NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2001
TOÀN TẬP
TÂM NHƯ TRÍ THỦ
--- o0o ---
TẬP
3
HIỆP CHÚ
CHƯƠNG I
A. CHÁNH
VĂN:
Thưa các Đại đức, đây
là bốn pháp ba la di, xuất từ Giới kinh, mỗi nửa tháng tụng một lần.
B. LƯỢC
GIẢI:
+ Ba la
di, xem phần sám hối và trị phạt ở sau.
ĐIỀU 1. Bất tịnh hạnh học
xứ.
A. CHÁNH
VĂN:
Tỳ kheo nào, đã thọ trì
học xứ và chấp nhận đời sống của Tỳ kheo, chưa hoàn giới, giới sút kém nhưng
không phát lộ, mà hành pháp dâm dục, cho đến cùng với loài súc sanh, Tỳ kheo ấy
là kẻ ba la di, không được sống chung.
B. LƯỢC
GIẢI:
1. THÍCH
NGHĨA:
+
Tịnh hạnh, cũng thường nói là phạm hạnh. Phạm, nghĩa đen là sự làm
cho lớn mạnh (),
tức sự phát triển tâm linh; cũng chỉ cho Phạm thiên. Tịnh hạnh hay Phạm hạnh ()
có nghĩa là hành vi hay đời sống dâng hiến cho Phạm thiên, cho sự phát triển tâm
linh. Theo truyền thống tôn giáo Vệ đà, đây là thời kỳ đầu trong bốn thơi kỳ của
đời sống một người Bà la môn; thời kỳ chưa hôn phối, sống độc thân để học đạo,
tức học hỏi kinh điển Vệ đà. Từ ý nghĩa đó, tịnh hạnh chỉ cho đời sống
thánh thiện. Ý nghĩa sau cùng này được chấp nhận trong đạo Phật. Một người đã
thành tựu Phạm hạnh hay Tịnh hạnh, là người đã hoàn toàn đoạn tận dục vọng, đã
cắt đứt nguồn gốc sanh tử. Đó là nói theo nghĩa cứu cánh của danh từ. Trong
nghĩa thường dùng của Kinh Luận, Tịnh hạnh hay Phạm hạnh là đời sống độc thân,
tuyệt dục. Phi Phạm hạnh, hay Bất tịnh hạnh, là đời sống thánh
thiện và tuyệt dục bị phá vỡ. Cho nên, tịnh hạnh hay phạm hạnh là bản thể và
cũng là cứu cánh của đời sống Tỳ kheo.
Đã thọ
trì học xứ... của Tỳ kheo, văn Hán của Tứ phần bản A ():
cọng Tỳ kheo đồng giới; Tứ phần bản B ()
dữ Tỳ kheo cọng giới đồng giới. Giải thích của Tứ phần1: “Cũng như
các Tỳ kheo khác, đã thọ đai giới, bạch tứ yết ma như pháp thành tựu hợp cách,
sống trong pháp Tỳ kheo. Đây là ý nghĩa “cọng Tỳ kheo” ... Sau khi Ta kết giới
cho các đệ tử; thà chết chứ không phạm. Trong đây, cùng với các Tỳ kheo khác một
giới, đồng giới. Đây gọi là “đồng giới’().
Ngũ phần
1: cọng chư Tỳ kheo đồng học giới pháp, cùng học chung giới pháp như các
Tỳ kheo khác ().
Tăng kỳ
1: ư hòa hiệp Tăng trung thọ Cụ túc giới, người đã thọ giới Cụ túc giữa
hòa hiệp Tăng ().
Thập
tụng 1: ư hòa hiệp Tăng trung thọ Cụ túc giới, cùng vào sống
trong một giới pháp như các Tỳ kheo khác ().
Căn bản
1: dữ chư Bí sô đồng đắc học xứ (),
cùng thành tựu học xứ như các Tỳ kheo khác. Giải thích của Luật nhiếp 2:
Giả sử người thọ giới một trăm năm, đối với các điều cần phải học không khác
với người vừa thọ, do đó gọi là “đồng đắc”().
Tổng hợp
các bản, tuy văn cú có khác nhau, nhưng nội dung đồng nhất: người đã thọ trì học
xứ của Tỳ kheo, nghĩa là thọ Cụ túc như pháp, để thành tựu bản thể của Tỳ kheo;
và sống đời sống phạm hạnh như các Tỳ kheo khác; chỉ người như vậy, nếu hành dâm
dục, mới được gọi là kẻ ba la di. Ngoài đó ra, những hạng mà bản thể Tỳ kheo
không thành tựu, dù có hành dâm dục, cũng không gọi là kẻ ba la di.
+ Chưa
hoàn giới, Tứ phần bản A: bất hoàn giới; bản B: bất xả giới. – Căn
bản: bất xả học xứ. – có 5 trường hợp xả học xứ tức xả giới. 1. Do ý muốn;
đối trước một người hiểu điều mình nói mà tuyên bố xả. 2. Do mạng chung. – 3. Do
hai căn (nam và nữ căn) cùng phát sinh ra. – 4. Do đoạn thiện căn tức phạm ngũ
nghịch hoặc Tỳ kheo phạm bất tịnh hạnh mà che giấu. Bốn trường hợp này chung cho
các loại giới. – 5. Hết đêm, riêng cho giới cận trú().
Trong đây, nói hoàn giới hay xả học xứ chỉ trường hợp xả thứ nhất.
Tỳ kheo nào không muốn sống đời sống phạm hạnh, không kham nhẫn thọ trì các học
xứ của Tỳ kheo, có thể tuyên bố xả. Sự tuyên bố phải nói thành lời trước một
người, và người ấy hiểu rõ nội dung mình nói. Tuyên bố rằng: tôi từ bỏ Phật, từ
bỏ Pháp, từ bỏ Tỳ kheo Tăng; tôi trở về tục, không còn là sa môn Thích tử; tôi
trở lại làm Sa di; tôi đi theo ngoại đạo, v.v… Như vậy là xả. Nhưng có mấy
trường hợp dù tuyên bố như vậy nhưng xả không thành: tuyên bố trong lúc mình
điên cuồng, mất tri; hoặc trước người điên cuồng, mất trí; trong lúc mình quẫn
trí, hay trước người quẫn trí; trong lúc bị câm điếc, hay trước người câm điếc;
tại chỗ không người tưởng là có người; tại chỗ có người tưởng là không có người;
đối trước chư thiên, rồng, dạ xoa, ngạ quỷ, người đang ngủ, người đã chết; trước
súc sanh; trước người không biết gì (như con nít); trước người không đồng ngôn
ngữ với mình; trước người không hiểu nội dung mình muốn nói; hoặc nói chơi hoặc
do giận dữ nhất thời. Xả như vậy là không như pháp, không thành xả. Nếu Tỳ kheo
xả giới như pháp, trở về đời sống tại gia, về sau hồi tâm có thể được cho xuất
gia thọ Cụ túc trở lại. Tăng nhất 27 ():
Tôn giả Tăng Già Ma 7 phen hàng ma, nghĩa là 7 lần thọ Cụ túc: 6 lần đầu đánh
bại ma quân nhưng chưa rốt ráo; lần thứ 7 mới hoàn toàn đánh bại, tức chứng đắc
A la hán. Do đó, Phật cho phép trong đời một người được phép 7 lần thọ Cụ túc để
làm Tỳ kheo.
Giới sút
kém nhưng không phát lộ, Hán: giới luy bất tự hối. Các từ hối
hay sám hối trong Tứ phần không dùng theo nghĩa đen là hối hận
hay ăn năn; mà dùng theo sự hàm ý là tuyên bố, nói cho người khác
biết, tức phát lộ. – Ngũ phần: giới luy bất xả; Giải thoát: giới luy bất xả
giới; Thập tụng: giới luy bất xuất; Căn bản: học luy bất tự thuyết. – Như
vậy, trong tất cả các bản đều nói rõ: giới sút kém mà không xả hay không tự mình
tuyên bố ().
Giới sút
kém: tự cảm thấy chán nản đời sống phạm hạnh, không đủ sức kham nhẫn các học
xứ của Tỳ kheo, mơ tưởng đời sống tại gia, những lạc thú trần tục. Dù vậy, nếu
không tuyên bố xả, hoặc tuyên bố nhưng không thành xả như các trường hợp kể
trên, đều gọi là giới sút kém nhưng không phát lộ.
Hành
pháp dâm dục; Tứ phần bản A: phạm bất tịnh hạnh; bản B: phạm bất
tịnh hạnh hành dâm dục pháp. – Thập tụng: hành dâm pháp. – Căn bản: tác bất tịnh
hạnh, lưỡng giao hội pháp. Hành dâm dục pháp là thực hiện sự giao hội của
nam căn vào một trong ba cửa: đại tiện, tiểu tiện và cửa miệng. Ngoài ba chỗ
này, gọi là phi đạo. Luật nhiếp 2: có trường hợp tác bất tịnh hạnh nhưng
không phải là hai bên giao hội; có trường hợp hai bên giao hội nhưng không phải
là tác bất tịnh hạnh. Người không thọ lãnh học xứ của Tỳ kheo mà hành pháp dâm
dục thì không gọi là tác bất tịnh hạnh. Người đã thọ học xứ, ở nơi hai cửa của
chính mình, gọi là bất tịnh hạnh; nơi của người khác, gọi là hai bên giao hội ().
Cho đến
súc sanh: bao gồm loài người, loài phi nhân và súc sanh. Về loài người, có
năm hạng: thiếu phụ, đồng nữ, người có hai căn, hoàng môn và nam tử. Nam căn đi
vào một trong ba cửa của các loài ấy, dù được bao lại hay không, bất cứ dưới
hình thức nào, nếu đã lọt qua dù chỉ bằng đầu sợi lông, đều gọi là hành dâm. Ở
nơi ba cửa của tử thi cũng vậy, nếu ba cửa ấy chưa rách nát.
2. PHẠM
TƯỚNG:
a- Ba la
di:
1)- Bản thể Tỳ kheo chưa mất ().
2)- Cố ý,
tức có ý định hành pháp dâm dục.
3)- Đối với
một trong ba loài: người, phi nhân và súc sanh.
4)- Nơi một
trong ba cửa.
5)- Nam căn
đã vào, dù chỉ khoảng bằng đầu sợi lông.
6)- Có cảm
thọ lạc một trong ba giai đoạn: khi nam căn mới vào, khi đình trú, và khi nam
căn xuất khỏi cửa.
b- Thâu
lan giá (không hội đủ yếu tố ba la di):
- Tiến hành
nhưng nam căn chưa vào.
- Nơi các
cửa đã bị hủy hoại.
- Nơi phi
đạo.
- Khiến
người khác làm, và họ làm theo.
c- Đột
kiết la (không hội đủ yếu tố than lan giá):
- Khiến
người khác làm, nhưng họ không làm theo.
d- Không
phạm
- Trước
khi Phật chế giới này.
- Bị bức ép
nhưng hoàn toàn không thọ lạc.
- Cuồng si,
mất trí, quẫn trí.
3. DUYÊN
KHỞI:
a. Thời
điểm chế giới. Tứ phần: sau 12 năm thành đạo, tức như Luật nhiếp 2:
năm thứ mười ba sau ngày thành đạo. Thiện kiến 6: sau 20 năm thành đạo.
Tăng kỳ giới bổn: Phật thành đạo năm thứ 5, nửa tháng thứ 5 của mùa đông,
ngày 12, vào xế trưa, khi bóng của một người đang ngồi ngã trên đất bằng phân
nửa, vì trưởng lão Da xa Già lan đà tử, Phật chế giới này.
b. Địa
điểm chế giới. – Các bộ giống nhau: Phật trú tại nước Tỳ Da Ly, cũng gọi Phệ
Xá Li. Về chi tiết, Ngũ phần 1:tại Trùng Các giảng đường, bên bờ sông Di
Hầu. Luật nhiếp 2: Phật trú tại thôn Kiết Lan Đạc Ca, nước Phật Lật Thị.
Phật Lật Thị là tên gọi một bộ tộc, cũng gọi là bộ tộc Bạt Kỳ, thủ phủ của họ là
Tỳ Da Li.
c. Diễn
tiến chế giới: - Giới này được Phật chế theo diễn tiến gồm 3 giai đoạn.
Giai
đoạn thứ nhất: trưởng lão Tu Đề Na, con trai của thôn trưởng Ca Lan Đà, do
đòi hỏi của mẹ là phải lưu lại một người con để thừa tự vì trưởng lão là con
một, nên đã hành dâm với người vợ cũ của mình. Tu Đề Na (),
các bộ tộc giống nhau, hoặc cũng phiên âm là Tô Trần Na. Riêng Tăng kỳ
gọi là Da Xá. Ca Lan Đà (),
cũng âm là Kiết Lan Đạc Ca, các bộ giống nhau. Tu Đề Na sau khi làm việc ấy, hối
hận, phát lộ với các Tỳ kheo. Do đó, Phật chế: Tỳ kheo nào phạm bất tịnh
hạnh, hành pháp dâm dục, Tỳ kheo ấy là kẻ ba la di, không được sống chung.
Giai
đoạn thứ hai: một Tỳ kheo người Bạt Kỳ, ưu sầu, chán nản đời sống phạm hạnh,
về nhà hành dâm với vợ cũ, vì trong điều Phật chế không nói trường hợp người
chán nản đời sống phạm hạnh. Do đó, Phật kết giới thêm: Tỳ kheo nào, đã thọ
trì học xứ và chấp nhận đời sống của Tỳ kheo, chưa hoàn giới, giới sút kém nhưng
không phát lộ, mà phạm bất tịnh hạnh, hành pháp dâm dục, Tỳ kheo ấy là kẻ ba la
di, không được sống chung.
Giai
đoạn thứ ba: một Tỳ kheo sống trong rừng, hành dâm với một con vượn cái,
nghĩ rằng trong điều Phật chế không nói trường hợp cùng với súc sanh. Do đó,
Phật kết giới thêm lần nữa, và lần này là trọn như được thấy trong chánh văn ở
trên.
ĐIỀU 2: Bất dữ thủ.
A.
CHÁNH VĂN
Tỳ kheo nào, hoặc từ
xóm làng, hoặc từ rừng vắng, lấy vật không cho với tâm trộm cắp; tùy theo sự lấy
vật không cho ấy mà vua hay đại thần của vua hoặc bắt, hoặc giết, hoặc trói,
hoặc đuổi khỏi nước, hoặc khiển trách: “Ngươi là kẻ trộm; ngươi là kẻ ngu; ngươi
là kẻ không biết gì”. Tỳ kheo ấy là kẻ ba la di, không được sống chung.
B. LƯỢC
GIẢI:
1. THÍCH
NGHĨA:
+ Bất dữ
thủ: lấy vật không cho; chiếm làm sở hữu vật mà sở hữu chủ không cho; chỉ
chung tất cả trường hợp trộm và cướp. Với vật có chủ, không dám công khai lấy,
vì sợ, nên lén lút lấy, chiếm làm sở hữu của mình; đây gọi là trộm. Sở
hữu chủ không cho, dùng sức mạnh công khai chiếm đoạt; đây gọi là cướp.
+ Xóm
làng, Hán: thôn lạc hoặc tụ lạc, chỉ chung tất cả khu vực có
nhà dân cư. Khu vực ấy có thể được bao quanh bởi tường xây, lũy tre, hoặc cắm
cây làm hàng rào; hoặc được bao quanh bởi sông ngòi các thứ. Nhiều nhà họp lại
thành một tụ lạc. Một ngôi nhà biệt lập cũng được gọi là tụ lạc. Tứ phần
1(),
có 4 loại tụ lạc: 1. Tụ lạc có tường xây bao quanh. - 2. Tụ lạc có hàng rào bao
quanh. - 3. Tụ lạc có hàng rào nhưng bao không khắp. - 4. Tụ lạc bao quanh bởi
nhà. Tăng kỳ 3(),
ngoài các loại tụ lạc có tường, rào hoặc sông ngoài bao quanh, còn kể thêm: tụ
lạc phóng mục hay xóm chăn; tụ lạc kỷ nhi tức xóm con hát; tụ lạc doanh xa tức
chỗ các thương đoàn tụ tập. Thiện kiến 8 (),
chỗ có chuồng bò (dù không ở trong phạm vi dân cư) cung được gọi là tụ lạc và
chỗ mà một đoàn buôn cắm trại từ bốn tháng trở lên cũng gọi là tụ lạc.
Về phạm vi
của tụ lạc, Tứ phần không đề cập. Theo Tăng kỳ 3, kể từ con đường
mòn có người đi cách tụ lạc không xa trở vào là phạm vi của tụ lạc. Thiện
kiến 8, nếu là tụ lạc có bao quanh, thì từ tường rào, một người đứng và
liệng ra một hòn đá; nếu không có tường rào thì đứng ở hiên nhà ngoài bìa tụ lạc
mà ném; từ chỗ hòn đá rơi trở vào là phạm vi của tụ lạc.
+
Rừng vắng, Tứ phần: nhàn tĩnh xứ, chỗ vắng vẻ. - Ngũ phần: không địa,
khu đất trống (không có nhà dân cư). - Căn bản: không nhàn xứ, chỗ
trống không có người ở. - Giải thoát: không tĩnh địa, vùng đất trống
vắng. Các từ này đều dịch từ aranya của tiếng Phạn, nghĩa đen là vùng đất
xa xôi hẻo lánh; thường âm là a lan nhã, và cũng nơi dịch là vô sự xứ.
Trong tất cả các bộ đều phân biệt giống nhau, ngoài tụ lạc, hay cụ thể, ngoài
phạm vi của tụ lạc, là a lan nhã.
Sự phân
biệt đất thuộc phạm vi tụ lạc và đất thuộc a lan nhã như thế rất cần thiết để
xác định sở hữu chủ của một vật; nhất là đối với tài nguyên thiên nhiên. Bởi vì,
một trong các yếu tố quan trọng để xác định tội bất dữ thủ là cần xác định vật
được chiếm có chủ hay không có chủ. Thí dụ, đồ vật nằm trong khu đất mà ai là sở
hữu chủ thì nó thuộc về tài sản của người ấy. Nhưng tính cách sở hữu chủ của tài
sản được xác định tùy theo pháp luật của mỗi nước. Sự quy định theo pháp luật
này lại còn được thay đổi tùy thời đại, tùy chế độ.
Các sự phân
biệt pạm vi tụ lạc và a lan nhã dẫn trên đều mang tính chất địa phương của từng
bộ phái sinh hoạt trên các phần của lãnh thổ Ấn Độ thời cổ. Ở ta, theo chế độ
điền thổ thuở xưa, mỗi làng hay thôn xóm đều có đồng ruộng bao quanh. Các cánh
đồng này thuộc phạm vi làng hay thôn xóm ấy. Người địa phương khác sở đắc vật gì
trong phạm vi ấy không có sự đồng ý của địa phương này đều bị coi là trộm hoặc
cướp. Như vậy, nói theo thuật ngữ của Luật tạng, phạm vi tụ lạc bao gồm thôn xóm
và những cánh đồng thuộc về thôn xóm ấy, không kể xa rộng bao nhiêu. Trừ phạm vi
ấy ra, là phạm vi của a lan nhã; tức là những vùng đất không thuộc vào thôn xóm
nào cả, dù đó là đồng trống hay rừng núi. Tuy vậy, sự phân biệt này còn phải đối
chiếu với pháp luật hiện hành liên hệ đến tính sở hữu chủ của các loại tài
nguyên.
+
Tùy theo sự lấy vật không cho... ngươi là kẻ không biết gì. - Thập tụng có
thêm chi tiết khác: (... hoặc tẩn xuất) hoặc phạt vàng (...) - Giải thoát:
(...) hoặc phạt tiền tài (hoặc đuổi khỏi nước...). Ngoài điểm phạt vàng hay
tiền đó ra, các chi tiết khác đều giống nhau giữa các bộ.
Đoạn văn
này quy định mức giá trị của vật bị chiếm hữu bất hợp pháp để thành tội ba la
di, tùy theo pháp luật của mỗi nước, và hình phạt dành cho tội trộm cướp.
Mức giá trị
này, khi Phật chế giới này, căn cứ rheo luật hiện hành của nước Ma Kiệt Dà, nếu
trộm tối thiểu từ 5 tiền trở lên, phạm trọng tội, có thể bị tử hình. Tiền ở đây,
tiếng Phạn nói là màsaka (Hán âm: ma sái, hoặc ma sa, là
một đơn vị trọng lượng vàng, giá trị tương đương 17/5760 bảng theo hệ
thống kim hoàn của Anh, tức bằng 21,9554gr. Nhưng sự so sánh này là theo tiêu
chuẩn trọng lượng hiện đại; không nhất thiết phải chính xác như vậy với một
trọng lượng ma sa thời cổ.
Nói tử hình
là định mức tương đương tội cực trọng, chứ không nhất thiết phải bị xử tử hình.
Bởi vì có những hệ thống pháp luật trong đó không hề có án tử hình. Điều này
được giải thích rõ rằng trong Tăng kỳ 3().
Theo đó, trong các triều đại thượng cổ của nước Ma Kiệt Đà, các tiên tổ của vua
Tần Bà Sa La khi xử phạt một kẻ trộm cướp chỉ cần lấy tay vỗ lên đầu nó, thì nó
cảm thấy xấu hổ như bị giết và sẽ không tái phạm nữa. Rồi trong các vua kế tiếp,
hình phạt ấy so ra nhẹ, không có công hiệu cải hóa phạm nhân; nhưng hình phạt
được nói là nặng hơn cũng chỉ là bôi tro cùng mình kẻ trộm, đủ cho nó cảm thấy
xấu hổ như bị giết để từ bỏ thói trộm cắp. Đến thời phụ vương của Tần Bà Sa La
thì phải phạt bằng cách đuổi khỏi nước. Nhưng đến đời Tần Bà Sa La, đuổi nó đi,
nó tìm cách trở về, và vẫn tái phạm như cũ; bấy giờ, hình phạt nặng nhất cho tội
trộm là chặt một ngón tay. Tuy vậy, khi được hỏi, nếu trộm cắp, vật đáng giá bao
nhiêu, theo pháp luật hiện hành có thể xử tử hình, Tần Bà Sa La đáp: bằng 1/4 kế
lị sa bàn. Kế lị sa bàn cũng âm là ca lị sa bà noa, Phạn
kàrsàpana, bằng 20 màsaka.
Trong đoạn
văn đượ dẫn từ Tăng kỳ 3 trên đây, có một chi tiết cần lưu ý. Đó là sự
mâu thuẫn trong trình bày của vua Tần Bà Sa La về lịch sử luật hình sự của tội
ăn trộm được áp dụng từ tiên tổ của ông, với câu trả lời của chính ông cho câu
hỏi của Phật. Theo trình bày của vua Tần Bà Sa La, rõ ràng trong nước Ma Kiệt
Đà, cho đến thời ông cai trị, tội ăn trộm không hề bị giết. Ông là người đầu
tiên áp dụng hình phạt nặng nhất cho tội phạm này mà cũng chỉ đến mức chặt một
ngón tay. Một chi tiết khác trong Tăng kỳ 3, cũng đoạn vừa dẫn, chứng tỏ
điều này. Một tên trộm bị đuổi khỏi thành 7 lần, nó lẻn trở về cả 7. Các đại
thần đưa nó đến trước vua, và tâu: “Hãy thôi, tâu Đại vương. Đừng bảo chúng tôi
xử tội nó nữa, mà chính Đại vương hãy xử lấy”. Điều này chứng tỏ luật hình sự
của ông đối với tội trộm đã lỗi thời, và các đại thần của ông không có thẩm
quyền nào khác ngoài quyền đã được quy định: tẩn xuất. Nhưng, trong chế độ ấy,
lệnh của vua là nguồn gốc của luật. Cho nên vua Tần Bà Sa La ban hành lệnh mới:
chặt một ngón tay kẻ trộm. Đây là lần đầu tiên ông áp dụng hình sự nặng như vậy.
Ngay sau đó, ông rất hối hận, rầu rĩ, nên đến trình bày với Phật về sự bất lực
của mình trong việc trị dân bằng đạo đức để phải áp dụng một loại hình sự như
vậy đối với tội trộm.
Theo diễn
tiến của nội dung câu chuyện, mặc dầu câu hỏi của Phật được đặt cho vua là:
“Theo phép trị nước của Đại vương, trộm vật có giá trị tương đương mấy tiền thì
bị xử tử, mấy tiền xử đuổi khỏi nước, mấy tiền thì áp dụng hình phạt”, và vua
trả lời vỏn vẹn: “... trộm từ 1/4 kế lị sa bàn trở lên, bị tội chết”: nhưng, cần
phải hiểu chính xác đoạn trả lời này như vầy: “Trộm từ 1/4 kế lị sa bàn trở lên,
có thể xử tội chết, có thể xử đuổi khỏi nước, có thể áp dụng hình phạt”. Nói rõ
hơn, kẻ bị kết án là phạm tội ăn trộm, tùy theo nặng nhẹ, có thể bị xử theo ba
cấp hình phạt: hoặc trói, hoặc đánh bằng gậy hoặc cấm cố: đuổi khỏi nước, tức bị
lưu đày biệt xứ, và sát hại.
Với sự phân
tích như trên, ở đây có thể kết luận rằng, 5 ma sát, theo luật hình sự
của nước Ma Kiệt Đà thời Phật, là mức tối thiểu để kết án tội danh ăn
trộm. Lấy vật không cho dưới giá trị 5 ma sa, chỉ là các trường hợp ăn
cắp vặt. Tuy nhiên, trong tất cả các bộ phái trừ Thượng tọa bộ Pàli, khi
giải thích giá trị 5 ma sa này đều nói nó là định mức của tội ăn trộm với
mức độ cực trọng, đáng xử tử hình. Nhưng, điều chắc chắn là các luật gia của các
bộ phái này, do ảnh hưởng luật hình sự của các bạo chúa phong kiến trên các vùng
lãnh thổ khác nhau của xứ Ấn, sau thời Đức Thích Tôn, cho nên giải thích nó là
mức giá trị để xử tử hình một kẻ trộm. Đây là lý do cho biết tại sao trong đoạn
văn của Tăng kỳ 3 dẫn trên có sự mâu thuẫn trong trình bày của vua Tần Bà
Sa La.
Theo luật
của Thượng tọa bộ Pàli(),
“Kẻ trộm, là kẻ lấy vật không cho với tâm trộm cắp từ 5 màsa hay
tương đương 5 màsa trở lên”. Như vậy, kẻ nào trộm vật giá trị dưới 5
màsa chỉ gọi là kẻ ăn cắp vặt; chỉ với mức giá trị 5 màsa trở
lên mới bị kết án với tội danh ăn trộm. Đoạn văn trong chánh văn: “Ngươi là
kẻ trộm, ngươi là kẻ ngu, ngươi là kẻ không biết gì”, đoạn văn này có thể
coi là một kiểu tuyên án về tội trộm.
Với tội
danh đã được pháp đình tuyên án như trên, nó được áp dụng luật hình sự như sau;
chánh văn nói: “hoặc bị bắt, hoặc bị giết, hoặc bị trói, hoặc bị đuổi khỏi
nước”. Đoạn văn này cần phải viết lại như sau để rõ nghĩa hơn: “Sau khi
bị bắt, nó có thể bị giết...”. Nghĩa là, chỉ khi nào người ta có đủ bằng
chứng và hội đủ yêu cầu luật định mới có thể bắt giữ nó với tội danh là ăn
trộm. Còn giết, trói và đuổi là ba trường hợp hình sự được áp
dụng cho nó. Điều cũng nên lưu ý ở đây rằng, trong văn Pàli, từ giết được
nói là haneyyumï().
Nghĩa đen của từ này là “họ có thể gây thiệt hại”; cụ thể là “gậy thiệt hại đối
với thân thể”. Mức độ thiệt hại này có nặng nhẹ khác nhau. Nhẹ nhất, như trường
hợp vua Tần Bà Sa La đã xử một tên trộm, là chặt một ngón tay, nặng nhất là chặt
đầu hay giết. Luật gia của các bộ phái, bị chi phối bởi ấn tượng về hình phạt tử
hình đối với tội trộm, do đó dịch chữ Hán là sát. Chính do cách dịch từ
tiếng Phạn hanyàt trong ý nghĩa cực trọng của nó, cho nên các luật gia
Trung Quốc không có cách hiểu nào khác hơn ngoài cách hiểu rằng: 5 tiền
là mức giá trị để xử tử ăn trộm, và tỏ ra không thắc mắc gì cả. Trở ngại thứ hai
cho các luật gia Trung Quốc là danh từ màsaka, được dịch nghĩa là tiền.
Đó là một trọng lượng vàng rất nhỏ. Một đoạn trong Tứ phần 40, kể chuyện
nhà y sĩ Kỳ Bà trị lành bịnh một phú gia và được thưởng công với giá 40 vạn lạng
vàng().
Mặc dù đây là con số có thể khoa trương quá trớn, nhưng nó chứng tỏ giá trị 5
màsaka chưa đủ lớn để đáng xử tử hình, ngoại trừ nếu đó là lệnh của một bạo
chúa cực kỳ hung ác. Nếu các luật gia Phật giáo Trung Quốc hiểu rõ một màsaka
giá trị bao nhiêu, nhất định các ngài sẽ đặt vấn đề, khi đối chiếu với tội ăn
trộm trong luật hình sự của các triều đại vua chúa Trung Quốc.
Đây là vấn
đề cần phải nghiên cứu thận trọng và kỹ lưỡng. Ở đây, tạm thời có thể kết luận
như sau: Tỳ kheo nào lấy vật không cho với mức giá trị mà theo pháp luật hiện
hành, tòa án có thể đưa ra xét xử và tuyên án với tội danh là ăn trộm theo
luật hình sự, Tỳ kheo ấy phạm ba la di. Bởi vì, dưới con mắt người đời, mỗi
kẻ đã bị một tòa án công bình và chính trực tuyên án là phạm tội ăn trộm, kẻ đó
đã mất phẩm cách con người, và khó khăn lắm nó mới có thể phục hồi danh dự làm
người. Cũng vậy, một Tỳ kheo có thể bị kết tội theo luật hình sự hiện
hành là phạm tội ăn trộm, thì bản thể Tỳ kheo của nó hoàn toàn bị vỡ, không thể
dự vào hàng ngũ của địa vị chúng trung tôn, không xứng đáng được mọi người kính
trọng như các Tỳ kheo khác mà bản thể Tỳ kheo chưa bị vỡ.
Để kết thúc
phần lược giải này, đoạn chánh văn của học xứ này có thể diễn giải như sau: “Tỳ
kheo nào, lấy vật không cho từ tụ lạc hay từ a lan nhã với tâm trộm cắp, với
hành vi lấy vật không cho ấy, trong mức độ mà nó có thể bị bắt giữ theo luật
hình sự hiện hành và bị tuyên án là phạm tội ăn trộm; cho đến mức độ này, Tỳ
kheo ấy là kẻ phạm ba la di”.
2. PHẠM
TƯỚNG:
a. Ba la
di: Hội đủ 6 yếu tố sau đây:
1) Bản thể
Tỳ kheo chưa mất, nghĩa là người đã thọ giới Cụ túc nhưng chưa xả giới().
2) Có tâm
trộm cắp vật đáng giá 5 ma sa trở lên, với ý định chiếm làm sở hữu của
mình.
3) Vật ấy
có giá 5 ma sa trở lên và biết rõ có giá 5 ma sa trở lên.
4) Vật ấy
có chủ, và biết rõ là có chủ.
5) Tiến
hành sự chiếm hữu: tự tay mình lấy; hoặc sai bảo người khác lấy; hoặc lánh mặt
sai người khác lấy về cho mình.
6) Đã di
chuyển vật ấy dời khỏi vị trí. Tự mình hay sai người khác cũng như nhau.
b. Thâu
lan giá: Hội đủ 6 yếu tố, nhưng một trong các yếu tố 2, 3, 4 và 6 không
trọn:
+ Yếu tố
2 không trọn:
- Muốn trộm
vật đáng giá 5 ma sa trở lên nhưng chỉ trộm được vật có giá dưới 5 ma
sa.
- Có ý định
trộm vật đáng giá dưới 5 ma sa.
+ Yếu tố
3 không trọn:
- Vật muốn
trộm đáng giá dưới 5 ma sa nhưng tưởng là 5 ma sa trở lên.
- Vật ấy
đáng giá 5 ma sa trở lên nhưng tưởng là dưới 5 ma sa.
+ Yếu tố
4 không trọn:
- Vật có
chủ nhưng tưởng là không có chủ.
- Vật ấy
được ngờ là có chủ.
+ Yếu tố
6 không trọn:
- Đã sờ mó
vào vật muốn trộm nhưng chưa dời khỏi vị trí. Tự mình hay sai người lấy cũng
vậy.
c. Đột
kiết la: Các yếu tố để thành tội thâu lang ía không trọn với những trường
hợp như sau:
- Muốn trộm
vật đáng giá 5 ma sa trở lên, nhưng chưa đụng chạm đến vật ấy.
- Muốn trộm
vật đáng giá dưới 5 ma sa, đã sờ tay vào nhưng chưa dời khỏi vị trí.
- Vật đáng
giá dưới 5 ma sa có chủ nhưng tưởng là không có chủ, hoặc được ngờ là có
chủ.
d. Không
phạm: Mặc dù lấy vật không cho, nhưng:
- Tưởng là
được cho.
- Tưởng là
của mình.
- Tưởng là
vật người ta vất bỏ.
- Với ý
định lấy tạm dùng.
- Với ý
tưởng là của người thân hậu.
- Trước khi
Phật chế giới().
- Các
trường hợp điên cuồng, mất trí v.v...
e. Tội
phạm liên đới: Đây là sự phân biệt tội trạng khác nhau giữa nhiều Tỳ kheo
cùng tham dự một vụ trộm. Nguyên lý cơ bản để xác định tội trạng là sự thành tựu
của nghiệp đạo căn bản. Tổng quát, quá trình của nghiệp đạo trải qua 3 giai
đoạn. Tiên khởi, là gia hành của nghiệp đạo, cũng gọi là phương tiện của nghiệp
đạo. Đây là giai đoạn từ khi phát khởi tư niệm muốn ăn trộm, muốn chiếm hữu vật
của người khác làm sở hữu của mình bằng sự trộm cắp. Cho tới khi nào vật muốn
trộm bị dời chỗ, chính lúc ấy nghiệp đạo căn bản thành hình. Từ sát na đó trở về
sau, những sự chia chác và sử dụng v.v... đều là hậu khởi của nghiệp đạo. Tỳ
kheo nào mà căn bản nghiệp đạo của tội trộm cắp thành tựu đối với vật đáng giá
từ 5 ma sa trở lên, phạm ba la di. Từ cơ sở này, vấn đề phân biệt tội
trạng của những người tham dự có vai trò khác nhau trong vụ trộm sẽ như sau:
- Những
người đồng mưu, cùng phát khởi tư niệm chiếm hữu bất hợp pháp vật đáng giá 5
ma sai trở lên, bất kể phân công như thế nào, và cũng không kể sự chia chác
khác nhau như thế nào, nếu hội đủ các yếu tố của ba la di, thì tất cả đồng tội
ba la di, nếu hội đủ yếu tố của thâu lan giá, thì tất cả đồng tội thâu lan giá;
hoặc hội đủ yếu tố đột kiết la, tất cả đồng phạm đột kiết la. Ý nghĩa của vấn đề
như vầy: cơ bản là động lực của nghiệp đạo, tức tư niệm hay nói cách khác là có
tâm trộm cắp, đã phát khởi trong bọn trộm này, và thứ đến là căn bản nghiệp đạo
được hoàn tất với sự dời chỗ của đối tượng chiếm hữu. Giả sử người chủ mưu đề
xuất vụ trộm, nhưng y không đi, còn đồng bọn của y, khi đi đến chỗ trộm, chỉ một
người trực tiếp di chuyển đối tượng, những tên khác hoặc đứng nhìn chơi, hay
canh gác. Tất cả chúng đều đồng tội. Đây là điều khác biệt giữa luật hình sự của
thế pháp và luật của Tỳ kheo. Luật hình sự thế pháp vì căn cứ trên quyền lợi bị
thiệt hại của sở hữu chủ mà quy định tội trạng; nói cách khác, mục đích của nó
là bảo vệ tài sản của sở hữu chủ. Trái lại, luật Tỳ kheo có mục đích bảo vệ bản
thể của Tỳ kheo, căn cứ trên mức độ hủy diệt của bản thể này mà định tội, hoặc
ba la di, hoặc thây lan giá, hoặc đột kiết la.
- Trong số
những người đồng mưu ăn trộm, nửa chừng, có kẻ hối tâm, tư niệm tức động lực của
nghiệp đạo trộm bị tiêu diệt, nghĩa là hoàn toàn không còn ý định ăn trộm nữa,
thì sự phân biệt tội trạng như vầy:
(a)
Nếu hối tâm lúc một kẻ trong đồng bọn đã mó tay vào đối tượng trộm nhưng
chưa dời chỗ, phạm thâu lan giá.
(b)
Nếu hối tâm trước hành vi mó tay này, đột kiết la. Còn như đối tượng trộm
đã bị dời chỗ mới hối tâm, nghĩa là sau đó y không dự phần chia chác nữa, thì vì
căn bản của nghiệp đã thành tựu nên chia hay không vẫn phạm ba la di.
- Nếu giữa
những kẻ đồng mưu có nhận thức khác nhau trong quá trình tiến hành, mặc dù đồng
nhất nhau về tư niệm, nghĩa là cùng có ý định trộm vật đáng tội ba la di như
nhau, thì tội trạng được phân như vầy: Với vật có chủ, người nào biết rõ là có
chủ, ba la di; người nào tưởng là không có chủ, thâu lan giá. Các yếu tố để
thành tội khác cũng theo đây phân biệt.
- Cùng đồng
mưu vụ trộm đáng tội ba la di, với sự xác định rõ vật muốn trộm và nơi chốn của
vật đó, nhưng khit hực hiện, người lãnh phận sự trộm lại lấy vật khác với dự
liệu trước, hay khác chỗ dự liệu trước: người lấy phạm ba la di, người đồng mưu,
thâu lan giá.
- Cùng tham
dự vụ trộm, nhưng không có tư niệm trộm cắp, nghĩa là không lấy với sự cố ý
chiếm làm sở hữu của mình, mà chỉ làm theo sự sai khiến, vì không có động lực
của nghiệp đạo là tư niệm ăn cắp và chiếm hữu bất hợp pháp, nên nghiệp đạo trộm
không thành tựu, vậy, người bị sai này không phạm các tội hoặc ba la di, hoặc
thâu lan giá, hoặc đột kiết la thuộc cắp trộm. Không phạm nghiệp đạo, nhưng phạm
ác hành: đột kiết la. Mặt khác, hoặc phạm ba dật đề: vì che giấu thô tội của Tỳ
kheo khác.
B. DUYÊN
KHỞI:
a. Địa
điểm và thời gian chế giới:
Các bộ
giống nhau: Phật tại nước Ma Kiệt Đà. Nhưng một số chi tiết khác biệt. Ngũ
phần và Tăng kỳ, Phật trú trong thành Vương Xá. Tứ phần: Phật
trú trên núi Kỳ Xà Quật. Chi tiết khác cũng cần lưu ý. Ngũ phần: bấy giờ
vua của nước Ma Kiệt Đà là A Xà Thế; Tăng kỳ và Tứ phần: Tần Bà Sa
La. Tăng kỳ giới bản lại có nói: Phật thành đạo 6 năm, mùa đông, nửa
tháng thứ hai, ngày 10, vào buổi chiều khi bóng một người đang ngồi ngả về phía
đông dài bằng 2 người rưỡi, Phật kết giới này.
b. Diễn
tiến:
Tứ phần:
Giới này được kết một lần duy nhất là trọn. Ngũ phần và Tăng kỳ:
được kết 2 lần.
- Lần
thứ nhất, do trường hợp trưởng lão Đàn Nị Ca (Tứ phần), cũng âm là
Đạt Ni Ca (Ngũ phần), hoặc Đạt Nị Già (Tăng kỳ), hoặc Đát Ni Ca
(Luật nhiếp). Đàn Nị Ca tự mình cất thất, lấy gỗ của vua Tần Bà Sa La mà
không được cho. Nhân đó, Phật kết giới ba la di bất dữ thủ lần thứ nhất, văn như
sau:
+ Ngũ
phần 1: “Nếu Tỳ kheo trộm 5 tiền trở lên, ba la di, bất cọng trú”.
+ Tăng
kỳ 2: “Nếu Tỳ kheo lấy vật không cho, ngang số tội trộm, ba la di, bất cọng
trú”.
Ở đây, cần
thêm một phụ chú nhỏ. Văn Hán từ Tăng kỳ dẫn trên, nói bất dữ đạo số
thủ… ý nghĩa không rõ. Đạo số, có lẽ dịch sát từ Phạn:
caura-samkhyà()
“mệnh danh tội ăn trộm”. Như vậy, ý nghĩa là: nếu lấy vật không cho dưới mức nào
đó không được kể là ăn trộm.
- Lần
thứ hai, cả Ngũ phần và Tăng kỳ đều dẫn duyên khởi cho sự tu
chỉnh điều luật này như nhau, với một ít chi tiết khác biệt không đáng kể:
nguyên do, một Tỳ kheo trộm áo của người giặt bên bờ suối, không thuộc phạm vi
tụ lạc, nên tự bào chữa là không phạm điều Phật đã chế. Do đó, Phật kết lại
thành văn hoàn chỉnh, như hiện thấy.
ĐIỀU 3. Đoạn nhân mạng:
A. CHÁNH
VĂN:
Tỳ kheo nào, cố ý tự
tay mình làm dứt sinh mạng loài người, hoặc cầm dao đưa cho người khác dứt, hoặc
khen ngợi sự chết, hoặc khích lệ cho chết, nói rằng: “Ôi này bạn, ích gì đời
sống xấu xa ấy. Bạn nên chết đi tốt hơn”. Hoặc với tâm ý như vậy, tư duy như
vậy, bằng mọi phương tiện, khen ngợi sự chết, khích lệ cho chết. Người kia do
thế mà chết, Tỳ kheo ấy là kẻ ba la di, không được sống chung.
B. LƯỢC
GIẢI:
1. THÍCH
NGHĨA:
+ Đoạn
nhân mạng: làm dứt mạng sống của loài người. Đây chỉ đối tượng giết người để
thành tội ba la di. Tứ phần chỉ nêu một cách tổng quát: nhân mạng,
Thập tụng: nhược nhân, nhược nhân loại, hoặc người, hoặc loại tợ người.
Ngũ phần 2(),
nhược nhân nhược tợ nhân, và giải thích: “Kể từ bắt đầu thác thai mẹ cho đến
49 ngày sau gọi là tợ nhân. Từ đó về sau, cho đến hết đời, gọi là
nhân”. Căn bản: nhược nhân nhược nhân thai, với giải thích của Luật nhiếp
3: “Sáu căn đã đầy đủ, gọi là nhân (người). Đã thác thai mẹ, có thân,
mạng, ý căn, do đây mà được kể là chủng loại người (Hán: nhân đồng phần);
đây gọi là nhân thai (thai loài người). Nam, nữ, bán trạch ca, thể toàn
hay bất toàn, đều là đối tượng giết (để thành tội ba la di) ().
+ Cố ý:
Hán: cố. Giải thích của Luật nhiếp 3():
“Nói cố là muốn nói rõ rằng làm dứt mạng căn người khác một cách không nhầm
lẫn”. Tức là giết người có chủ ý, chứ không phải ngộ sát.
+ Tự
tay.... cầm dao đưa người khác dứt: Văn HánTứ phần: tự thủ đoạn nhân
mạngg, trì đao thọ dữ nhân; một số bản chép không có chữ thọ: trao. Ở
đây, “cầm dao đưa cho người” gồm ý nghĩa: người muốn chết; bèn đưa phương tiện
cho người tự sát; hoặc đưa cho người khác giết người ấy.
Ngũ
phần: “Tự mình giết, hoặc đưa dao hay thuốc cho giết” (Văn Hán: nhược tự
sát, nhược dữ đao dược sát), cũng gồm cả hai ý nghĩa như vừa nói trên.
Thập
tụng: “Tự tay mình giết, hoặc tự mình cầm dao đưa cho”, hoặc khiến người
khác cầm dao đưa cho (Hán: tự thủ đoạt mạng, nhược tự trì đao dữ, nhược giáo
nhân trì đao dữ).
Căn bản:
“Tự tay mình giết, hoặc cầm dao đưa cho, hoặc tự mình cầm dao, hoặc tìm người
cầm dao”, (Hán: tự thủ đoạt kỳ mạng, hoặc trì đao dữ, hoặc tự trì đao, hoặc
cầu trì đao giả). Giải thích của Luật nhiếp 3()
“Hoặc cầm dao đưa cho, nghĩa là, biết người khác muốn tự sát, bèn mang dao
v.v... để bên cạnh. Hoặc tự mình cầm dao: mình không đủ sức, mà chỉ có thể cầm
nổi dao, rồi khiến người bên cạnh tiếp tay cho mình giết. Hoặc tìm người khác,
khiến họ cầm dao giết”. Trong hai phương tiện giết người, bằng thân và bằng lời
nói, đoạn văn này nêu phương tiện giết bằng thân.
+ Hoặc
khen ngợi sự chết... chết đi tốt hơn: Đây là phương tiện giết người bằng lời
nói. Tứ phần: thân dự tử khoái khuyến tử, nghĩa tán thán sự vinh dự của sự
chết, hoặc nói những lời dụ dỗ khiến người muốn chết, muốn tự sát. Đoạn văn tiếp
theo diễn tả cụ thể cách thức giết người bằng phương tiện của lời nói; ý nói:
sống cuộc đời nghèo đói, bịnh tật như vậy thật vô nghĩa, vậy nên tìm phương tiện
gì mà chết đi để hưởng được những vinh quang của đời sống sau khi chết.
+ Ngũ
phần: hoặc chỉ bảo người giết, hoặc chỉ bảo người tự sát, nói đẹp cho sự
chết, khen ngợi sự chết. (Hán: nhược giáo nhân sát, nhược giáo tự sát, dự tử,
tán tử). “Chỉ bảo người giết”: sai khiến kẻ khác giết người. “Chỉ bảo tự
sát”: chỉ dẫn các phương tiện để người tự sát.
Hoặc với
tâm ý như vậy... khích lệ cho chết:
Tứ phần:
tác như thị tâm tư duy().
Ngũ
phần: tác thị tâm tùy tâm sát.
Tăng kỳ:
tác thị ý, tác thị tưởng.
Thập
tụng: tùy bỉ tâm nhạo tử..., tùy theo tâm muốn chết của người ấy, bèn chỉ
dẫn cho bằng các cách tự sát khác nhau, như bảo tự thắt cổ, tự uống thuốc độc,
tự nhảy xuống vực v.v...
Giải
thoát: tùy bỉ sở dục tâm sở ức niệm..., tùy theo tâm mong muốn, theo điều
suy nghĩ của người ấy. Ý nghĩa như Thập tụng.
Căn bản:
tùy tự tâm niệm dĩ dư ngôn thuyết, “tùy theo tâm niệm của mình, bằng các
phương tiện ngôn thuyết khác nhau...”. Giải thích của Luật nhiếp 3:
“Tùy tự tâm niệm, là với ý nghĩ: “Ta hãy khuyên người ấy rằng nếu chết nó sẽ
hưởng sự phước đức”.
Toàn đoạn
văn này nói đến sự giết người bằng cách dụ dỗ và chỉ bày phương tiện. Đây là
điểm được nhấn mạnh hơn hết trong văn của giới điều này. Ý nghĩa quan trọng của
nó là đề cập loại giết người bằng tín ngưỡng tôn giáo. Mặc dầu trong tất cả
Quảng luật của các bộ phái không hề đề cập gì đến loại tín ngưỡng này, nhưng đại
biểu của nó có thể tìm thấy qua lối suy nghĩ của một người giả danh sa môn là
Lộc Trượng. Theo giải thích của Thiện kiến 10 (),
Lộc Trượng là tên riêng ().
Y giả dạng làm sa môn, cạo tóc và lưu lại một ít trên đỉnh; khoác y hoại sắc,
một cái để vấn vào mình, một cái để trên vai, sống dựa vào các tự viện, lượm đồ
ăn dư của các Tỳ kheo khác mà ăn. Theo sự ghi chép của các bộ, với một vài chi
tiết khác biệt, nhưng đại thể tương đồng, thì Lộc Trượng sa môn này sau khi hạ
sát một Tỳ kheo chán đời theo yêu cầu của vị ấy, y đi đến bên bờ sông để rửa con
dao vấy máu ().
Bấy giờ, một niềm hối hận nổi dậy trong y. Nhưng ngay lúc ấy, ác ma hiện đến, ca
ngợi y rằng sự giết người như vậy là một việc làm phước đức to lớn, vì đã giải
thoát cho những ai muốn giải thoát. Sự kiện này phản ảnh tư tưởng coi thân xác
là ngục tù đày đọa. Con đường giải thoát là hủy diệt nó bằng cách tự sát, hoặc
nhờ người khác giết hộ. Sau cái chết là một đời sống vinh quang được hứa hẹn.
Đây là hậu quả khắc nghiệt của chế độ đẳng cấp, trong đó, những kẻ tiện dân,
sống cuộc đời nô lệ hơn cả súc vật; không có tương lai đẹp đẽ nào chờ đợi họ
trong đời sống hiện tại. Trong điều kiện ấy, tin tưởng rằng tự hủy là con đường
giải thoát, như là biện pháp duy nhất đối với họ. Luật Tăng kỳ()
chép một số các Tỳ kheo đã truyền bá loại tư tưởng này. Tăng nhất a hàm
19()
có chép trường hợp bi đát của tôn giả Bà Ca Lê. Do bịnh khổ dày vò không chịu
đựng nổi, đã yêu cầu người đưa dao cho mình tự sát, với ý nghĩ rằng, trong các
đệ tử của Đức Thích Tôn, người đã chứng Tín giải thoát không ai hơn mình, thế mà
mình không giải thoát khỏi hữu lậu tâm, vậy ích gì với đời sống này. Trong niềm
tuyệt vọng ấy, tôn giả cầm dao tự sát. Ngay trong giây phút ấy, tư tưởng của tôn
giả xoay chiều, nghĩ rằng: làm như vậy là sai lầm, vì trong giáo pháp của Như
Lai đã không thể tự mình thủ chứng lại đi tìm giải thoát bằng cái chết. Cũng
chính trong lúc ấy, tôn giả trực nhận tất cả ý nghĩa vô thường, sinh diệt của
năm uẩn, và với sự chứng ngộ cuối cùng này, tôn giả chứng A la hán và nhập Vô dư
Niết bàn.
Trong thời
Đức Thích Tôn, tư tưởng cho rằng giết người không tội lỗi gì cả cũng được chủ
trương bởi một trong 6 phái mà kinh điển Phật gọi chung là các tà mạng ngoại
đạo. Đó là tư tưởng của Ba Phù Ca Chiên Diên().
Tư tưởng này nói: có 7 thân là đất, nước, lửa, gió, khổ, lạc và mạng tức linh
hồn. Ở đây, không có người giết, không có người bị giết. Khi dùng kiếm chặt đầu
một người, thì lưỡi kiếm chỉ đi qua giữa 7 thân ấy mà thôi.
Với các
loại tư tưởng như thế, tự sát và giết người không phải là tội lỗi trên quan điểm
tôn giáo, trái lại, với các hành vi bạo hành ấy, người ta còn được hứa hẹn một
đời sống tươi đẹp trong đời sau.
Tư tưởng
giết người theo tà kiến như vậy thật sự đã có tác động ít nhiều trong hàng ngũ
Tỳ kheo. Các bộ phái đều ghi chép rằng, một số lớn Tỳ kheo ở Tỳ Da Ly, do tu tập
bất tịnh quán, phát sinh tư tưởng ghê tởm đối với thân thể đến độ không thể chịu
đựng, bèn tìm cách tự sát. Những người không đủ sức tự sát thì nhờ tay Lộc
Trượng sa môn.
Như vậy,
điều học ba la di thứ ba này, ngoài sự kiện nó là một tội phạm ở mức cực trọng,
còn có ý nghĩa ngăn chặn tư tưởng bạo hành và tà kiến, vốn là một trong các nét
đặc biệt trong nhiều loại tín ngưỡng phức tạp của nền tôn giáo Ấn Độ thời Đức
Phật.
Người ấy
do thế mà chết. - Người tự sát hoặc bị giết đã thật sự chết vì các phương
tiện khác nhau của thân và ngữ như đã nói trên. - Nguyên văn Hán của Tứ phần
giới bản, cả hai bản A và B, đều không có câu này. Tất cả các bộ khác đều có
ghi rõ, nên ở đây thêm vào cho đủ ý nghĩa. Có lẽ Tứ phần giới bản do
thoát lạc bởi các người sao chép về sau().
2. PHẠM
TƯỚNG:
a. Ba la
di, hội đủ các yếu tố:
1) Bản thể
Tỳ kheo chưa mất, như các điều trước.
2) Có tư
niệm sát.
3) Đối
tượng là loài người, và thai người, chứ không phải các loài khác, và biết rõ như
vậy.
4) Tiến
hành giết bằng các phương tiện của thân, hoặc ngữ.
5) Giết
đúng đối tượng, không nhầm lẫn.
6) Người đã
chết do các phương tiện ấy.
b. Thâu
lan giá, nếu các yếu tố để thành ba la di không trọn:
- Đối tượng
muốn giết là 8 bộ quỷ thần, hoặc súc sanh biến hiện làm hình dáng người.
- Thật loài
người, nhưng còn ngờ không xác định, và các loại biến hình.
- Giết
không đúng đối tượng muốn giết.
- Đã gây
thương tích trên thân thể đối tượng, nhưng không chết.
c. Đột
kiết la:
- Giết 8 bộ
quỷ thần, hoặc súc sanh biến hóa, nhưng không chết.
- Thật loài
người nhưng còn ngờ, giết mà không chết.
- Hoàn toàn
không bị thương tích gì do các phương tiện giết người của mình đặt ra.
d. Không
phạm:
- Ngộ sát,
không có tâm sát hại.
- Cuồng si,
tâm loạn v.v... như các giới trước().
e. Linh
tinh:
- Giết súc
sanh không có khả năng biến hóa: ba dật đề.
- Phá thai:
thai nhi chết: ba la di. Thai nhi sống, mẹ chết: thâu lan giá.
- Tự đoạn
âm: thâu lan giá.
- Tự chặt
một ngón tay: đột kiết la.
3. DUYÊN
KHỞI:
a. Địa
điểm và thời gian: - Các bộ đồng nhất: Phật trú tại Tỳ Da Ly. Riêng Tăng
kỳ 4 có thêm chi tiết thời gian: Phật tại Tỳ Xá Li, thành đạo năm thứ 6, mùa
đông, nửa tháng thứ ba, ngày 9, trước bữa ăn trưa, bóng một người đang ngồi ngả
về phía Bắc dài bằng 1 người rưỡi, nhân một số Tỳ kheo nuôi bịnh khuyến khích
người bịnh tự sát, và nhân Lộc Trượng ngoại đạo giết các Tỳ kheo tu tập sai lầm
về bất tịnh quán, Phật chế giới này.
b. Diễn
tiến kết giới. - Tứ phần, Thập tụng và Căn bản: Phật kết một lần
là trọn đủ. Chi tiết, Tứ phần 2: một số đông các Tỳ kheo tu tập quán bất
tịnh một cách sai lầm, sinh tâm nhàm tởm, ghê sợ thân xác hôi thối của mình, tìm
cách tự sát. Theo yêu cầu của một số lớn, Lộc Trượng sa môn (Hán âm: Vật lực già
nan đề Tỳ kheo; nói Tỳ kheo, có lẽ dịch giả của Tứ phần hiểu sai
sinh hoạt của gã sát nhân này) hàng ngày giết Tỳ kheo và lấy y bát của họ. Có
ngày y giết đến 60 mạng. Theo tổng kê của Thiện kiến 10, con số Tỳ kheo
hoặc tự sát hoặc do Lộc Trượng giết tất cả là 500.
Theo Ngũ
phần 2, giới này được kết 5 lần:
I. Do
trường hợp các Tỳ kheo tu bất tịnh quán sai lầm, và hành vi giết người của Lộc
Trượng (đây âm: Di lân chiên đà la). Phật kết giới với lời văn: “Tỳ kheo nào
tự tay mình giết người, làm dứt mạng sống của người, Tỳ kheo ấy ba la di, bất
cọng trú”.
ii. Một Tỳ
kheo nuôi bịnh đưa dao cho người bịnh tự sát. Phật bổ túc văn kết giới: “Tỳ
kheo nào tự mình làm dứt mạng sống loài người, hoặc cầm dao đưa cho, phạm ba la
di, bất cọng trú”.
iii. Một Tỳ
kheo nuôi bịnh, theo yêu cầu của người bịnh, đi tìm một thợ săn đến để giúp Tỳ
kheo bịnh được giải thoát. Phật bổ túc: “Tỳ kheo nào tự mình giết người, hoặc
chỉ bảo người khác giết người, phạm ba la di, bất cọng trú”.
iv. Một Tỳ
kheo nuôi bịnh, khuyên bịnh tự sát để sớm được hưởng quả báo tốt đẹp do sự tu
hành của mình. Phật bổ túc văn giới: “Tỳ kheo nào tự tay giết người (...)(),
hoặc chỉ bảo người tự sát, phạm ba la di, bất cọng trú”.
v. Một số
Tỳ kheo khuyên người bịnh tự sát; số khác khuyên những bạch y bị nạn giặc cướp
mà gia đình ly tán, tang tóc, đau khổ, khuyên họ nên tự sát để sanh thiên do
công đức bố thí tu phước.
Phật kết
lại giới; với văn nghĩa trọn đủ như đã được kết tập.
Theo
Tăng kỳ 4, giới này được Phật kết qua bốn lần.
i. Một Tỳ
kheo nuôi bịnh, theo yêu cầu của bịnh nhân, đã tự tay kết liễu mạng sống người
bịnh. Phật kết giới: “Tỳ kheo nào tự tay đoạn mạng căn loài người, Tỳ kheo ấy
là kẻ ba la di, bất cọng trú”.
ii. Một Tỳ
kheo bịnh quá lâu ngày, không muốn sống nữa, yêu cầu Tỳ kheo nuôi bịnh kết liễu
đời mình hộ. Tỳ kheo nuôi bịnh không dám tự tay mình giết, bèn đi tìm Lộc Trượng
ngoại đạo đến kết liễu. Phật kết lại giới văn: “Tỳ kheo nào tự tay đoạn mạng
người, hoặc đi tìm người cầm dao đến khiến đoạn mạng người, Tỳ kheo ấy phạm ba
la di, bất cọng trú”.
iii. Một Tỳ
kheo bịnh lâu ngày, yêu cầu Tỳ kheo nuôi bịnh kết liễu đời mình hộ, hoặc tìm
người khác đến kết liẽu hộ. Tỳ kheo nuôi bịnh không dám làm theo yêu cầu vì Phật
đã chế giới, nhưng chỉ dẫn: thiếu gì cách tự tử, như uống thuốc độc, tự thắt cổ,
nhảy vào lửa v.v... Nói xong lánh đi, và Tỳ kheo bịnh tự sát theo chỉ dẫn ấy.
Phật kết lại giới văn: “Tỳ kheo nào tự tay đoạn mạng người, hoặc tìm người
cầm dao đến giết, hoặc chỉ bảo cách chết, khen ngợi sự chết, Tỳ kheo ấy phạm ba
la di, bất cọng trú”.
iv. Do
trường hợp các Tỳ kheo tu bất tịnh quán và việc giết người của Lộc Trượng ngoại
đạo, như các bộ khác. Phật kết lại giới văn hoàn chỉnh như sau: “Tỳ kheo nào
tự tay đoạn mạng người, hoặc tìm người cầm dao đến giết, hoặc chỉ bảo chết, hoặc
khen ngợi sự chết, nói rằng: “Này bạn, ích gì đời sống xấu xa này. Bạn hãy chết
đi tốt hơn”. Với ý như vậy, với tưởng như vậy, bằng các phương tiện, khen ngợi
sự chết, khích lệ cho người ấy chết. Người ấy chết vì nhân duyên ấy chứ không
phải khác, Tỳ kheo ấy phạm ba la di, bất cọng trú”.
ĐIỀU 4. Đại vọng ngữ.
A. CHÁNH
VĂN:
Tỳ
kheo nào, thật sự không chứng ngộ, mà tự mình tuyên bố rằng: “Tôi đã chứng đắc
pháp của bậc thượng nhân; tôi đã chứng nhập pháp thù thắng của thánh trí. Tôi
biết pháp này. Tôi thấy pháp này”. Vị ấy, vào lúc khác, bị người cật vấn hoặc
không bị cật vấn, muốn cho mình được thanh tịnh, nói như vầy: “Tôi thật sự không
biết, không thấy, nhưng đã nói là có biết có thấy. Đó là lời nói hư dối”. N goại
trừ tăng thượng mạn, Tỳ kheo ấy là kẻ ba la di, không được sống chung.
B. LƯỢC
GIẢI:
1. THÍCH
NGHĨA:
+
Đại vọng ngữ, nói dối trong mức độ nghiêm trọng; phân biệt với tiểu vọng ngữ
thuộc tội phạm ba dật đề.
+ Thật
sự không chứng ngộ, Hán, Tứ phần: thật vô sở tri “không có sở tri
chân thật”. Ngũ phần: bất tri bất kiến, “không biết, không thấy”. Tăng
kỳ: vị tri vị kiến, “không biết, không thấy”. Tăng kỳ: vị tri vị kiến,
“chưa biết chưa thấy”. Căn bản: thật vô tri, vô biến tri, tự tri bất đắc...,
thật sự không biết, không thấu triệt, tự biết mình chưa chứng đắc... “Giải
thích của Luật nhiếp 3: vô tri, nghĩa là, đối với cảnh sở tri (nói cụ
thể: đối với 5 thủ uẩn) không hiểu rõ các đặc tính vô thường, đáng nhàm tởm
v.v... Vô biến tri, với cảnh sở tri mang tính vô thường v.v... nói trên
chưa quán sát tường tận; đối với lẽ hữu và phi hữu không biết rõ như thạt mà lại
khởi lên kiến giải tà vạy một cách sai lầm rồi tuyên bố những điều phi pháp. Lại
nữa, vô tri, nghĩa là chưa hề biết rõ pháp của bậc thượng nhân. Vô
biến tri, không hiểu biết toàn diện pháp ngũ uẩn. Tự tri bất đắc,
biết rõ mình chưa tự thân chứng đắc.
+ Pháp
của bậc thượng nhân, Ngũ phần, Tăng kỳ và Thập tụng: quá nhân pháp. - Tứ
phần, Căn bản: thượng nhân pháp. - Giải thích của Tứ phần 2: Pháp
thuộc về người (Hán: nhân pháp) là các uẩn, xứ và giới thuộc phạm vi con
người (tức thuộc phàm phu). Thượng nhân pháp là các pháp có khả năng đưa
đến xuất ly (nghĩa là dẫn đến Niết bàn). “Ngũ phần 2: Tất cả pháp đưa đến
sự xuất ly, gồm các thiền, giải thoát, tam muội, chánh thọ, các quả thuộc Thánh
đạo. Đây gọi là quá nhân pháp”.
+ Pháp
thù thắng của thánh trí, Hán; Tứ phần: Thánh trí thắng pháp. Thánh
trí ở đây chỉ chung 10 vô lậu trí, gồm pháp trí, v.v… cho đến tận trí, vô sanh
trí. – Căn bản: tịch tĩnh Thánh giả thù thắng chứng ngộ. Giải thích của
Luật nhiếp 3: tịch tĩnh, vì là tối diệu. Thánh giả, chỉ bậc đã
tránh xa các pháp ác bất thiện. Thù thắng chứng ngộ, vì do sức lực và sự
thông minh mà đạt được. Hoặc giải thích cách khác: tịch tĩnh chỉ Niết
bàn. Thù thắng chứng ngộ, chỉ bốn Thánh quả. – Luật Căn bản có
thêm chi tiết: tri kiến an lạc trú, và được Luật nhiếp giải thích:
tri kiến, chỉ khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí, cho đến đạo loại nhẫn, đạo loại
trí. An lạc trú, tức an lạc trú trong các công đức do các trình độ thiền
định đưa đến.
Ngũ phần
và Thập tụng nói: Thánh lợi mãn túc, “thành tựu trọn vẹn cứu cánh
của bậc Thánh”. Ngũ phần giải thích: “Đã hoàn tất, đã trọn đủ, không còn
gì phải cầu học thêm nữa”.
+ Tăng
thượng mạn: Chưa chứng đắc nhưng tưởng lầm là đã chứng đắc.
2. PHẠM
TƯỚNG:
a. Ba la
di, nếu hội đủ 7 yếu tố:
1) Bản thể
Tỳ kheo chưa mất.
2) Nói
trước loài người và biết rõ đó là người.
3) Nội dung
nói là pháp Thượng nhân.
4) Biết rõ
đó là pháp Thượng nhân.
5) Cố ý nói
dối, vì tham cầu lợi dưỡng các thứ.
6) Đã nói
thành lời.
7) Người
nghe hiểu rõ nội dung mình muốn nói.
b. Thâu
lan giá, các yếu tố ba la di không trọn:
- Đối tượng
nói là 8 bộ quỷ thần, súc sanh biến hình, mặc dù chúng có thể nghe và hiểu.
- Đối tượng
mà mình nghi ngờ là loài người.
- Đối tượng
thật sự là người nhưng tưởng không phải là người.
- Chỗ có
người tưởng là không có người, và ngược lại.
- Người
khác đã nghe, nhưng không hiểu điều mình nói.
c. Đột
kiết la, không hội đủ yếu tố thâu lan giá:
- Đối
tượng không phải là người, chúng nghe nhưng không hiểu.
- Đối tượng
nghi ngờ là người, nghe nhưng không hiểu.
d. Không
phạm:
- Tưởng
là mình, thật chứng. Nói chung, nếu hiểu sao nói vậy – tâm khẩu nhất như – thì
không thành nói dối.
3. DUYÊN
KHỞI:
a. Địa
điểm và thời gian – Ngũ phần, Tứ phần, Căn bản: Phật tại Tỳ Xá Ly.
Tăng kỳ, Phật tại Xá Vệ. Thập tụng: Phật tại Câu Tát La (thủ phủ của
Câu Tát La là thành Xá Vệ). Tăng kỳ thêm chi tiết: Phật tại Xá Vệ, thành
đạo năm thứ 6, mùa đông, nửa tháng thứ tư, ngày 13, vào xế chiều, khi bóng một
người đang ngồi ngả về phía Đông dài bằng 2 người rưỡi.
b. Diễn
tiến: Giới này được kết qua hai giai đoạn.
i. Một số
Tỳ kheo, vì tham cầu lợi dưỡng, bịa đặt chuyện mình đã chứng ngộ các pháp Thượng
nhân, để mong được sự cung kính và lợi dưỡng từ các bạch y. Phật kết giới đại
vọng ngữ.
ii. Có Tỳ
kheo sống tại a lan nhã, các phiền não vì thiếu duyên nên không khởi, vị ấy
tưởng là mình đã đắc đạo quả, nên tuyên bố với các Tỳ kheo khác. Về sau, đi vào
các tụ lạc, do đủ duyên, các phiền não phát kởi, hoặc nghe các Tỳ kheo có trí
giảng về các hình thái của đạo quả, báy giờ tự biết mình chưa chứng đắc gì cả.
Do đó, Phật bổ túc giới văn, nói thêm là trừ tăng thượng mạn.
III. KẾT THUYẾT:
1. TRỊ
PHẠT:
A. CHÁNH
VĂN:
Các Đại đức, tôi đã
tụng xong bốn pháp ba la di. Tỳ kheo nào phạm bất cứ một pháp nào không còn được
sống chung với các Tỳ kheo. Cũng như trước kia, sau khi phạm cũng vậy, Tỳ kheo
ấy là kẻ ba la di, không được sống chung.
B. LƯỢC
GIẢI:
+ Không
được sống chung với các Tỳ kheo: Hán: bất đắc dữ chư Tỳ kheo cọng trú.
Tức không còn được sinh hoạt chung với các Tỳ kheo như: không được cùng thuyết
giới, cùng yết ma, cùng hưởng các lợi dưỡng. Nói chung, không còn được kể là Tỳ
kheo, cho nên, không có các nghĩa vụ cũng như quyền lợi của Tỳ kheo.
+ Cũng
như trước kia, sau khi phạm cũng vậy: Trước kia, chỉ trước khi thọ giới Cụ
túc, nghĩa là lúc đang còn là cư sĩ, chưa đắc giới để thành Tỳ kheo. Sau khi
phạm giới, người ấy trở lại làm bạch y như trước. Những điều mà Tỳ kheo không
được phép nói hay làm với người bạch y, thì cũng vậy, không được nói hay làm với
người đã phạm ba la di. Các điều cấm này được quy định rải rác trong thiên ba
dật dề, sẽ thấy ở Chương V ở sau. Riêng về các yết ma trị phạt liên hệ đến pháp
ba la di, như yết ma diệt tẩn, dữ học pháp, cũng sẽ được nói trong phần ba ở
sau.
2. KẾT
VẤN:
Nay hỏi
các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? Các Đại đức trong đây thanh tịnh, vì
im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
--- o0o ---
Mục Lục Toàn Tập
Tập 1
|
1
|
2-0
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
Tập 2
|
7
|
8
|
9-1
|
9-2
|
9-3
|
9-4
|
9-5
|
9-6
|
9-7
|
9-8
|
10
Tập 3 |
11
| 12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
|
20
--- o0o ---
Source:
www.phatviet.net
Vi tính: Nguyên Trang, Nhị Tường - Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-06-2004