùa mưa không phải đơn giản chỉ có nghĩa là hạn chế sự đi lại của các tỳ kheo
để tránh làm tổn thương các sinh vật bé nhỏ và các thứ cây cỏ non.
Trong lịch
sử phát triển của đạo Phật, sinh hoạt an cư kiết hạ là một nhân tố tích cực để
các đệ tử tại gia có điều kiện thuận tiện tham gia vào sự nghiệp củng cố và phát
triển giáo đoàn Tăng lữ. Tăng đoàn thanh tịnh và hòa hiệp là tiêu biểu của sức
sống cụ thể của giáo pháp mà đức Thích Tôn đã từng giảng dạy. Đó cũng là nơi
nương tựa tinh thần vững chắc, và là niềm tin chân chính cho những người tại gia
sống giữa cuộc đời hỗn tạp, đầy những hận thù và tranh chấp.
Một Phật tử
tại gia, có niềm tin thuần tịnh trong sáng đối với Phật, Pháp, Tăng và Thánh
giới, luôn luôn được ghi nhận với bốn đức tính: thân cận thiện sĩ, học hỏi chánh
pháp, suy nghĩ sâu sắc những điều đã học hỏi, và hành trì những điều đã được
chiêm nghiệm. Trong bốn đức tính ấy, đức tính thứ nhất, thân cận thiện sĩ, tức
gần gũi các bậc thiện trí thức, những bậc đạo cao đức trọng. Mỗi năm, vào mùa
mưa, khi các tỳ kheo tạm thời dừng chân tại một trú xứ, thì đây là thời gian mà
những người tại gia có điều kiện thích hợp nhất để thường xuyên gần gũi các bậc
thiện sĩ, học hỏi chánh pháp. Do thế, họ có thể phát huy các đức tính đặc trưng
của một Phật tử tại gia có niềm tin thuần tịnh đối với chánh pháp.
Trong thời
gian đức Thích Tôn còn tại thế, các Phật tử tại gia hoặc tự lực cá nhân nếu có
đủ điều kiện, hoặc những người thân thuộc nhau, hoặc những người cùng sống trong
một làng, một thành phố, hợp tác nhau thỉnh các tỳ kheo về tại trú xứ của mình
an cư kiết hạ, và hỗ trợ các tỳ kheo các nhu cầu cần thiết để các ngài có điều
kiện thuận tiện cho sự tu tập suốt trong ba tháng mùa mưa. Các truyện ký của
Phật giáo thuộc các nền văn học bản sanh và bản duyên thường ghi nhận có nhiều
tỳ kheo đã chứng đắc quả A la hán trong thời gian an cư này, nhờ sự hỗ trợ của
các cư sĩ về các nhu cầu hằng ngày.
Một cộng
đồng thanh tịnh và hòa hiệp, cùng học và cùng tu như sữa với nước vậy, quả là
niềm tin và hy vọng cho con người sống giữa cảnh đời náo nhiệt; và nó chứng tỏ
rằng chánh pháp mà đức Thích Tôn đã giảng thuyết, nếu được thực hành một cách
trọn vẹn, sẽ là cơ sở cho một thế giới an lành. Đây là điều mà vua Ba tư nặc đã
bày tỏ với đức Thế Tôn về niềm tin của mình đối với chính pháp được Thế Tôn
giảng dạy và chúng đệ tử thực hành trọn vẹn.()
Nói tóm
lại, duyên khởi của sự an cư kiết hạ của chúng tỳ kheo dù đơn giản được nói là
do đức Thế Tôn tùy thuận theo ước muốn của các đệ tử tại gia, nhưng trong ý
nghĩa sâu xa thì nó là sinh mạng tồn tại của chánh pháp được duy trì bằng đời
sống thanh tịnh và hòa hiệp của cộng đồng Tăng lữ. Chừng nào chúng tỳ kheo còn
nhiệt thành trong phận sự an cư ba tháng thì bấy giờ chánh pháp vẫn còn là sức
sống phong phú để loàøi người làm nơi qui ngưỡng và xây dựng một thế giới an
lành.
Tính theo
lịch Ấn độ thời xưa, ngày an cư bắt đầu từ mồng một trăng tròn tháng A sa đà,
tức vào khoảng nửa tháng 6 dương lịch kéo dài suốt ba tháng, cho đến hết ngày
trăng tròn tháng Ất thấp phược đệ xà. Theo sự ghi nhận của ngài Huyền Trang
trong Tây vực ký ()
và Pháp Hiển trong Nam hải ký qui nội truyện thì ngày mồng một trăng tròn tháng
A sa đà tương đương ngày 16 tháng 5 theo lịch Trung quốc. Các xứ Phật giáo
phương nam bắt đầu vào ngày 16 tháng 6 tính theo lịch Trung quốc. Nhưng ở Trung
quốc, các luật sư qui định an cư vào ngày 16 tháng 4 theo lịch Trung quốc. Sự
qui định này lấy cơ sở từ bản dịch chữ Hán kinh Vu lan theo đó, ngày tự tứ được
nói là ngày 15 tháng 7 lịch Trung quốc, do vậy, ngày kiết hạ an cư phải bắt đầu
từ 16 tháng 4, các xứ ảnh hưởng Phật giáo Trung quốc như nước ta và nước Nhật
đều theo thông lệ kiết an cư vào ngày 16 tháng 4. Đây là do sự ước tính sai khác
về thời tiết mà các địa phương không đồng nhau. Như ở nước ta, mùa mưa giữa miền
Bắc và miền Nam cũng có sự sai khác nhau hơn một tháng. Tuy vậy, theo phong tục
mỗi nước mà ấn định để phù hợp với thời tiết an cư. Ngày rằm tháng 7, ở nước ta
cũng như ở Trung quốc xa xưa đã trở thành ngày lễ quan trọng, cho nên ngày kiết
hạ an cư vẫn phải bắt đầu từ ngày 16 tháng 4, mặc dù vào thời kỳ này nhiều địa
phương ở nước ta chưa bước vào mùa mưa. Do sự sai biệt theo truyền thống này mà
nước ta hai hệ Tăng già Nam và Bắc truyền không kiết hạ an cư cùng một ngày
thống nhất như nhau.
Thông lệ
nước ta từ xưa ngoài hạn kỳ ba tháng kiết hạ, còn có hạn kỳ ba tháng kiết đông,
tức an cư vào mùa đông, khoảng từ 16 tháng 9 đến hết ngày 15 tháng 12. Đây là
thực hành theo điều được qui định bởi Bồ tát giới Phạm Võng. Theo đó, người thọ
giới bố tát, nếu mỗi năm vào hai thời mùa hạ và mùa đông mà không an cư để tọa
thiền, hành đầu đà thì phạm tội khinh cấu. Ý nghĩa của sự qui định này là do bởi
mùa hạ quá nóng bức và mùa đông quá lạnh lẽo nên sự hành đạo và hóa đạo của
người thọ giới Bồ tát thường gặp phải nhiều khó khăn, do đó, không thể du phương
giáo hóa mà cần phải an cư tọa thiền để bồi dưỡng đạo đức bản thân.
Dù có sự
qui định như vậy, nhưng theo tinh thần Phật chế trong các luật tạng Thanh văn,
thì mỗi năm chỉ có một mùa an cư duy nhất cho các tỳ kheo, do vậy, chỉ có một
mùa an cư chính thức mà thôi, và như vậy mỗi năm cũng chỉ có một ngày tự tứ, lấy
đó làm cơ sở tính tuổi hạ lạp của tỳ kheo. An cư mùa đông, nếu có thực hành, thì
cũng không có ngày tự tứ và không căn cứ theo đó mà tính hạ lạp.
Vả lại, đời
sống Tăng già nguyên thuỷ, y trên bốn thánh chủng, và đức Thế Tôn cũng thường
nhắc nhở các tỳ kheo rằng không nên dừng chân tại một chỗ quá lâu, cho nên luật
cho mỗi năm chỉ có ba tháng an cư là thời gian mà tỳ kheo tạm thời không du
phương hành đạo và giáo hóa.
Có hai hạn
kỳ của sự an cư mùa mưa, gọi là tiền an cư và hậu an cư vào ngày mồng 1 trăng
tròn tháng 4 A sa đà, tức tương đương ngày 16 tháng 4 hay tháng 5 tùy theo cách
tính tháng giữa lịch Ấn độ và lịch Trung quốc. Trong khoảng từ ngày 17 tháng 4
hay tháng 5 cho đến hết ngày 16 tháng 5 hay tháng 6 được gọi là thời kỳ của hậu
an cư. Nói theo thông lệ ở nước ta, ngày kiết tiền an cư là vào ngày 16 tháng 4
âm lịch, và từ ngày 17 đến hết ngày 16 tháng 5 là thời kỳ của hậu an cư. Trong
thời kỳ hậu an cư, luật cũng chia làm hai phần là trung an cư và hậu an cư.
Trung an cư bắt đầu ngày 17 tháng 4 đến hết ngày 15 tháng 5. Hậu an cư là ngày
16 tháng 5. Dù có hai cách chia các thời kỳ an cư như vậy, nhưng trong tác pháp
thường chỉ đề cập đến hai trường hợp là tiền và hậu an cư mà thôi.
Nếu kiết
tiền an cư thì đến hết ngày 15 tháng 7 là hết kỳ hạn. Nếu hậu an cư bắt đầu từ
ngày 17 tháng 4 thì hết ngày 16 tháng 7 là hết hạn. Cứ theo đó mà tính, cho đến
nếu kiết hậu an cư vào ngày 16 tháng 5 thì hết ngày 15 tháng 8 là hết hạn. Nói
cách khác, hạn kỳ an cư nhất định phải đủ ba tháng, gồm 9 tuần mỗi tuần 10 ngày.
Nhưng do tháng thiếu của âm lịch, nên ít khi đủ cả 90 ngày.
Điều cũng
cần nhớ ở đây là thời gian ngày và đêm trong Luật tạng luôn luôn được tính theo
sự sáng và tối của mặt trời. Do đó, nói rằng hạn kỳ an cư bắt đầu từ ngày 16
tháng 4 (hay tháng 5 ta). Có nghĩa là phải kể từ khi ánh sáng mai vừa xuất hiện
của ngày đó. Và nói rằng đến hết ngày 15 tháng 7 tức là hết đêm 15 này lúc ánh
sáng mai của ngày 16 hôm sau bắt đầu xuất hiện. Ánh sáng xuất hiện được phân
biệt theo hai cách: hoặc sáng đủ để nhìn thấy các đường chỉ trong lòng tay, hoặc
đủ sáng để phân biệt được lá vàng với lá xanh. Như vậy, một tỳ kheo từ chỗ khác
muốn đến an cư tại một trú xứ nào đó thì phải đến trước khi ánh sáng mai của
ngày 15 tháng 4 vừa xuất hiện. Để chấp hành đúng thời điểm, các luật sư Trung
Hoa còn phân tích chi tiết thêm rằng, nếu tỳ kheo trên đường đi đến trú xứ an
cư, nhưng chưa kịp bước chân vào cương giới của trú xứ mà ánh sáng ban mai xuất
hiện thì phải liệng một cục đất cho lọt trước vào trong trú xứ. Nguyên tắc cơ
bản phải giữ là phải đặt chân lên đất của trú xứ trước khi ánh sáng mai hiện.
Tuy nhiên, trong trường hợp do duyên sự không thể đến đúng thời điểm, vẫn không
vi phạm nếu tâm niệm luôn luôn hướng vào trú xứ an cư.
Tăng có ba
việc phải làm để tác pháp thọ an cư. Đó là phân phòng xá, hành trù và bạch an
cư.
Tăng đoàn
nguyên thủy hoàn toàn y chỉ trên bốn Thánh chủng, do đó, các tỳ kheo không sống
cố định tại một trú xứ nào. Gặp sự thuận tiện nơi nào trên đường hành đạo và hóa
đạo của mình, thì kiết an cư tại đó. Vì vậy, trước khi thọ pháp an cư Tăng già
tại mọi trú xứ thường phải phân chia lại phòng xá cho tỳ kheo. Để cho việc phân
chia phòng xá được công bình và hợp lý, Tăng già của mọi trú xứ thường phải tác
pháp yết ma cử người phụ trách công tác này. Ngày nay, nhất là tại nước ta, mỗi
trú xứ già lam luôn luôn có các tỳ kheo thường trú, và số tỳ kheo này phần lớn
nhiều hơn tỳ kheo khách đến an cư, do đó công việc phân chia phòng xá thường
được phụ trách bởi tỳ kheo thường trú có trách nhiệm và như vậy, mục đích yết ma
cử người phân phòng xá ít khi được thực hiện. Nhưng để tiện tham khảo, dưới đây
là văn bạch yết ma này:
Sau khi họp
Tăng tại giới trường, vấn đáp tiền phương tiện theo thông lệ, tỳ kheo yết ma
bạch Tăng rằng:
Đại
đức tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay chấp
thuận để cử tỳ kheo… chia phòng xá và ngọa cụ. Đây là lời tác bạch.
Đại
đức tăng, xin lắng nghe. Tăng sai tỳ kheo… phân chia phòng xá và ngọa cụ. Các
Trưởng lão nào chấp thuận Tăng sai tỳ kheo… phân chia phòng xá và ngọa cụ thì im
lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.
Tăng
đã chấp thuận, Tăng sai tỳ kheo… phân chia phòng xá và ngọa cụ, vì đã im lặng.
Tôi ghi nhận như vậy.
Quy tắc
hành trù đại khái cũng như trường hợp thuyết giới. Sau phận sư phân chia phòng
xá và ngọa cụ là đến việc phát và nhận thẻ để kiểm điểm số người an cư, gồm có
tỳ kheo và sa di. Các công việc này đều được thực hiện trước ngày chính thức thọ
an cư một ngày. Tức là nếu biết an cư vào ngày 16 tháng 4 thì tác pháp hành trù
cần được thực hiện vào ngày 15 tháng đó. pháp hành trù này gồm có yết ma đơn
bạch để bố cáo cho Tăng biết việc nhận thẻ, yết ma bạch nhị sai người phát thẻ,
và yết ma đơn bạch chính thức phát thẻ, cuối cùng là đơn bạch để bố cáo cho Tăng
biết đã phát và thu thẻ, kiểm điểm tăng số tỳ kheo và sa di thọ pháp an cư. Dưới
đây là văn yết ma:
a)
Đơn bạch nhận thẻ
Sau khi tập
họp Tăng, vấn đáp tiền phương tiện xong, vị Thượng tọa pháp chủ bạch tăng.
Đại đức
tăng, xin lắng nghe. Tăng nay chuẩn bị tác pháp hạ an cư. Nếu thời gian thích
hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận ngày hôm nay Tăng nhận thẻ, ngày mai kiết hạ
an cư. Đây là lời tác bạch.
b)
Sai người phát thẻ
Tăng đề cử
một hay hai tỳ kheo làm người phát thẻ và thu thẻ. Nếu số tỳ kheo quá đông cần
phải cử nhiều, từ 5 hay 6 tỳ kheo trở lên, thì phải tác pháp hai lần, mỗi lần
Tăng sai tối đa 3 tỳ kheo trở xuống. Văn bạch yết ma như sau:
Đại
đức tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay sai tỳ
kheo… vì Tăng hành xá la. Đây là lời tác bạch.
Đại
đức Tăng, xin lắng nghe. Tăng sai tỳ kheo… vì Tăng hành xá la. Các trưởng lão
nào chấp thuận tăng sai tỳ kheo… vì Tăng hành xá la, thì im lặng. Ai không chấp
thuận thì hãy nói.
Tăng
đã chấp thuận, Tăng sai tỳ kheo… vì Tăng hành xá la, vì đã im lặng. Tôi ghi nhận
như vậy.
c)
Đơn bạch phát thẻ
Người thọ
sai, sau khi đã được Tăng sai, bạch Tăng trước khi phát và thu thẻ. Văn bạch như
sau:
Đại đức
Tăng, xin lắng nghe. tôi tỳ kheo… vì Tăng hành xá la. Đây là lời tác bạch.
Bạch Tăng
xong, các tỳ kheo thọ sai bưng mâm thẻ đi phát. Theo thứ tự, từ vị Thượng tọa
lớn nhất trở xuống. Sa di không dự tác pháp yết ma trong giới trường, do đó tập
hợp ở bên ngoài để nhận thẻ. Người nhận thẻ rời khỏi chỗ ngồi, quì và nhận. Tiếp
theo, người thọ sai thu thẻ để vào một cái mâm khác. Phát và thu xong, bưng mâm
thẻ ra ngoài đếm.
Các luật sư
Trung hoa còn thêm rằng, thẻ thứ nhất dâng lên đức Thích ca, kế là Thượng tọa
pháp chủ. Người phát thẻ bưng mâm thẻ đem trước bàn Phật, lễ một lễ, rồi đứng
dậy, hay dâng thẻ và xướng: "Trung thiên Giáo chủ Thích ca Mâu Ni Phật nhận thẻ
thứ nhất.” Người nhận thẻ bưng cái mâm không đi theo, lễ Phật một lễ rồi thu thẻ
lại đặt vào mâm không đi theo,thẻ cuối cùng được phát cho Hộ pháp. Người phát
thẻ xướng: " An cư Hội thượng Vi Đà Bồ tát nhận thẻ cuối cùng.” Người thu thẻ đi
theo thu lại để vào mâm. Việc phát thẻ đến đức Bổn sư và Hộ pháp không thấy nói
trong luật bản, mà chỉ thấy nói trong Yết ma chỉ nam. Tính cách hợp pháp của nó
cần phải thảo luận nhiều. Ở đây chỉ ghi lại tiện việc tham khảo mà thôi.
Phát thẻ,
thu thẻ và đếm thẻ xong, người thọ sai trở lại trước Tăng và bạch:
Nay là
năm… kết an cư ba tháng phần đầu của mùa hạ. Gồm (số) tỳ kheo và (số) sa di.
Tăng hành xá la đã xong.
Tác pháp
bạch an cư được chia làm hai trường hợp, có khác nhau chút đỉnh, tức tác pháp
của hàng Thượng tọa, và tác pháp của đại chúng. Đây là sự ấn định của các luật
sư Trung hoa, còn trong các luật bản thì không có sự phân biệt này.
a)
Tác pháp của hàng Thượng tọa
Trong đây
gồm cả vị pháp chủ, cũng gọi là thuyền chủ, là vị luật sư y chỉ cho đại chúng.
Sự khác nhau được phân biệt giữa hàng Thượng tọa và đại chúng là do bởi các
Thượng tọa nương trên vị luật sư y chỉ, do đó văn bạch an cư có hơi sai khác.
Theo thứ
tự, vị Thượng tọa lớn nhất tác pháp đối thủ thọ an cư với một vị Thượng tọa gần
ngang hàng. Cả hai vị hoặc cùng đứng hoặc cùng quì cả. Văn bạch nói như sau:
Đại
đức nhất tâm niệm. Tôi tỳ kheo… nay y nơi (tên trú xứ) tăng già
lam an cư ba tháng đầu của mùa hạ. Nếu phòng xá có hư hại, sẽ tu bổ.
(nói ba lần)
Văn bạch
trên đây nói theo luật Tứ phần. Các luật khác đại khái giống nhau. Chỉ riêng
luật Ma ha tăng kỳ không có câu kết cuối, tức câu "Nếu phòng xá có hư hại, sẽ tu
bổ.” Các luật dù có ghi câu này nhưng không thấy có giải thích. Luật Ma ha tăng
kỳ được coi là gần luật bộ nguyên thủy hơn cả. Điều này cho thấy trong lịch sử
chế độ Tăng già giữa các bộ phái, phận sự an cư càng về sau càng được giới hạn
chặt chẽ. Như đoạn trên đó nhắc đến kinh Chánh pháp niệm xứ, trong đó nói, tỳ
kheo an cư ngoài việc đại tiểu tiện ra phải thường xuyên ngồi kiết già tọa thiền
chứ không được làm các công việc linh tinh khác. Cũng vậy, giữa các bộ phái, dù
các luật không giải thích, người ta cũng thấy có một sự ấn định gần như tương
tự. Nhưng nhất định có trường hợp đã xảy ra là trong khi an cư mà thảng phòng xá
có hư hại, mà lúc đó lại không có các cư sĩ để làm thay hộ mà các tỳ kheo phải
tự mình sửa sang lấy, cho nên qui chế an cư được nới rộng ra một chút bằng câu
"nếu phòng xá có hư hại, sẽ tu bổ" nêu trên.
Sau khi vị
Thượng tọa lớn nhất, thường là vị luật sư y chỉ của đại chúng, đã tác pháp thọ
an cư xong, lần lượt đến các Thượng tọa, theo thứ tự từ lớn đến nhỏ. Mỗi vị đều
tác pháp đối thủ với vị Thượng tọa luật sư y chỉ ấy mà thọ an cư.
b)
Tác pháp của đại chúng
Theo Phật
chế, tại mỗi trú xứ an cư phải có một vị Thượng tọa làm luật sư y chỉ cho đại
chúng, để xử trị và nhắc nhở các tỳ kheo chưa thông suốt luật. Vì đại chúng an
cư cần phải nương vào luật sư y chỉ, do đó văn bạch có khác với hàng Thượng tọa.
Theo thứ tự
lớn nhỏ. Tỳ kheo lớn nhất trong đại chúng bạch an cư trước. Vị này bước ra lễ
Thượng tọa y chỉ một lễ rồi quì bạch, văn bạch như sau:
Đại đức
nhất tâm niệm. Con tỳ kheo… nay y nơi (nói tên trú xứ) tăng già
lam an cư ba tháng đầu của mùa hạ. Nếu phòng xá có hư hại, sẽ tu bổ.
Thượng tọa
nói:
- Vậy
hãy cẩn thận chớ buông lung.
Đáp:
- Thọ
trì (hay Y giáo phụng hành).
Thượng tọa
hỏi tiếp:
- Y vị
nào làm luật sư?
- Y
(nói hiệu luật sư y chỉ) làm luật sư.
Thượng tọa
nói:
- Có
điều gì nghi ngờ nên đến hỏi.
-
Nhĩ (hay kính
vâng).
Trên đây là
văn bạch tiền an cư. Nếu là hậu an cư thì cũng vậy, nhưng đổi ba tháng đầu thành
ba tháng cuối. Tỳ kheo ni, thức xoa ma na, sa di và sa di ni cũng tác pháp
như trên, nhưng đổi các từ xưng hô cho thích hợp. Ngoài cách tăng pháp đối
thủ an cư trên, còn có cách tâm niệm an cư.
c)
Tâm niệm an cư
Trong
trường hợp không có người để ý chỉ hoặc ở một mình tỳ kheo được phép tác pháp
tâm niệm an cư. Tỳ kheo ni không được phép sống riêng biệt do đó không có cách
tác pháp tâm niệm an cư. Chỉnh trang y hậu, có thể đến trước tượng Phật, quì
bạch thành tiếng (không được nói thầm) như sau:
Con
tỳ kheo… nay y nơi (nói tên trú xứ) an cư ba tháng đầu (hay
cuối) của mùa hạ. (nói ba lần)
Nếu không
tác pháp như vậy thì không thành an cư. Nhưng nếu lỡ quên, mà trước đã có chủ ý
an cư, thì cũng vẫn thành an cư.
Tại các
tăng già lam thông thường phạm vi cương giới của trú xứ đã được tác pháp ấn
định. Nếu trú xứ quá nhỏ, mà khi an cư muốn nới rộng hay ngược lại, thì cần phải
tác pháp giải cương giới cũ rồi kết lại. Tác pháp kết giới, gồm xướng tiêu
tướng, và bạch yết ma, đều đã được nói trong chương II ở trên.
Trong thời
gian an cư, không được ra khỏi phạm vi của trú xứ, trừ việc đi khất thực. Tuy
nhiên, như đã nói, một trong những mục đích của sự an cư là tạo cơ hội để những
người Phật tử tại gia có thể gần gũi và phụng sự Tăng. Do đó vì ích lợi của Phật
tử tại gia nên mỗi khi họ có thỉnh cầu, tỳ kheo có thể xuất giới, tức ra khỏi
phạm vi của trú xứ an cư, không thể đi và về trong một ngày, mà phải ở lại cách
đêm. Trong những trường hợp vì duyên sự chính đáng như vậy, có hai thể thức cho
phép xuất giới, xuất giới trong thời hạn từ 7 ngày trở lui, và thời hạn từ 7
ngày đến 40 ngày.
a)
Xuất giới 7 ngày
Tỳ kheo có
duyên sự chính đáng cần xuất giới trong thời hạn 7 ngày trở lại, trước khi xuất
giới, phải tác pháp thọ nhật chứ không thể tự tiện đi. Đây là tác pháp đối thủ,
không phải bạch Tăng, mà chỉ cần bạch với một tỳ kheo đang an cư trong cùng trú
xứ là được. Văn tác bạch như sau:
Đại
đức nhất tâm niệm. Tôi tỳ kheo… nay có duyên sự… xin được xuất giới 7 ngày. Sau
khi duyên sự xong, sẽ trở lại đây an cư. Kính mong đại đức chứng tri.
(nói ba lần)
Nếu tại trú
xứ an cư của mình không có tỳ kheo nào cả, cũng có thể nói với sa di hoặc cư sĩ.
Hoặc nếu hoàn toàn không có ai cả, thì chỉ tâm niệm tác pháp. Tỳ kheo xuất giới
mà không tác pháp thì được coi là mất hạ.
Sau khi
xuất giới, duyên sự xong, trở lại trú xứ an cư, nhưng thời hạn 7 ngày đã hết
nhưng việc chưa xong, nếu trở lại trú xứ thì cần tác pháp tàn dạ rồi mới có thể
tiếp tục đến chỗ có duyên sự trước đó. Tàn dạ nghĩa là đêm còn dư. Cũng tác pháp
đối thủ như khi xuất giới. Văn bạch như sau:
Đại
đức nhất tâm niệm. Tôi tỳ kheo… đã thọ pháp xuất giới bảy ngày, đã hết
(số ngày) nhưng duyên sự chưa xong, nay còn lại… đêm. Kính mong Đại đức
chứng tri (nói ba lần) ().
b)
Yết ma thọ nhật
Thể thức
xin xuất giới trên 7 ngày. Nếu thời hạn cần thiết đủ để hoàn tất duyên sự từ 7
ngày trở lên, và tối đa là 40 ngày, thì cần phải bạch Tăng, sau khi Tăng đã tác
pháp yết ma thọ nhật mới được phép xuất giới. Nói là 40 ngày, nhưng thực tế đêm
cuối cùng phải có mặt tại trú xứ an cư, do đó thời hạn tối đa là 39 đêm. Thời
hạn này không thể vượt qua, vì thời gian ở trong giới cần phải nhiều hơn thời
gian ở ngoài. Nếu quá thời hạn này, được coi là phá hạ.
Tỳ kheo
muốn xuất giới thỉnh Tăng với túc số là 4 tỳ kheo, vào giới trường để tác pháp.
sau khi vấn đáp tiền phương tiện cho yết ma thọ nhật xong, thầy tỳ kheo yết ma
bạch:
Đại
đức tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay chấp
thuận tỳ kheo… thọ pháp quá bảy ngày để xuất giới trong thời hạn… ngày vì duyên
sự… sau đó sẽ trở về an cư. Đây là lời tác bạch.
Đại
đức tăng, xin lắng nghe. Tỳ kheo… xin thọ pháp quá bảy ngày để xuất giới trong
thời hạn… ngày, vì duyên sự… sau đó sẽ trở về an cư. Các Trưởng lão nào chấp
thuận tỳ kheo… thọ pháp quá bảy ngày để xuất giới, thời hạn… ngày vì duyên sự…
sau đó trở về an cư, thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.
Tăng
đã chấp thuận tỳ kheo… được thọ pháp quá bảy ngày để xuất giới, thời hạn… ngày
vì duyên sự.., sau đó trở về an cư, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
Tăng đã yết
ma thọ nhật xong, tỳ kheo thọ nhật phải rời khỏi trú xứ nội trong một ngày,
không được để cách đêm, nếu đã bước chân ra khỏi cương giới của trú xứ, không
được phép lùi lại. Nếu lỡ có quên cái gì mà trở vào trú xứ, cần phải thỉnh cầu
tăng tác pháp yết ma thọ nhật lại. Cho rồi mới được phép xuất giới.
Phá hạ
nghĩa là vi phạm các điều thuộc quy chế an cư mà luật đã thiết định. Chủ yếu của
sự phá hạ là rời khỏi trú xứ. Có hai trường hợp phá hạ: hợp pháp và không hợp
pháp. Phá hạ không hợp pháp là tự mình bước ra khỏi phạm vi của trú xứ an cư mà
không có duyên sự, không có tác pháp đúng pháp.
Trường hợp
phá hạ không hợp pháp là do có những tai nạn bất ngờ xảy đến. Hoặc khi thọ nhật
xuất giới đã hết hạn, nhưng do các tai nạn xảy đến không thể trở về trú xứ an cư
kịp thời hạn; trường hợp này không được kể là phá hạ. Nhưng nếu có tai nạn bắt
buộc phải rời khỏi trú xứ an cư, để di chuyển đến một trú xứ khác tiếp tục an
cư, trường hợp này cũng không nói là phá hạ. Nếu bị bắt buộc phải rời khỏi trú
xứ an cư, nhưng không thể tiếp tục an cư ở bất cứ trú xứ nào khác nữa; đây mới
thực sự là phá hạ.
Có tám tai
nạn mà tỳ kheo rời khỏi trú xứ được coi là phá hạ hợp pháp.()
1. Nguy
hiểm phạm hạnh: tại trú xứ an cư, tỳ kheo có thể bị những người quyền thế ép
buộc phá giới; hoặc có những người nữ thường đến quyến rủ phá giới, hoặc cha mẹ,
anh em, thân thích thuyết phục phá giới. Để bảo vệ đời sống tu tịnh hạnh, tỳ
kheo có thể rời bỏ trú xứ này.
2. Nguy
hiểm vì kho tàng: sau khi đã kiết hạ an cư tại một trú xứ nào đó, các tỳ
kheo mới biết rằng ở đây có kho tàng; nếu sống tại đây có thể có những điều nguy
hiểm xảy ra.
3. Qủy
phá hoại: trú xứ an cư của tỳ kheo thường bị ma qủy quấy phá, đe dọa sinh
mạng.
4. Rắn
độc.
5. Thú
dữ.
6. Giặc
cướp: cả ba trường hợp đều là những tai nạn nguy hiểm đến sinh mạng.
7. Thiếu
thốn các nhu cầu: như ăn uống, thuốc men, hay không có người giúp đỡ.
8. Phá
Tăng: Tăng tại trú xứ an cư đang chia rẽ, không hòa hiệp; tỳ kheo không muốn
bị lôi cuốn vào sự tranh chấp không thể hòa hiệp, có thể rời bỏ đi nơi khác.
Trong các
trường hợp thọ nhật xuất giới và phá hạ được nói trên đây, thì yết ma thọ nhật
không áp dụng cho ni, vì tỳ kheo ni không được pháp xuất giới quá bảy ngày. Các
trường hợp khác, cũng đồng như tỳ kheo.
-------------------------------------------
TIẾT HAI
TỰ TỨ
I.
Ý NGHĨA
Tự tứ
là tiếng dịch Hán từ tiếng Phạn, Pravàranà. Từ này cũng được phiên âm là
bát hòa la, và có các tiếng dịch Hán khác như thỉnh thỉnh ()
hay tùy ý.()
Nghĩa từ này là sự thỉnh cầu. Đây chỉ cho sự thỉnh cầu người khác chỉ điểm những
khuyết điểm của mình. Sự chỉ điểm được căn cứ trên ba trường hợp: do được thấy,
được nghe và được nghi.
Mục đích
của việc tự tứ cũng giống như của việc thuyết giới, đó là biểu hiện sự thanh
tịnh và hòa hiệp của Tăng. Nhưng nó quan trọng hơn sự thuyết giới ở chỗ mở ra
một giai đoạn mới trong đời sống đạo hạnh của một tỳ kheo, sau khi chấm dứt thời
hạn ba tháng sống chung giữa Tăng.
Nhật kỳ tự
tứ cũng giống như của việc thuyết giới, được thực hiện thông thường vào ngày
trăng tròn 15. Nhưng khác với thuyết giới có định kỳ mỗi nửa tháng, thì tự tứ
chỉ định kỳ một lần trong một năm sau mùa an cư mà thôi. Nói cách khác, tự tứ là
một hình thức bố tát không đọc giới bổn. Do đó, các việc tập họp tăng, kết tiểu
giới, và hành trù kiểm tăng, cả hai đều giống nhau. Cho đến các trường hợp tỳ
kheo khách đến dự tự tứ, việc dời ngày tự tứ do các duyên sự bất thường, thảy
đều giống nhau cả.
Tuy nhiên,
có một số điểm khác biệt giữa tự tứ và thuyết giới sẽ được nêu lên dưới đây.
Trong sự
thuyết giới, túc số tăng tối thiểu là bốn tỳ kheo. Nhưng trong sự tự tứ, túc số
tăng tối thiểu phải là năm tỳ kheo. Bởi vì trong số năm tỳ kheo, khi một tỳ kheo
bạch tự tứ, nghĩa là yêu cầu Tăng chỉ điểm những khuyết điểm của mình, thì tăng
số phải đủ bốn tỳ kheo. Nếu chỉ hiện diện từ bốn tỳ kheo trở xuống đến hai vị,
thì chỉ được phép tác pháp đối thủ tự tứ. Còn nếu chỉ có một tỳ kheo thì chỉ tác
pháp tâm niệm tự tứ.
Thuyết giới
tất nhiên phải đọc giới bổn. Trong khi đọc tỳ kheo nào nhớ lại điều mình vi phạm
thì bày tỏ mà sám hối. Như vậy, sự sám hối có tính cách tự giác và tự nguyện. Tự
tứ không có thuyết giới, mà mỗi người, từ vị Thượng tọa lớn nhất cho đến tỳ kheo
nhỏ nhất, phải tự mình yêu cầu Tăng chỉ điểm. Như vậy, nó không thuộc tính cách
tự nguyện và tự giác. Cho nên, phạm vi thuyết tội của tự tứ rộng rãi hơn thuyết
giới rất nhiều. Do sự kiện này mà yết ma thuyết giới và yết ma tự tứ có khác
nhau.
Cũng như
thuyết giới, tỳ kheo có duyên sự như pháp có thể gởi dục. Nhưng trong trường hợp
thuyết giới, do tính cách tự nguyện và tự giác, do đó sự gởi dục gồm luôn ca sựï
thuyết tịnh. Trong trường hợp tự tứ, chỉ gởi dục chứ không có sự thuyết tịnh.
Nói tóm
lại, ngoài ba điểm khác nhau căn bản trên đây những vấn đề còn lại, cả thuyết
giới và tự tứ đều áp dụng nguyên tắc như đã nói trong chương thuyết giới.
Cũng giống
như thuyết giới, trước khi Tăng tự tứ, các tỳ kheo cần phải sám hối cho thanh
tịnh. Dự kỳ sám hối thường được làm trước tự tứ một ngày, để các tỳ kheo có tội
có đủ thời gian cần thiết sám hối. Phận sự này không khác với dự kỳ sám hối để
thuyết giới, và đã được nói trong chương thuyết giới trên.
Việc hành
trù để kiểm điểm tăng số là phận sự phải làm để thuyết giới tự tứ. Cách hành trù
kiểm tăng để tự tứ cũng đồng nguyên tắc như thuyết giới.
Riêng tự tứ
còn có thêm mục hành thảo. Hành thảo tức phát cỏ. Đây là phỏng theo sự kiện đức
Thích Tôn ngồi trên đệm cỏ cát tường, tọa thiền trong 49 ngày mà thành Chánh
giác. Nay để nhắc nhở kỷ niệm đó và để nêu rõ mục đích cao thượng của đời sống
xuất gia, do đó có sự phát cỏ này. Tuy nhiên, vì chỉ có tính cách tượng trưng
nên không nhất thiết phát mỗi tỳ kheo một cái đệm cỏ để ngồi, mà chỉ cần phát
mỗi vị một cọng cỏ tượng trưng là đủ. Việc phát cỏ do người nhận tự tứ phụ
trách, sau khi đã được Tăng tác pháp yết ma tự tứ. Hành thảo hay phát cỏ là điểm
đặc biệt riêng của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ chứ không thấy nói trong các
bộ phái khác, do đó không phải là phận sự bắt buộc.
Một trong
tám kỉnh pháp của tỳ kheo ni là phải cử người đến giữa đại Tăng cầu thỉnh ba sự
tự tứ. Khác với ni tăng cầu thỉnh giáo giới vào mỗi định kỳ nửa tháng thuyết
giới là có thể chúc thỉnh, nghĩa là đến già lam của tỳ kheo tăng nhờ một tỳ kheo
thỉnh giáo thọ sư giùm khi Tăng tác pháp thuyết giới; ở đây tỳ kheo ni được sai
cầu thỉnh giáo giới tự tứ phải tự thân đến trước đại Tăng mà tác bạch. Văn yết
ma như sau: ni tăng sai người thỉnh giáo giới tự tứ.
Đại
đức tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng. Tăng sai tỳ kheo
ni…qua đại Tăng vì tỳ kheo ni tăng cầu nói ba sự tự tứ là thấy, nghe và nghi.
Đây là lời tác bạch.
Đại
đức tăng, xin lắng nghe. Tăng nay sai tỳ kheo ni… qua đại Tăng vì tỳ kheo ni
tăng cầu nói ba sự tự tứ là thấy, nghe và nghi. Các Trưởng lão nào chấp thuận,
Tăng nay sai tỳ kheo ni… qua đại Tăng vì tỳ kheo ni tăng cầu nói ba sự tự tứ là
thấy, nghe và nghi, thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.
Tăng đã
chấp thuận ni tăng nay sai tỳ kheo ni qua đại tăng vì tỳ kheo ni tăng cầu nói ba
sự tự tứ là thấy, nghe và nghi vì im lặng, Tôi ghi nhận như vậy.
Tỳ kheo ni
được sai cầu thỉnh tự tứ hỏi kỹ cho biết ngày giờ tỳ kheo tăng tự tứ, và thông
báo cho người chấp sự của Tăng biết, để khi tác pháp tự tứ, hỏi đến chỗ: "Có
ai sai tỳ kheo ni đến thỉnh cầu giáo giới tự tứ không? Sẽ được gọi vào
mà bạch Tăng cầu thỉnh.
Phân loại
theo túc số, thì yết ma tự tứ có ba loại là tăng pháp yết ma gồm từ năm tỳ kheo
trở lên, đối thủ tự tứ gồm từ bốn tỳ kheo trở xuống đến hai vị, tâm niệm tự tứ
áp dụng trong trường hợp tỳ kheo vì duyên sự hợp pháp không đến tự tứ.
Trong ba
phân loại theo túc số tự tứ này, về tăng pháp yết ma tự tứ, nếu phân loại theo
hoàn cảnh thì có hai cá nhân tự tứ và tập thể tự tứ. Hoàn cảnh ở đây là có hay
không có nạn duyên.
Cá nhân tự
tứ: là từng tỳ kheo một, từ Thượng tọa cho đến tỳ kheo nhỏ nhất, lần lượt mỗi
người tự nói ba lần cầu thỉnh tự tứ. Tự tứ tập thể là loạt ba người cùng tác
bạch tự tứ một lần. Trong trường hợp này, Tăng sai nhiều tỳ kheo Thượng tọa làm
người nhận tự tứ. Các vị này đều bạch tự tứ theo thể thức cá nhân, sau đó mới
đến lượt đại chúng. Từng nhóm tỳ kheo ba người lần lượt bạch tự tứ. Chỉ giới hạn
số ba người, vì tăng tự tứ với Tăng không được coi là hợp pháp. Đây là nạn duyên
không bức thiết lắm. Nếu nạn duyên quá bức thiết, không đủ thời gian để tự tứ
cho số đông tỳ kheo, thì có thể tự tứ theo thể thức tác bạch vắn tắt. Tức thay
vì bạch ba lần, ở đây chỉ bạch hai hay một lần. Nhưng các thể thức này phải cân
nhắc theo nạn duyên, không thể tự tiện.
a)
Vấn đáp tiền phương tiện
Yết ma tự
tứ là nói tổng quát trong đó căn bản gồm hai thể thức yết ma: một bạch nhị tăng
sai người nhận tự tứ và một đơn bạch chính thức tự tứ. Yết ma sai người hành xá
la có thể áp dụng hay không đều được phép tùy tiện. Nếu kể luôn cả yết ma sai
người hành xá la này nữa, thì yết ma tự tứ gồm có ba tiết mục tất cả.
Như vậy,
trong vấn đáp tiền phương tiện, khi hỏi: "Tăng nay hòa hiệp để làm gì? Thì được
trả lời tổng quát là "Yết ma tự tứ.” Mặc dù trong tác pháp tự tứ gồm có hai mục
yết ma căn bản là bạch nhị yết ma tăng sai và đơn bạch yết ma tự tứ, nhưng chỉ
một lần vấn đáp tiền phương tiện mà thôi.
Thể thức
tác pháp tiền phương tiện:
Sau khi
đánh hiệu tập tăng, các tỳ kheo đã an tọa ấn định trong phạm vi giới trường,
Thượng tọa hỏi:
- Tăng
đã họp chưa?
Duy na đáp:
-
Tăng đã họp.
- Hòa
hiệp không?
- Hòa
hiệp.
- Người
chưa thọ cụ túc đã ra chưa?
- Đã
ra.
- Các
tỳ kheo không đến có thuyết dục tự tứ không?
Việc gởi
dục, nhận dục và thuyết dục đều giống như trong thuyết giới. Có khác thay vì nói
"Gởi dục và thanh tịnh" thì ở đây nói "Gởi dục tự tứ."
Thượng tọa
hỏi tiếp:
- Có ai
sai tỳ kheo ni đến thỉnh giáo giới tự tứ không?
Nếu có thì
duy na đáp: có, và cho gọi tỳ kheo ni thọ sai vào. Tỳ kheo ni thọ
sai, sau khi đảnh lễ đại tăng quỳ xuống bạch:
Bạch
đại đức tăng (nói tên chùa ni) tỳ kheo ni tăng hạ an cư đã xong.
Tăng sai chúng con tỳ kheo ni… qua đại Tăng vì tỳ kheo ni tăng cầu nói ba sự tự
tứ, là các tội được thấy, được nghe, được nghi ngờ. Ngưỡng mong đại đức tăng rủ
lòng thương tưởng chỉ giáo. Nếu chúng con thấy có tội sẽ như pháp sám hối.
(nói ba lần)
Trong Tăng,
nếu tỳ kheo nào thấy có điều gì cần chỉ giáo về ba việc thấy, nghe và nghi đối
với ni chúng thì nói còn không thì tất cả im lặng. Chờ đợi sự chỉ giáo của các
tỳ kheo một lúc, Thượng tọa nói lời giáo giới:
Trong
đại tăng từ trên xuống dưới thảy đều im lặng như vậy, thật do ni chúng bên trong
chuyên cần ba nghiệp, bên ngoài vô sự, cho nên không có điều gì trái phạm. Tuy
nhiên như vậy, các vị hãy nói lại với ni chúng, đại Tăng có giáo sắc rằng ni
chúng như pháp mà tự tứ, cẩn thận chớ buông lung.
Tỳ kheo
ni thọ sai đáp:
- Y
giáo phụng hành.
Rồi đảnh lễ
đại Tăng mà lui ra. Bây giờ Thượng tọa hỏi giữa Tăng:
- Tăng
nay hòa hiệp để làm gì?
Duy na đáp:
- Yết
ma tự tứ.
b)
Yết ma tăng sai người nhận tự tứ
Theo nguyên
tắc mỗi tỳ kheo phải tự mình quỳ trước tăng để thỉnh cầu Tăng chỉ giáo cho những
khuyết điểm mà mình có thể phạm trong suốt ba tháng an cư. Nhưng phần lớn các
luật của các bộ phái được truyền định tại Trung quốc đều có việc sai người nhận
tự tứ. Người nhận tự tứ là người được tăng đề cử để chỉ điểm sai lầm cho các tỳ
kheo. Tỳ kheo cần hội đủ năm đức tính để được Tăng sai làm người nhận sự tự tứ.
Năm đức tính đó là: không yêu, không ghét, không rụt rè, không ngu dốt, biết rõ
nguyên tắc cử tội. Sở dĩ có vấn đề Tăng sai tỳ kheo đủ các đức tính cần thiết để
làm người nhận tự tứ là tránh các trường hợp một số tỳ kheo hiếu sự tự tiện nêu
tội người cầu tự tứ một cách càn dỡ, hoặc phá chơi, hoặc cố ý, gây sự phiền phức
giữa Tăng.
Sau khi vấn
đáp tiền phương tiện xong, Thượng tọa hỏi:
- Trong
chúng có vị nhân giả nào kham năng làm người nhận tự tứ không?
Các tỳ kheo
hội đủ đức tính cần thiết để làm người nhận tự tứ ứng tiếng nói:
Tôi tỳ
kheo… kham năng.
Một lần yết
ma tăng sai có thể từ một đến ba vị. Nếu từ bốn vị đến năm hay sáu vị, thì chia
làm hai nhóm, là hai lần yết ma tăng sai. Nếu nhiều hơn nữa, thì phân thành
nhiều nhóm và yết ma nhiều lần, mỗi lần tối đa là ba vị.
Thượng tọa
bạch yết ma tăng sai:
Đại
đức tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay sai tỳ
kheo… và tỳ kheo… làm người nhận tự tứ. Đây là lời tác bạch.
Đại
đức tăng, xin lắng nghe. Tăng sai tỳ kheo… tỳ kheo… làm người nhận tự tứ. Các
trưởng lão nào chấp thuận Tăng sai tỳ kheo… tỳ kheo… làm người nhận tự tứ, thì
im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.
Tăng
đã chấp thuận tỳ kheo… tỳ kheo… làm người nhận tự tứ, vì im lặng. Tôi ghi nhận
như vậy.
c)
Đơn bạch tự tứ
Các tỳ kheo
thọ sai bước ra đảnh lễ tăng. Một vị trong các vị được thọ sai bạch Tăng chính
thức tác pháp tự tứ.
Đại đức
tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, tăng nay hòa hiệp tự
tứ. Đây là lời tác bạch.
d)
Chính thức tự tứ
Thượng tọa
pháp chủ nói tự tứ trước hết. Tiếp theo đó, các vị thọ sai nói tự tứ, rồi lần
lượt đến các tỳ kheo khác. Khi bạch tự tứ, nếu là hàng Thượng tọa, thì có thể
đứng hay quì đều được cả. Nếu Thượng tọa đứng, thì tất cả chúng có thể đứng hay
quỳ khi nói tự tứ. Nếu Thượng tọa quỳ nói tự tứ, thì tất cả chúng đều phải quỳ
để nói tự tứ.
Người tự tứ
rời khỏi chỗ ngồi, lễ người nhận tự tứ một lễ, rồi nói:
Đại
đức nhất tâm niệm. Hôm nay chúng tăng tự tứ. Tôi tỳ kheo… cũng tự tứ. Nếu có tội
được thấy, được nghe, được nghi, nguyện đại đức thương tưởng chỉ giáo tôi. Nếu
tôi thấy có tội, sẽ như pháp sám hối. (nói ba lần)
Người
nhận tự tứ đáp:
-
Thiện.
Người tự tứ
đáp:
- Nhĩ.
Các tỳ kheo
theo thứ tự lớn đến nhỏ nói tự tứ xong, các vị nhận tự tứ bước ra giữa Tăng, một
vị bạch:
Tăng
nhất tâm tự tứ đã xong.
Tác pháp tư
tứ đến đây là hết. Các chi tiết như lễ Phật, hồi hướng v.v… đều có thể tùy tiện.
e) Tự
tứ vắn tắt:
Nếu vì nạn
duyên không đủ thời gian để tự tứ lần lượt từng người, hay đủ để nói ba lần tự
tứ tập thể hay đồng loạt. Nhưng muốn tự tứ theo thể thức này thì phải yết ma.
Thượng tọa
bạch cùng:
Đại đức
tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay mỗi mỗi đồng
loạt nói tự tứ ba lần. Đây là lời tác bạch.
Nếu không
đủ thời gian để nói ba lần tự tứ, mà chỉ có thể nói hai hoặc một lần, thì trong
lời bạch yết ma thay đổi cho thích hợp.
f)
Đối thử tự tứ
Tăng không
đủ túc số năm người, không thể thực hiện tăng pháp tự tứ. Mỗi người đổi nhau mà
tác bạch rằng:
Bạch
đại đức nhất tâm niệm, ngày nay chúng tăng tự tứ. Tôi tỳ kheo… thanh tịnh
(nói ba lần).
Tức là, nếu
gồm bốn tỳ kheo, thì một ngưới nói tự tứ với ba người còn lại. Nếu gồm có ba tỳ
kheo, thì đổi lời bạch thành "Hai đại đức nhất tâm niệm", và nếu
chỉ có hai tỳ kheo thì cũng đổi lại là "Đại đức nhất tâm niệm."…
g)
Tâm niệm tự tứ
Nếu không
có tỳ kheo nào khác để đối thu tác pháp, thì tự mình y hậu chỉnh tề, tâm niệm.
Có thể miệng nói thành lời để tự tứ.
Theo nguyên
tắc, đủ 9 tuần an cư thì Tăng hòa hiệp tác pháp tự tứ. Nếu có duyên sự đặc biệt
cần triển hạn thì phải họp tăng tác pháp yết ma triển hạn.
Có hai
duyên sự để có thể triển hạn. Thứ nhất do Tăng hòa hiệp an cư có những tiến bộ
đáng kể nếu có thể kéo dài thêm thời hạn an cư để các tỳ kheo có thêm thời gian
tu tập hầu có thể chứng đắc đạo quả niết bàn thì Tăng có thể tác pháp yết ma
triển hạn nhật kỳ tự tứ, tối đa là một tháng.
Thứ hai do
Tăng chưa được thanh tịnh và hòa hiệp. Nguyên do có thể do có những tranh chấp
ngay giữa các tỳ kheo cùng sống chung trong trú xứ an cư hoặc do các tỳ kheo
khác hiện diện. Trường hợp này giống như trường hợp thuyết giới và do đó nguyên
tắc để triển hạn giống nhau.
a)
Triển hạn tự tứ để tiến tu
Tập họp
toàn thể Tăng trong trú xứ. Thượng tọa bạch Tăng: Đại đức tăng, xin lắng
nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng ngày hôm nay không tự tứ đợi đủ
bốn tháng an cư xong sẽ tự tứ. Đây là lời tác bạch.
b)
Triển hạn tự tứ do phá tăng
Văn bạch
yết ma:
Đại
đức tăng, xin lắng nghe. Ngày hôm nay Tăng không tứ tứ. Đợi đến ngày 15 (hoặc
16) tháng đến (cũng có thể nói đợi đến ngày 30 hoặc
29) sẽ tự tứ. Đây là lời tác bạch.
Đến hết hạn
kỳ triển hạn, mà sự tranh chấp giữa tăng vẫn chưa được giải quyết, có thể triển
hạn thêm 15 ngày nữa. Văn bạch y như trên, chỉ đổi những từ chỉ ngày tháng cho
thích hợp. Nếu hết hạn kỳ triển hạn mà tăng vẫn chưa hòa hiệp, hay các tỳ kheo
khách chưa đi, thì phải y theo luật cưỡng bức các tỳ kheo hiếu sự hòa hiệp tự
tứ, nếu không thể cưỡng bức, các tỳ kheo thanh tịnh đồng ra khỏi cương giới của
trú xứ, kết tiểu giới tự tứ.
Theo nguyên
tắc, hạn kỳ an cư phải đủ chín tuần. Ngày tự tứ dù là ngày cuối cùng, nhưng vẫn
ở trong hạn kỳ an cư do đó phải đợi hết đêm, tức sáng hôm sau khi ánh sáng mai
xuất hiện mới được xuất giới. Những tỳ kheo hậu an cư, cũng tự tứ chung một lần
với các tỳ kheo tiền an cư, nhưng phải đợi đến hết hạn kỳ, tức phải đủ chín
tuần, mới được phép rời trú xứ an cư.
Theo Tứ
phần hành sự sao ()
tỳ kheo sau khi hết hạn kỳ an cư phải xuất giới, tức rời khỏi trú xứ an cư. Sở
cứ của điều này là luật Tứ phần,()
dưới điều khoản 96 thuộc ba dật đề của ni. Duyên khởi là do tỳ kheo ni Sám
ma được các cư sĩ tại thành Xá vệ thỉnh an cư. Hạn kỳ an cư đã hết ngày tự tứ đã
qua, nhưng tỳ kheo ni này không chịu rời khỏi trú xứ ấy, các cư sĩ mới than
phiền, vì họ không đủ khả năng tiếp tục sự yểm trợ ngoại duyên. Nhân đó, Phật
kiết giới nói rằng: nếu tỳ kheo ni hạ an cư đã xong không dời đi, phạm ba dật
đề, tỳ kheo phạm đột kiết la. Nếu có duyên sự không thể rời ngay được, thì phải
xuất giới cách đêm, sau đó có thể trở lại, và ở bao lâu cũng được, tùy theo hoàn
cảnh cho phép.
Tứ phần
hành sự sao cũng dẫn thêm Tăng nhất A hàm để nhấn mạnh thêm ý nghĩa của điều
khoản này. Theo đó, tỳ kheo thường ở lâu tại một chỗ sẽ có năm điều phi pháp:
quyến luyến phòng ốc, vật dụng, say mê, theo tài sản, cố giữ sợ bị đánh cắp mất,
tích tụ nhiều tư hữu, giao thiệp quá nhiều với cư sĩ.
Theo tinh
thần đoạn kinh được dẫn thì tỳ kheo không nên sống quá lâu tại một chỗ, nhưng
trong các học xứ của giới bổn, không có sự cấm kỵ này. Do vậy, điều khoản ba dật
đề của ni được nói trong luật Tứ phần 26 chỉ giới hạn trong việc an cư
tại nhà cư sĩ thỉnh mời. Sự cúng dường của cư sĩ để hỗ trợ các ngoại duyên thuận
tiện cho tỳ kheo hay tỳ kheo ni tu tập, sự hỗ trợ ấy dù sao cũng giới hạn. do
đó, các tỳ kheo và tỳ kheo ni phải biết giới hạn vừa phải trong sự chu cấp của
cư sĩ, đi và ở không thái quá để có thể gây những sự phiền phức cho người tại
gia. Nếu an cư tại trú xứ tăng già lam, hay trong các hang động, thì việc tỳ
kheo hay tỳ kheo ni sau khi hết hạn kỳ an cư phải xuất giới không phải là điều
bắt buộc.
Trên đây
là một chi tiết nhỏ liên hệ đến cá nhân tỳ kheo sau khi an cư. Ngoài ra, sau khi
hết hạn kỳ an cư, ngày tự tứ đã qua, tăng có bổn phận sự phải làm.()
a-b.
Giải và kết đại giới là hai phận sự của Tăng sau an cư. Đại giới an cư
và trong thường nhật có thể khác nhau hoặc rộng hơn hoặc hẹp hơn. Chẳng hạn, sau
khi an cư xong, số lượng tỳ kheo lưu lại trú xứ quá ít, cần phải thu hẹp đại
giới lại cho thích hợp, thì Tăng cần phải yết ma giải giới, sau đó kết lại đại
giới của trú xứ. Qui tắc giải và kết giới đã được nói trong chương II, về cương
giới của Tăng. Ngoài ra, cũng có những nguyên nhân khác, các tiêu tướng qui định
đường ranh của đại giới do lâu ngày bị mất đi, không thể xác định được, hoặc do
nước lụt trong mùa mưa cuốn mất, hoặc cũng có thể bị giắc cướp phá hoại mất đi.
Do các nguyên nhân này, các đường ranh của trú xứ già lam cần được ổn định lại
cho rõ để các tỳ kheo trong trú xứ có thể chấp hành.
c)
Thọ y ca thi na: Đây là phận sự thứ ba, Tăng cần thực hiện, để các tỳ
kheo có đủ thời gian sắm y mà các y cũ đã bị hư rách. Bởi vì trong khi tìm sắm y
mới, tỳ kheo có thể không tìm đủ số lượng vải đủ để may y trong vòng ba mươi
ngày. Cất giữ vải may y hay y dư, quá ba mươi ngày trong thời hạn có thọ y a thi
na. Vả lại, sau mùa an cư, các tỳ kheo cũng cần đi lại thăm viếng và bái tuế các
bậc tôn túc. Nhưng do ảnh hưởng của mùa mưa, đường sá đi lại thường là khó khăn.
Như vậy, nếu đi đâu phải mang đủ ba y thì thật là vất vả. Trong thời hạn thọ y
ca thi na, điều khoản tỳ kheo không được phép rời ba y mà ngủ được nới rộng.
d)
Phân lợi dưỡng: Phận sự thứ tư của Tăng sau khi an cư là phân chia bình
đẳng các lợi dưỡng gồm các nhu cầu vật chất mà các cư sĩ cúng dường suốt trong
mùa an cư còn dư lại. Các tỳ kheo hậu an cư, dù chưa hết hạn kỳ để xuất
giới, cũng được phân chia đồng đều như các tỳ kheo tiền an cư. Các sa di cùng an
cư tập sự với các tỳ kheo cũng được phân chia đồng đều như các tỳ kheo. Các tỳ
kheo phá hạ không như pháp, nghĩa là mất hạ, không được hưởng quyền lợi bình
đẳng với các tỳ kheo khác trong sự phân chia lợi dưỡng này.
Nói tóm
lại, một trong các điều kiện cho sự hưng thịnh của Tăng, như đức Thích tôn đã
chỉ giáo, là các tỳ kheo tụ họp và giải tán trong tinh thần hòa hiệp nhất trí.
Hòa hiệp nhất trí là sinh mạng của Tăng già mà sinh mạng của Tăng già cũng
chính là sinh mạng của Phật pháp. An cư và tự tứ là biểu hiện cụ thể và sống
động nhất của tinh thần hòa hiệp nhất trí này, do đó, Tăng phải chấp hành như
pháp những điều đã được luật qui định.
--- o0o ---
Mục Lục Toàn Tập
Tập 1
|
1
|
2-0
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
Tập 2
|
7
|
8
|
9-1
|
9-2
|
9-3
|
9-4
|
9-5
| 9-6
|
9-7
|
9-8
|
10
Tập 3 |
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
|
20
--- o0o ---
Source:
www.phatviet.net
Vi tính: Nguyên Trang, Nhị Tường - Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-06-2004