NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2001
TOÀN TẬP
TÂM NHƯ TRÍ THỦ
--- o0o ---
TẬP 2
Phần
8
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
TỰA THUYẾT GIỚI
1. Cúi đầu lễ
chư Phật.
Tôn Pháp, Tỳ kheo Tăng.
Nay nói pháp Tỳ ni,
Để chánh pháp trường
tồn.
2. Giới như bể
không bờ,
Như báu cầu không chán.
Muốn hộ tài sản Thánh,
Chúng họp nghe tôi nói.
3. Muốn trừ
bốn tội khí,
Và diệt tội Tăng tàn.
Ngăn ba mươi xả đọa,
Chúng họp nghe tôi nói.
4. Tỳ bà thi,
Thi khí,
Tỳ xá Câu lưu tôn,
Câu na hàm Mâu ni,
Ca diếp, Thích ca văn,
5. Các đại đức
Thế tôn,
Vì tôi dạy sự này,
Tôi nay muốn nhắc rõ,
Các ngài thảy cùng
nghe.
6. Ví như
người què chân,
Không thể đi đâu được.
Người phá giới cũng
vậy,
Không thể sanh trời,
người.
7. Muốn được
sanh lên trời,
Hoặc sanh vào cõi
người,
Thường phải giữ chân
giới,
Đừng để bị thương tổn.
8. Như xe vào
đường hiểm,
Lo hư chốt gãy trục,
Phá giới cũng như vậy.
Khi chết lòng sợ hãi.
9. Như người
tự soi kiếng
Đẹp, xấu, sanh vui,
buồn.
Thuyết giới cũng như
vậy,
Vẹn, hỏng, sanh mừng,
lo.
10. Như hai
trận xáp chiến
Gan, nhát, có tiến,
thối.
Thuyết giới cũng như
vậy,
Tịnh, nhiễm sanh vui,
sợ.
11. Thế gian
vua là lớn,
Sông ngòi bể rộng hơn,
Các sao, trăng sáng
nhất,
Các thánh, Phật trên
hết.
12. Trong tất
cả các luật,
Giới kinh là tối
thượng.
Như Lai lập cấm giới,
Nửa tháng nói một lần.
13. Tăng họp chưa?
- Tăng đã họp.
Hòa hiệp không?
- Hòa hiệp.
Người chưa thọ cụ túc đã ra chưa?
- Đã ra.
Các tỳ kheo
không đến có thuyết dục và thanh tịnh không?
(Nếu không
thì đáp: Trong đây không có tỳ kheo thuyết dục và thanh tịnh.)
(Nếu có thì
đáp: Có. Người thọ dục đứng ra giữa Tăng, lễ một lễ, quỳ chấp tay bạch: )
Bạch Đại đức
Tăng, tỳ kheo .... Tăng sự như pháp, có gởi dục và thanh tịnh cho tôi. Tôi có
nhận lãnh sự gởi dục và thanh tịnh của vị ấy.
Thượng tọa
nói: Thiện.
Đáp: Nhĩ.
Thượng tọa
hỏi tiếp:
Có ai sai tỳ
kheo ni đến thỉnh giáo giới?
(Có hay không
có, tác bạch như được nói trong ‘Yết ma yếu chỉ’)
Tăng nay hoà
hiệp để làm gì?
Thuyết giới
kiết ma.
Đại đức Tăng
lắng nghe. Hôm nay là ngày bạch (hay hắc) nguyệt, ngày thứ 15 (hoặc 14), chúng
tăng thuyết giới. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận hòa hiệp
thuyết giới. Đây là lời tác bạch.
Thưa các Đại
đức, nay tôi sẽ thuyết giới ba la đề mộc xoa, các tỳ kheo cùng tập họp tại một
chỗ, hãy lắng nghe, suy niệm kỹ. Nếu ai tự biết có phạm, hãy tự phát lộ. Ai
không phạm thì im lặng. Do sự im lặng, tôi biết các đại đức thanh tịnh. Như một
người được kẻ khác hỏi riêng điều gì, thì như thực mà trả lời. Cũng vậy, tỳ kheo
nào ở trong chúng sau khi đã ba lần hỏi, nhớ nghĩ mình có tội mà không phát lộ,
vị ấy mắc tội cố ý vọng ngữ. Phật dạy cố ý vọng ngữ là pháp chướng đạo. Tỳ kheo
nào nhớ nghĩ mình có tội, muốn cầu thanh tịnh, hãy tự phát lộ. Do phát lộ mà
được an lạc.
Thưa các Đại
đức, tôi đã thuyết xong tựa Giới kinh. Nay hỏi, các đại đức trong đây có thanh
tịnh không? (3 lần).
Các đại đức
trong đây thanh tịnh. Vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.
CHƯƠNGMỘT
BA LA DI
Thưa các Đại
đức, đây là bốn pháp Ba la di xuất từ Giới kinh, mỗi nửa tháng tụng một lần.
1. Tỳ kheo
nào đã thọ trì học xứ và chấp nhận đời sống của tỳ kheo, chưa hoàn giới, giới
sút kém nhưng không phát lộ, mà hành pháp dâm dục, cho đến cùng với loài súc
sinh, tỳ kheo ấy là kẻ ba la di, không được sống chung.
2. Tỳ kheo
nào, hoặc từ làng xóm hoặc từ rừng vắng lấy vật không cho với tâm trộm cắp, tùy
theo sự lấy vật không cho ấy mà vua hay đại thần của vua hoặc bắt, hoặc giết,
hoặc trói, hoặc đuổi khỏi nước, hoặc khiển trách: ‘Ngươi là kẻ trộm, ngươi là kẻ
ngu, ngươi là kẻ không biết gì’ tỳ kheo ấy là kẻ ba la di, không được sống
chung.
3. Tỳ kheo
nào, cố ý tự tay mình làm dứt sinh mạng loài người, hoặc cầm dao đưa người khác
dứt, hoặc khen ngợi cho chết, hoặc khích lệ cho chết, nói rằng: ‘Oâi, này bạn,
ích gì đời sống xấu xa ấy. Bạn nên chết đi tốt hơn’ Hoặc với tác ý như vậy, tư
duy như vậy, bằng mọi phương tiện khen ngợi cho chết, khích lệ cho chết. Người
kia nếu do thế mà chết, tỳ kheo ấy là kẻ ba la di, không được sống chung.
4. Tỳ kheo
nào, thật sự không chứng ngộ mà tự mình tuyên bố rằng: ‘Tôi đã chứng đắc pháp
quả bậc thượng nhân, tôi đã chứng nhập thánh trí, chứng nhập pháp thù thắng. Tôi
biết pháp nầy, tôi thấy pháp nầy’. Vị ấy vào lúc khác bị người cật vấn, hoặc
không bị cật vấn, muốn cho được thanh tịnh nói như vầy: ‘Tôi thật sự không biết
không thấy, nhưng đã nói là có biết có thấy. Đó là lời nói hư dối’. Ngoại trừ
tăng thượng mạn, tỳ kheo ấy là kẻ ba la di, không được sống chung.
Các Đại đức,
tôi đã tụng xong bốn pháp ba la di. Tỳ kheo nào phạm bất cứ một pháp nào không
còn được sống chung với các tỳ kheo. Cũng như truớc kia, sau khi phạm cũng vậy,
tỳ kheo ấy là kẻ ba la di, không được sống chung.
Nay hỏi các
Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần)
Các Đại đức
trong đây thanh tịnh. Vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.
CHƯƠNG HAI
TĂNG GIÀ BÀ THI SA
Thưa các Đại
đức, đây là mười ba pháp Tăng già bà thi sa, xuất từ Giới kinh, nửa tháng tụng
một lần.
1. Tỳ kheo
nào cố ý làm xuất tinh, trừ chiêm bao, tăng già bà thi sa.
2. Tỳ kheo
nào, do dục tâm dồn nén, xúc chạm thân thể người nữ, hoặc nắm tay, hoặc nắm tóc,
hoặc xúc chạm bất cứ một thân phần nào, tăng già bà thi sa.
3. Tỳ kheo
nào do dục tâm dồn nén, nói lời thô tục về dâm dật với người nữ, tùy theo lời
nói thô tục về dâm dật, tăng già bà thi sa.
4. Tỳ kheo
nào, do dục tâm dồn nén, đối trước người nữ, tự khen thân mình ‘Này cô, tôi tu
phạm hạnh, trì giới tinh tấn, tu tập pháp thiện, nên đem pháp dâm dục ấy cung
phụng tôi, sự cung phụng ấy là bậc nhất, tăng già bà thi sa.
5. Tỳ kheo
nào, qua lại người này người kia làm mai mối, đem ý người nam nói với người nữ,
đem ý người nữ nói với người nam, hoặc để thành việc vợ chồng, hoặc để cho tư
thông dầu trong chốc lát, tăng già bà thi sa.
6. Tỳ kheo
nào, tự khất cầu để cất thất, không có thí chủ mà tự mình cất lấy, cần phải làm
đúng lượng. Trong đây đúng lượng là dài mười hai gang tay Phật, bên trong rộng
bảy gang tay Phật. Phải mời các tỳ kheo đến chỉ định nơi chốn. Các tỳ kheo ấy
cần chỉ định nơi chốn, là nơi không có nguy hiểm, nơi không bị bít lối. Nếu tỳ
kheo, nơi có nguy hiểm, nơi bị bít lối , tự khất cầu để cất thất không có thí
chủ mà tự mình cất lấy, không mời các tỳ kheo đến chỉ định nơi chốn, hoặc làm
quá lượng, tăng già bà thi sa.
7. Tỳ kheo
nào muốn cất tinh xá lớn, có thí chủ làm cho mình, cần phải mời các tỳ kheo khác
đến chỉ định nơi chốn. Các tỳ kheo ấy chỉ cần chỉ định nơi chốn là nơi không có
nguy hiểm, không bị bít lối. Nếu tỳ kheo, nơi có nguy hiểm, nơi bị bít lối, cất
tịnh xá lớn, có thí chủ làm cho mình mà không mời các tỳ kheo chỉ định nơi
chốn,tăng già bà thi sa.
8. Tỳ kheo
nào, vì giận hờn, dựa lấy một phần tương tự của sự kiện khác, đối với tỳ kheo
không phải là ba la di mà vu khống bằng pháp ba la di không căn cứ, muốn hủy
hoại đời sống phạm hạnh của vị ấy. Về sau, dù bị cật vấn hay không bị cật vấn,
sự việc ấy được biết là dựa lấy một phần tương tợ của sự kiện khác, tỳ kheo này
tự nói rằng: ‘Tôi vì thù hận nên nói như vậy’ Tỳ kheo nào nói như vậy, tăng già
bà thi sa.
10. Tỳ kheo
nào, muốn phá hoại hòa hiệp tăng, tiến hành phá hòa hiệp tăng, chấp chặt pháp
phá hòa hiệp tăng kiên trì không bỏ. Các tỳ kheo nên can gián tỳ kheo này rằng:
‘Đại đức, chớ phá hòa hiệp tăng, chớ tiến hành phá hòa hiệp tăng, chớ chấp chặt
pháp phá hòa hiệp tăng kiên trì không bỏ. Đại đức nên cùng tăng hòa hiệp. Vì
cùng tăng hòa hiệp, hoan hỷ không tranh chấp, đồng một thầy học, hòa hiệp như
nước với sữa, thì ở trong Phật pháp có sự tăng ích, sống an lạc. Tỳ kheo ấy sau
khi được can gián như vậy, vẫn kiên trì không bỏ, các tỳ kheo nên can gián ba
lần cho bỏ sự ấy. Cho đến ba lần can gián, bỏ thì tốt nếu không bỏ, tăng già bà
thi sa.
11. Hoặc có
tỳ kheo có bè đảng, từ một, hai, hoặc ba cho đến vô số tỳ kheo. Các tỳ kheo bè
đảng ấy nói với chúng tỳ kheo rằng: ‘Đại đức, chớ cản trở tỳ kheo ấy. Tỳ kheo ấy
là tỳ kheo nói đúng pháp. Tỳ kheo ấy là tỳ kheo nói đúng luật. Những điều tỳ
kheo ấy nói, chúng tôi ưa thích. Những điều tỳ kheo ấy nói, chúng tôi chấp
nhận’. Chúng tỳ kheo nên can gián các tỳ kheo bè đảng đó rằng: ‘Đại đức chớ nói
như vầy: ‘Tỳ kheo ấy là tỳ kheo nói đúng pháp. Tỳ kheo ấy là tỳ kheo nói đúng
luật. Những điều tỳ kheo ấy nói, chúng tôi ưa thích. Những điều tỳ kheo ấy nói,
chúng tôi chấp nhận’. Nhưng thật ra, tỳ kheo ấy là tỳ kheo nói phi pháp, là tỳ
kheo nói phi luật. Đại đức, chớ phá hoại hòa hiệp tăng. Các ngài nên hoan hỷ hòa
hiệp tăng. Đại đức cùng tăng hòa hiệp, hoan hỷ không tranh chấp, đồng một thầy
học, hòa hiệp như nước với sữa, ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an
lạc. Các tỳ kheo bè đảng đó được can gián như vậy mà không bỏ, chúng tỳ kheo nên
ba lần can gián cho bỏ sự ấy. Cho đến ba lần can gián, bỏ thì tốt, nếu không bỏ,
tăng già bà thi sa.
12. Tỳ kheo
nào sống nương tựa nơi xóm làng hay thành ấp, mà làm hoen ố nhà người , có hành
vi xấu , sự làm hoen ố nhà người mọi người đều thấy đều nghe, hành vi xấu mọi
người đều thấy đều nghe. Các tỳ kheo nên nói với tỳ kheo này rằng: “Đại đức là
người làm hoen ố nhà người, là người có hành vi xấu, sự làm hoen ố nhà người mọi
người đều thấy đều nghe. Đại đức, ngài làm hoen ố nhà người, có hành vi xấu, nay
nên xa lánh xóm làng này, không nên sống ở đây nữa’. Tỳ kheo này nói với các tỳ
kheo rằng: ‘Đại đức, các tỳ kheo có tư vị, có thù nghịch, có sợ hãi, có si mê.
Vì có tỳ kheo đồng tội như vậy mà có người bị đuổi, có người không bị đuổi’. Các
tỳ kheo nên trả lời tỳ kheo ấy rằng: ‘Đại đức chớ nói rằng: Các tỳ kheo có tư
vị, có thù nghịch, có sợ hãi, có si mê. Vì có tỳ kheo đồng tội như vậy mà có
người bị đuổi, có người không bị đuổi. Nhưng sự thật các tỳ kheo không có tư vị,
không có thù nghịch, không có sợ hãi, không có si mê. Mà vì Đại đức là người làm
hoen ố nhà người có hành vi xấu. Sự làm hoen ố nhà người mọi người đều thấy đều
nghe, hành vi xấu mọi người đều thấy đều nghe. Tỳ kheo ấy được can gián như vậy
mà kiên trì không bỏ. Các tỳ kheo nên can gián ba lần cho bỏ sự ấy. Cho đến ba
lần can gián, bỏ thì tốt, nếu không bỏ, tăng già bà thi sa.
13. Tỳ kheo
nào, có tánh ngoan cố không nghe người khuyên, đã được các tỳ kheo khuyên can
như pháp những điều trong học giới, tự thân không nhận lời can gián, lại nói
‘Các đại đức chớ nói với tôi điều gì hoặc tốt hoặc xấu, tôi cũng không nói với
các đại đức điều gì hoặc tốt hoặc xấu. Các đại đức, hãy thôi, chớ can gián tôi.
Các tỳ kheo can gián các tỳ kheo ấy rằng: ‘Đại đức chớ tự thân không nhận lời
can gián, Đại đức hãy tự thân không nhận lời can gián. Đại đức như pháp can gián
các tỳ kheo.Các tỳ kheo cũng như pháp can gián Đại đức. Như vậy, chúng đệ tử
Phật được tăng ích, can gián lẫn nhau, phát lộ với nhau. Tỳ kheo ấy được can
gián như vậy, kiên trì không bỏ. Các tỳ kheo nên can gián ba lần cho bỏ sự ấy.
Cho đến ba lần can gián, bỏ thì tốt, nếu không bỏ, tăng già bà thi sa.
Các Đại đức,
tôi đã tụng xong mười ba pháp tăng già bà thi sa. Chín giới đầu lần đầu làm tức
thị phạm, bốn giới sau cho đến ba lần can gián. Tỳ kheo nào phạm bất cứ một pháp
nào, biết mà che dấu, cần phải cưỡng bức cho ba lị bà sa. Hành ba lị bà sa xong,
cho thêm sáu đêm ma na đỏa. Hành ma na đỏa xong, còn phải xuất tội. Cần phải
giữa tăng gồm hai mươi vị để xuất tội của tỳ kheo ấy.Nếu thiếu một vị, không đủ
chúng hai mươi người mà xuất tội, thì tội của tỳ kheo ấy không được trừ, các tỳ
kheo bị khiển trách như thế là hợp thức.
Nay hỏi, các
Đại đức trong đây thanh tịnh không? (3 lần).
Các Đại đức
trong đây thanh tịnh. Vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.
CHƯƠNG BA
PHÁP BẤT ĐỊNH
Thưa các Đại
đức, đây là hai pháp bất định xuất từ Giới kinh, nửa tháng tụng một lần.
1. Tỳ kheo
nào, cùng với một người nữ một mình ngồi tại chỗ khuất, chỗ kín, chỗ có thể hành
dâm, nói lời phi pháp. Có vị ưu bà di trụ tín nói một pháp nào trong ba pháp,
hoặc ba la di, hoặc tăng già bà thi sa, hoặc ba dật đề, và tỳ kheo ngồi ấy tự
xác nhận rằng ‘Tôi phạm tội ấy’ vậy cần xử trị một trong ba pháp, hoặc ba la di,
hoặc tăng già bà thi sa, hoặc ba dật đề, đúng như lời vị ưu bà di trụ tín. Cần
phải như pháp xử trị tỳ kheo ấy. Đây gọi là pháp bất định.
2. Tỳ kheo
nào cùng với một người nữ ngồi tại chỗ trống, chỗ không thể hành dâm, nói lời
thô tục. Có vị ưu bà di trụ tín nói một trong hai pháp hoặc tăng già bà thi sa,
hoặc ba dật đề, và tỳ kheo ấy ngồi tự xác nhận: ‘Tôi phạm tội ấy, vậy cần xử
trị’ một trong hai pháp hoặc tăng già bà thi sa, hoặc ba dật đề đúng như lời vị
ưu bà di trụ tín. Cần phải như pháp xử trị tỳ kheo ấy. Đây gọi là pháp bất định.
Các Đại đức,
tôi đã tụng hai pháp bất định.
Nay hỏi , Các
Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần)
Các Đại đức
trong đây thanh tịnh. Vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.
CHƯƠNG BỐN
NI TÁT KỲ BA DẬT ĐỀ
Thưa các Đại
đức, đây là ba mươi pháp ni tát kỳ ba dật đề xuất từ Giới kinh, mỗi nửa tháng
tụng một lần.
1. Tỳ kheo
nào, y đã xong, ca thi na y đã xả, chứa y dư trong mười ngày, không tịnh thí
được phép cất, nếu quá mười ngày, ni tát kỳ ba dật đề.
2. Tỳ kheo
nào, y đã xong, ca thi na y đã xả, lìa một trong ba y ngủ đêm chỗ khác, trừ tăng
kiết ma, ni tát kỳ ba dật đề.
3. Tỳ kheo
nào, y đã xong, ca thi na y đã xả, nếu tỳ kheo được vải phi thời, cần thì nhận,
nhận xong nhanh chóng may thành y, đủ thì tốt, không đủ thì được phép cất một
tháng vì đợi cho đủ, nếu cất quá hạn, ni tát kỳ ba dật đề.
4. Tỳ kheo
nào, thọ nhận y từ tỳ kheo ni không phải thân quyến, trừ đổi chác, ni tát kỳ ba
dật đề.
5. Tỳ kheo
nào, khiến tỳ kheo ni không phải thân quyến giặt y cũ, hoặc nhuộm, hoặc đập, ni
tát kỳ ba dật đề.
6. Tỳ kheo
nào, xin y từ cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến, ni tát kỳ ba dật đề, trừ
trường hợp đặc biệt. Trường hợp đặc biệt là nếu tỳ kheo y bị cướp, y bị mất, y
bị cháy, y bị nước cuốn. Đây gọi là trường hợp đặc biệt.
7. Tỳ kheo
nào, y bị cướp, y bị mất, y bị cháy, y bị nước cuốn, nếu có cư sĩ hay vợ cư sĩ
không phải thân quyến đem cho nhiều y yêu cầu tùy ý nhận, tỳ kheo ấy nên biết đủ
mà nhận y, nếu nhận quá, ni tát kỳ ba dật đề.
8. Tỳ kheo
nào, có cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến vì tỳ kheo để dành tiền sắm y,
nghĩ rằng: ‘Mua y như thế cho tỳ kheo có tên như thế’. Tỳ kheo ấy, trước không
được yêu cầu tùy ý mà đi đến nhà cư sĩ, nói như vầy: lành thay, cư sĩ, nên vì
tôi mua y như vậy, như vậy cho tôi, vì muốn đẹp, nếu nhận được y, ni tát kỳ ba
dật đề.
9. Tỳ kheo
nào, có hai cư sĩ hay vợ cư sĩ để dành tiền sắm y cho tỳ kheo, đều nghĩ rằng:
‘Mang tiền sắm y như thế để mua y như thế, cho tỳ kheo có tên như thế. Tỳ kheo
ấy, trước chưa nhận được sự yêu cầu tùy ý của hai nhà cư sĩ, mà đi đến hai nhà
cư sĩ, nói như vầy: ‘Lành thay dành số tiền may y như thế cho tôi, hãy chung lại
làm một y, vì muốn đẹp, nếu nhận được y, ni tát tát kỳ ba dật đề.
10. Tỳ kheo
nào, vua hoặc đại thần, hoặc bà la môn hoặc cư sĩ hay vợ cư sĩ, sai sứ mang tiền
đến tỳ kheo nói rằng: ‘Cần số tiền như thế sắm y cho tỳ kheo có tên như thế’.
Người ấy đến chỗ tỳ kheo nói với tỳ kheo: ‘Đại đức, nay tiền sắm y này được gởi
đến ngài, ngài hãy nhận’. Tỳ kheo ấy có thể nói với sứ giả nầy rằng: ‘Tôi không
được phép nhận tiền may y này. Khi nào cần y hợp thời và thanh tịnh, tôi sẽ
nhận’. Người sứ này có thể hỏi tỳ kheo rằng ‘Đại đức có người chấp sự không?’ Tỳ
kheo cần y có thể chỉ một tịnh nhân tăng già lam, hoặc một ưu bà tắc, nói rằng:
‘Đó là người chấp sự của tỳ kheo, thường chấp sự cho các tỳ kheo’. Bấy giờ người
ấy tự đi đến chỗ người chấp sự trao tiền sắm y rồi trở lại chỗ tỳ kheo nói như
vầy: ‘Đại đức, tôi đã trao tiền sắm y cho người chấp sự mà ngài chỉ. Đại đức khi
nào cần, hãy đến người ấy sẽ được y’. Tỳ kheo cần y sẽ đi đến chỗ người chấp sự,
hoặc hai hoặc ba lần khiến cho nhớ lại bằng cách nói rằng: ‘Tôi cần y’. Hoặc hai
hoặc ba lần khiến nhớ lại, nếu được y thì tốt, bằng không được y thì lần thứ tư,
thứ năm, lần thứ sáu, đứng im lặng trước người ấy, được y thì tốt, bằng không
được y mà cố cầu quá số lần ấy, nếu được y, ni tát kỳ ba dật đề. Nếu không được
y, tự mình hoặc sai người đến chỗ đưa tiền sắm y nói rằng: ‘Ngài trước sai người
cầm tiền sắm y cho tỳ kheo tên như vậy. Tỳ kheo ấy cuối cùng không được y. Ngài
hãy lấy lại, đừng để mất’. Như vậy là hợp thức.
11. Tỳ kheo
nào trộm tơ tằm sống làm ngọa cụ mới, ni tát kỳ ba dật đề.
12. Tỳ kheo
nào, làm ngọa cụ mới bằng lông dê toàn đen, ni tát kỳ ba dật đề.
13. Tỳ kheo
nào, làm ngọa cụ mới phải dùng hai phần lông dê toàn đen, phần thứ ba trắng,
phần thứ tư xám. Nếu tỳ kheo không dùng hai phần đen, thứ ba trắng, phần thứ tư
xám làm ngọa cụ mới, ni tát kỳ ba dật đề.
14. Tỳ kheo
nào, làm ngọa cụ mới phải trì sáu năm; chưa đủ sáu năm, không xả mà làm thêm cái
mới, trừ tăng kiết ma, ni tát kỳ ba dật đề.
15. Tỳ kheo
nào, làm tọa cụ mới, phải lấy một miếng của cái cũ vuông vức một gang tay đắp
lên cái mới để cho hoại sắc. Nếu tỳ kheo làm tọa cụ mới không lấy một miếng của
cái cũ vuông vức một gang tay đắp lên cái mới để cho hoại sắc, ni tát kỳ ba dật
đề.
16. Tỳ kheo
nào, khi đi đường gặp lông dê, nếu cần dùng, không có người cầm, được phép tự
cầm đi cho ba do tuần. Nếu không có người cầm, tự mình cầm đi quá ba do tuần, ni
tát kỳ ba dật đề.
17. Tỳ kheo
nào, sai tỳ kheo ni không phải thân quyến giặt, nhuộm hay chải lông dê, ni tát
kỳ ba dật đề.
18. Tỳ kheo
nào, tự tay cầm tiền, hoặc vàng bạc, hoặc người cầm, hoặc để xuống đất mà nhận,
ni tát kỳ ba dật đề.
19. Tỳ kheo
nào, đổi chác bảo vật dưới mọi hình thức, ni tát kỳ ba dật đề.
20. Tỳ kheo
nào, buôn bán dưới mọi hình thức, ni tát kỳ ba dật đề.
21. Tỳ kheo
nào, chứa bát dư không tịnh thí, được phép chứa trong hạn mười ngày, quá hạn, ni
tát kỳ ba dật đề.
22. Tỳ kheo
nào, có bát rạn nứt dưới năm chỗ không chảy rỉ lại tìm xin bát mới, vì muốn đẹp,
ni tát kỳ ba dật đề. Tỳ kheo ấy phải đến giữa Tăng mà xả. Tăng lần lượt đổi, lấy
bát xấu nhất đưa cho, khiến trì cho đến vỡ. Như vậy là hợp thức.
23. Tỳ kheo
nào, tự mình xin chỉ sợi, khiến thợ dệt không phải thân quyến dệt làm ba y, ni
tát kỳ ba dật đề.
24. Tỳ kheo
nào, có cư sĩ hay vợ cư sĩ khiến thợ dệt vì tỳ kheo dệt làm ba y. Tỳ kheo kia,
trước chưa được yêu cầu tùy ý, liền đến chỗ thợ dệt nói rằng: ‘Y này vốn làm cho
tôi. Hãy dệt thật khéo, khiến cho rộng lớn bền chắc, tôi sẽ cho người ít nhiều
tiền’. Tỳ kheo ấy cho tiền, dù chỉ đáng giá bằng một bữa ăn, nếu được y, ni tát
kỳ ba dật đề.
25. Tỳ kheo
nào, trước cho người khác y, sau vì giận hờn, tự mình đoạt hay sai người đoạt
lấy, nói rằng: ‘Hãy trả lại tôi, tôi không cho ngài’. Nếu tỳ kheo kia trả y, tỳ
kheo này nhận lấy, ni tát kỳ ba dật đề.
26. Tỳ kheo
nào có bệnh, các loại thuốc dài hạn như tô, dầu, sanh tô, mật ong, thạch mật,
trong thời hạn bảy ngày được phép dùng, nếu quá bảy ngày còn dùng, ni tát kỳ ba
dật đề.
27. Tỳ kheo
nào, xuân còn một tháng, có thể xin áo tắm mưa, còn lại nửa tháng, có thể dùng
tắm. Nếu tỳ kheo quá trước một tháng xin áo tắm mưa, quá trước nửa tháng dùng
tắm, ni tát kỳ ba dật đề.
28. Tỳ kheo
nào, còn mười ngày nữa mới hết ba tháng hạ, các tỳ kheo được y cấp thí, tỳ kheo
biết đó là y cấp thí, có thể thọ nhận, thọ xong, có thể chứa cho đến thời của y,
nếu chứa quá hạn, ni tát kỳ ba dật đề.
29. Tỳ kheo
nào, hạ ba tháng đã hết, một tháng hậu ca đề cũng mãn, sống tại a lan nhã, ở chỗ
có nghi ngờ, có sợ hãi, tỳ kheo sống tại trú xứ như thế, trong ba y, có thể lưu
một y để lại trong nhà dân, các tỳ kheo có nhân duyên được lìa y, ngủ cho đến
sáu đêm, nếu quá, ni tát kỳ ba dật đề.
30. Tỳ kheo
nào, biết đó là một vật thuộc Tăng mà tự xoay về cho mình, ni tát kỳ ba dật đề.
Nay hỏi các
Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần)
Các Đại đức
trong đây thanh tịnh. Vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.
CHƯƠNG NĂM
BA DẬT ĐỀ
Thưa các Đại
đức, đây là chín mươi pháp ba dật đề, xuất từ Giới kinh, nửa tháng tụng một lần.
1. Tỳ kheo
nào, cố ý nói dối, ba dật đề.
2. Tỳ kheo
nào, nói lời nhục mạ bằng các chủng loại, ba dật đề.
3. Tỳ kheo
nào, nói hai lưỡi, ba dật đề.
4. Tỳ kheo
nào, ngủ cùng nhà với phụ nữ, ba dật đề.
5. Tỳ kheo
nào, ngủ cùng phòng với người chưa thọ đại giới quá hai đêm, ba dật đề.
6. Tỳ kheo
nào, cùng tụng đọc với người chưa thọ đại giới, ba dật đề.
7. Tỳ kheo
nào, biết vị khác có tội thô ác, đem nói với người chưa thọ đại giới, trừ Tăng
kiết ma, ba dật đề.
8. Tỳ kheo
nào, nói pháp thượng nhân với người thọ cụ túc giới rằng: ‘Tôi thấy thế, tôi
biết thế’, nếu lời ấy là sự thật, ba dật đề.
9. Tỳ kheo
nào, thuyết pháp cho một người nữ quá năm, sáu lần (lời), trừ phi có mặt người
nam có trí, ba dật đề.
10. Tỳ kheo
nào, tự tay đào đất hoặc bảo người đào, ba dật đề.
11. Tỳ kheo
nào, phá hoại cây cỏ, ba dật đề.
12. Tỳ kheo
nào, cố ý nói quanh làm phiền Tăng, ba dật đề.
13. Tỳ kheo
nào, biếm nhẻ (tri sự tăng), ba dật đề.
14. Tỳ kheo
nào, lấy giường nằm, ghế ngồi hoặc ngọa cụ, đệm ngồi của tăng bày ra chỗ đất
trống, hoặc khiến người bày, rồi bỏ đi không tự mình cất, không khiến người cất,
ba dật đề.
15. Tỳ kheo
nào, ở trong phòng của tăng, trải ngọa cụ của tăng, tự mình trải hay khiến người
trải, hoặc ngồi hoặc nằm, khi đi, không tự mình cất, không khiến người cất, ba
dật đề.
16. Tỳ kheo
nào, biết là trú xứ của tỳ kheo đến trước, mình đến sau, chen vào giữa trải ngọa
cụ ngủ, với ý nghĩ rằng: ‘Vị ấy nếu hiềm chật sẽ tự lánh ta mà bỏ đi’ làm với
nhân duyên này chứ không gì khác, không phải oai nghi khác, ba dật đề.
17. Tỳ kheo
nào, giận hờn, không ưa tỳ kheo khác, tự mình lôi kéo ra khỏi tăng phòng, hay
khiến người khác lôi ra, ba dật đề.
18. Tỳ kheo
nào, hoặc tại tăng phòng, hoặc trên tầng gác, nằm hay ngồi trên giường ghế bằng
chân lắp, ba dật đề.
19. Tỳ kheo
nào, biết nước có trùng, hoặc tự mình tưới lên cỏ trơn đất bùn, hoặc khiến người
tưới, ba dật đề.
20. Tỳ kheo
nào, làm tịnh xá lớn, có cửa cánh cửa sổ và các thức trang sức khác, chỉ bảo
người lợp tranh chừng hai ba lớp, nếu quá, ba dật đề.
21. Tỳ kheo
nào, không được tăng sai mà giáo thọ tỳ kheo ni, ba dật đề.
22. Tỳ kheo
nào, được tăng sai, nhưng giáo thọ tỳ kheo ni cho đến mặt trời lặn, ba dật đề.
23. Tỳ kheo
nào, nói với các tỳ kheo như vầy: ‘Tỳ kheo vì sự ăn uống mà giáo thọ tỳ kheo
ni’, ba dật đề.
24. Tỳ kheo
nào, cho y tỳ kheo ni không phải thân quyến, trừ trao đổi, ba dật đề.
25. Tỳ kheo
nào, may y cho tỳ kheo ni không phải thân quyến, ba dật đề.
26. Tỳ kheo
nào, ngồi với tỳ kheo ni ở chỗ kín đáo, ba dật đề.
27. Tỳ kheo
nào, cùng với tỳ kheo ni đi chung một đường, từ một xóm đến một xóm, trừ trường
hợp đặc biệt, ba dật đề. Trường hợp đặc biệt là cùng đi với khách buôn, hoặc
nghi ngờ có nguy hiểm. Đây gọi là trường hợp đặc biệt.
28. Tỳ kheo
nào, cùng với tỳ kheo ni hẹn đi chung một thuyền, đi ngược dòng hay xuôi dòng,
trừ qua đò ngang, ba dật đề.
29. Tỳ kheo
nào, ăn đồ ăn mà biết là có được do sự tán thán, giáo hóa của tỳ kheo ni, trừ
đàn việt có ý trước, ba dật đề.
30. Tỳ kheo
nào, cùng với phụ nữ hẹn cùng đi chung một đường, dù chỉ trong quãng xóm, ba dật
đề.
31. Tỳ kheo
nào, tại phước xá cúng một bữa, tỳ kheo không bịnh chỉ nên ăn một lần, nếu thọ
nhận quá, ba dật đề.
32. Tỳ kheo
nào, ăn nhiều lần, trừ các trường hợp khác, ba dật đề.Các trường hợp khác là khi
bệnh, khi cúng y. Đây gọi là trường hợp khác.
33. Tỳ kheo
nào, ăn biệt chúng, trừ các trường hợp khác, ba dật đề. Các trường hợp khác là
khi bệnh, khi làm y, khi cúng y, khi đi đường, khi đi thuyền, khi đại chúng tập
hội, khi sa môn mới ăn. Đây gọi là các trường hợp khác.
34. Tỳ kheo
nào, đi đến nhà bạch y, họ dâng cho tỳ kheo bánh, hoặc bột, hoặc cơm, nếu cần
dùng, nên thọ hai hoặc ba bát, trở về trong tăng già lam nên chia cho các tỳ
kheo khác. Nếu tỳ kheo không bịnh, thọ lãnh quá hai ba bát, mang về trong tăng
già lam, không chia cho các tỳ kheo khác, ba dật đề.
35. Tỳ kheo
nào, ăn đã đủ, hoặc khi được mời thêm, không làm pháp dư thực mà ăn nữa, ba dật
đề.
36. Tỳ kheo
nào, biết tỳ kheo kia ăn đã đủ, nếu được mời thêm, không làm phép dư thực mà ân
cần mời vị kia ăn, nói rằng: ‘Trưởng lão, hãy dùng món ăn nầy’ chỉ với mục đích
này chứ không gì khác, tức là muốn người khác phạm, ba dật đề.
37. Tỳ kheo
nào, ăn phi thời, ba dật đề.
38. Tỳ kheo
nào, ăn thức ăn cách đêm, ba dật đề.
39. Tỳ kheo
nào, đưa vào miệng thức ăn hoặc thuốc không được mời, trừ nước và tăm, ba dật
đề.
40. Các thứ
ẩm thực mỹ vị như sữa, lạc, cá và thịt, tỳ kheo nào không bịnh mà xin những thứ
ẩm thực mỹ vị ấy cho mình, ba dật đề.
41. Tỳ kheo
nào, tự tay cho thức ăn đến nam ngoại đạo, nữ ngoại đạo, ba dật đề.
42. Tỳ kheo
nào, trước đã nhận lời mời, nhưng trước hay sau bữa ăn đi đến nhà khác mà không
báo cho tỳ kheo khác biết, trừ trường hợp đặc biệt, ba dật đề. Trường hợp đặc
biệt là khi bịnh, thời gian làm y, thời gian thí y. Đây là trường hợp đặc biệt.
43. Tỳ kheo
nào, trong nhà mình thọ thực có vật báu mà cố nén ngồi, ba dật đề.
44. Tỳ kheo
nào, trong nhà mình thọ thực có vật báu mà ngồi ở chỗ kín, ba dật đề.
45. Tỳ kheo
nào, một mình ngồi với một người nữ tại chỗ trống, ba dật đề.
46. Tỳ kheo
nào, nói với tỳ kheo khác như vầy: ‘Đại đức hãy cùng tôi đi đến xóm ấy, tôi sẽ
cho thức ăn đến ngài’. Tỳ kheo ấy rốt lại không khiến cho thức ăn đến tỳ kheo
kia, lại nói rằng: ‘Ngài hãy đi chỗ khác. Tôi không tích nói chuyện hay ngồi một
chỗ với ngài. Tôi thích ngồi một mình, nói chuyện một mình’ chỉ với mục đích ấy
chứ không gì khác là cố tình đuổi đi, ba dật đề.
47. Tỳ kheo
được thỉnh cầu thọ nhận thuốc bốn tháng. Tỳ kheo không bệnh có thể nhận, nếu quá
hạn mà nhận, trừ có sự thỉnh thường xuyên, thỉnh thêm nữa, thỉnh phần riêng,
thỉnh suốt đời, ba dật đề.
48. Tỳ kheo
nào, đi xem quân đội bố trận, ba dật đề, trừ có nhân duyên hợp thời.
49. Tỳ kheo
nào, có nhân duyên được phép đến trong quân đội ngủ lại hai đêm, ba đêm, nếu
quá, ba dật đề.
50. Tỳ kheo
nào, ở trong quân đội hai đêm, ba đêm, hoặc đi xem quân đội bố trận, chiến đấu,
hoặc xem thế lực quân đội, quân voi, quân ngựa (diễn tập), ba dật đề.
51. Tỳ kheo
nào, uống rượu, ba dật đề.
52. Tỳ kheo
nào, đùa giỡn trong nước, ba dật đề.
53. Tỳ kheo
nào, lấy ngón tay thọc léc người khác, ba dật đề.
54. Tỳ kheo
nào, không nhận lời can gián, ba dật đề.
55. Tỳ kheo
nào, dọa tỳ kheo khác, ba dật đề.
56. Tỳ kheo
nào, nửa tháng tắm một lần, tỳ kheo không bịnh nên thọ, nếu quá, trừ trường hợp
đặc biệt, ba dật đề. Trường hợp đặc biệt là thời tiết nóng, khi bịnh, khi lao
tác, khi gió và mưa, khi đi đường. Đó là các trường hợp đặc biệt.
57. Tỳ kheo
không bịnh, để sưởi ấm, tự mình đốt lửa tại đất trống, hoặc bảo người đốt, trừ
có nhân duyên, ba dật đề.
58. Tỳ kheo
nào, giấu y bát, tọa cụ, ống đựng kim của tỳ kheo khác, tự mình giấu hoặc bảo
người giấu, dù chỉ giỡn chơi, ba dật đề.
59. Tỳ kheo
nào, đã cho y cho tỳ kheo, tỳ kheo ni, thức xoa ma na, sa di, sa di ni, về sau
không nói với chủ, lấy lại mà mặc, ba dật đề.
60. Tỳ kheo
nào, được y mới tùy ý dùng một trong ba màu hoặc là xanh, hoặc đen, hoặc mộc lan
làm cho hoại sắc, nếu không làm hoại sắc mà mặc nguyên mới, ba dật đề.
61. Tỳ kheo
nào, cố ý giết chết mạng sống súc sanh, ba dật đề.
62. Tỳ kheo
nào, biết nước có trùng mà uống hoặc dùng, ba dật đề.
63. Tỳ kheo
nào, cố ý gây phiền muộn các tỳ kheo khác, khiến cho không vui dù chỉ trong chốc
lát, ba dật đề.
64. Tỳ kheo
nào, biết tỳ kheo khác phạm thô tội mà cố ý che giấu, ba dật đề.
65. Người
tuổi đủ hai mươi nên cho thọ đại giới, nếu tỳ kheo biết người chưa đủ tuổi hai
mươi mà cho thọ đại giới, người ấy không đắc giới, tỳ kheo ấy đáng bị khiển
trách, vì ngu si, ba dật đề.
66. Tỳ kheo
nào, biết tránh sự đã được như pháp giải quyết rồi, sau đó lại khơi dậy, ba dật
đề.
67. Tỳ kheo
nào, biết đó là đồng bọn giặc cướp, mà giao hẹn cùng đi chung một đường, dù chỉ
trong khoảng một xóm đến một xóm, ba dật đề.
68. Tỳ kheo
nào, nói như vầy: ‘Tôi biết rằng, theo pháp mà Phật dạy, hành dâm dục không phải
là pháp chướng đạo’. Các tỳ kheo kia nên can gián tỳ kheo này rằng: ‘Đại đức chớ
nói như vầy, chớ xuyên tạc Thế Tôn, xuyên tạc Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn
không nói như vậy. Thế Tôn bằng vô số phương tiện nói rằng phạm dâm dục là pháp
chướng đạo’. Khi các tỳ kheo can gián, tỳ kheo này vẫn kiên trì không bỏ. Các tỳ
kheo can gián đến ba lần cho bỏ sự ấy. Sau ba lần can gián, bỏ thì tốt, nếu
không bỏ, ba dật đề.
69. Tỳ kheo
nào, biết người nói lời như thế chưa được tác pháp (giải), tà kiến như thế chưa
bỏ, lại cung cấp nhu yếu, cùng kiết ma, cùng ngủ, cùng nói chuyện, ba dật đề.
70. Tỳ kheo
nào, biết sa di nói như vầy: ‘Tôi nghe pháp tử đức Phật nói rằng: hành dâm dục
không phải là pháp chướng đạo’. Các tỳ kheo nên can gián sa di ấy như vầy:
‘Người chớ xuyên tạc Thế tôn, xuyên tạc Thế tôn là không tốt. Thế tôn không nói
như vậy. Này sa di, Thế tôn bằng vô số phương tiện nói rằng hành dâm là pháp
chướng đạo’ Khi các tỳ kheo can gián sa di ấy, mà kiên trì không bỏ, thì các tỳ
kheo phải can gián ba lần cho bỏ sự ấy. Cho đến ba lần can gián mà bỏ thì tốt,
nếu không bỏ, các tỳ kheo nên nói với sa di ấy rằng: ‘Ngươi từ nay trở đi hãy đi
khỏi đây, không được nói rằng đức Phật là Thế tôn của tôi. Không được đi theo
các tỳ kheo khác. Như các sa di được phép ngủ hai, ba đêm cùng với các tỳ kheo,
nhưng ngươi nay không có sự kiện ấy. Ngươi hãy ra khỏi đây, hãy đi khuất chỗ
này, không được sống ở đây nữa’. Nếu tỳ kheo biết sa di đã bị đuổi giữa chúng
như vậy, mà dụ đem về nuôi dưỡng, cùng ngủ chung, ba dật đề.
71. Tỳ kheo
nào, khi được các tỳ kheo như pháp can gián lại nói rằng: ‘Thưa Đại đức, tôi nay
không học điều giới này, trừ khi tôi hỏi vị tỳ kheo trì luật có trí khác’, ba
dật đề. Nếu muốn biết, muốn học thì nên hỏi.
72. Tỳ kheo
nào, khi tụng giới nói như vầy: ‘Đại đức, nói những giới vụn vặt ấy có ích lợi
gì? Khi nói giới ấy chỉ làm cho người ta phiền muộn, xấu hổ, hoài nghi, vì coi
nhẹ và chê bai giới, ba dật đề.
73. Tỳ kheo
nào, khi tụng giới nói như vầy: ‘Nay tôi mới biết pháp này ghi trong giới kinh,
mỗi nửa tháng tụng một lần, xuất từ giới kinh’. Các tỳ kheo khác biết tỳ kheo
này đã từng ngồi dự tụng giới hoặc hai hoặc ba lần, huống nữa là nhiều lần. Tỳ
kheo ấy vì không biết nên không tránh khỏi tội, nếu có phạm tội, thì phải được
xử trị như pháp, rồi lại chồng thêm tội không hiểu biết, rằng : ‘Trưởng lão,
thật không ích lợi gì cho ngài, không có sở đắc tốt đẹp gì cho ngài, vì trong
khi tụng giới ngài không dụng tâm, không nhất niệm lắng tai nghe pháp’, vị ấy vì
không hiểu biết, ba dật đề.
74. Tỳ kheo
nào, sau khi đã cùng chung yết ma lại nói như vầy: ‘Các tỳ kheo theo chỗ thân
cận mà cho vật của tăng’, ba dật đề.
75. Tỳ kheo
nào, khi chúng tăng giải quyết sự việc chưa xong, không dữ dục mà đứng dậy bỏ
đi, ba dật đề.
76. Tỳ kheo
nào, đã dữ dục, sau đó tỏ sự bất bình, ba dật đề.
77. Tỳ kheo
nào, sau khi hai tỳ kheo tranh cãi nhau, nghe lời người này đem nói với người
kia, ba dật đề.
78. Tỳ kheo
nào, vì giận hờn, không hoan hỷ, đánh tỳ kheo khác, ba dật đề.
79. Tỳ kheo
nào, vì giận hờn, không hoan hỷ, hoa tay đánh tỳ kheo khác, ba dật đề.
80. Tỳ kheo
nào, vì giận hờn, vu khống tỳ kheo khác bằng pháp tăng già ba thi sa không căn
cứ, ba dật đề.
81. Tỳ kheo
nào, khi nhà vua quán đảnh thuộc dòng Sát đế lị chưa ra khỏi (chỗ ngủ), khi bảo
vật chưa được thu cất mà vào cung vua, bước qua khỏi ngạch cửa, ba dật đề.
82. Tỳ kheo
nào, tự mình cầm nắm bảo vật hay đồ trang sức bằng bảo vật, hoặc bảo người cầm
nắm, trừ ở trong tăng già lam hay chỗ ký túc, ba dật đề. Nếu tùy theo khi ở
trong tăng già lam hay chỗ ký túc mà tự mình cầm nắm bảo vật hay đồ trang sức
bằng bảo vật hoặc bảo người cầm, nên nghĩ như vầy: ‘Nếu sở hữu chủ nhận ra sẽ
lấy lại’. Chỉ với nhân duyên ấy chứ không gì khác.
83. Tỳ kheo
nào, vào xóm phi thời mà không báo cho tỳ kheo khác biết, ba dật đề.
84. Tỳ kheo
làm giường hoặc ghế, chân phải cao bằng tám ngón tay của Như lai, đã trừ phần từ
lỗ mộng để ráp thành giường trở lên, nếu quá, ba dật đề, phải cắt bỏ.
85. Tỳ kheo
nào, dùng bông đâu la dồn làm nệm lớn, nệm nhỏ lót giường, ghế, dồn thành, ba
dật đề.
86. Tỳ kheo
nào, dùng cương, ngà, sừng làm ống đựng kim, khoét và đục thành, ba dật đề.
87. Tỳ kheo
nào, làm ni sư đàn, cần phải đúng lượng. Trong đây đúng lượng là dài hai gang
tay và rộng một gang rưỡi tay phật, rồi thêm dài và rộng nửa gang nữa làm lề,
nếu quá, ba dật đề, phải cắt bỏ.
88. Tỳ kheo
làm y che ghẻ, cần phải làm đúng lượng. Trong đây đúng lượng là bề dài bốn gang
và rộng hai gang tay Phật, nếu quá, ba dật đề, phải cắt bỏ.
89. Tỳ kheo
làm y tắm mưa, cần phải làm đúng lượng. Trong đây đúng lượng là bề dài sáu gang
và rộng hai gang tay Phật, nếu quá, ba dật đề, phải cắt bỏ.
90. Tỳ kheo
nào may y bằng lượng y của Như lai, hoặc may quá lượng ấy, ba dật đề. Trong đây,
lượng y của Như lai là dài mười gang và rộng sáu gang tay Phật. Đây gọi là lượng
y của Như lai.
Thưa các Đại
đức, tôi đã tụng xong chín mươi pháp ba dật đề.
Nay hỏi các
Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần).
Các Đại đức
trong đây thanh tịnh. Vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.
CHƯƠNG SÁU
BA LA ĐỀ ĐỀ XÁ NI
Thưa các Đại
đức, đây là bốn pháp ba la đề đề xá ni xuất từ Giới kinh, mỗi nửa tháng tụng một
lần.
1. Tỳ kheo
vào thôn xóm, nếu không bịnh mà tự tay nhận thức ăn từ tỳ kheo ni không phải
thân quyến, và ăn, tỳ kheo ấy cần phải đối trước tỳ kheo khác mà phát lộ rằng:
‘Bạch Đại đức, tôi phạm pháp đáng khiển trách, làm điều không đáng làm. Nay đối
trước Đại đức xin phát lộ sám hối’. Đây gọi là pháp hối quá.
2. Tỳ kheo ăn
trong nhà bạch y, trong đó có một tỳ kheo ni chỉ bảo rằng: ‘Mang canh cho vị
này, dâng cơm cho vị kia’. Tỳ kheo nên nói với tỳ kheo ni ấy rằng: ‘Này sư cô,
hãy thôi. Hãy để yên các tỳ kheo thọ thực’. Nếu không có tỳ kheo nào nói với tỳ
kheo ni ấy rằng: ‘Này sư cô, hãy thôi. Hãy để yên các tỳ kheo thọ thực’. Tỳ kheo
ấy cần phải phát lộ rằng: ‘Bạch Đại đức, tôi phạm pháp đáng khiển trách, làm
điều không đáng làm. Nay tôi đối trước Đại đức xin phát lộ sám hối’. Đây gọi là
pháp hối quá.
3. Có các gia
đình mà Tăng trước đã tác pháp kiết ma học gia, tỳ kheo nào biết đó là học gia,
trước không được thỉnh, lại không bịnh, tự tay nhận thức ăn và ăn, tỳ kheo ấy
cần đối trước tỳ kheo khác phát lộ rằng: ‘Tôi phạm pháp đáng khiển trách, làm
điều không đáng làm. Nay tôi đối trước Đại đức xin phát lộ sám hối’. Đây gọi là
pháp hối quá.
4. Tỳ kheo ở
tại a lan nhã xa xôi, có nghi ngờ, đáng sợ hãi, tỳ kheo nào sống tại a lan nhã
như vậy, trước không nói cho đàn việt biết, nếu không thọ nhận thức ăn bên ngoài
tăng già lam, trái lại, không bịnh mà ở bên trong tăng già lam tự tay nhận thức
ăn thì cần phải đối trước tỳ kheo khác mà phát lộ rằng: ‘Bạch Đại đức tôi phạm
pháp đáng khiển trách, làm điều không đáng làm. Nay tôi đối trước Đại đức xin
phát lộ sám hối’. Đây gọi là pháp hối quá.
Thưa các Đại
đức, tôi đã tụng xong bốn pháp ba la đề đề xá ni.
Nay hỏi các
Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần).
Các Đại đức
trong đây thanh tịnh. Vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.
CHƯƠNG BẢY
PHÁP CHÚNG HỌC
Thưa các Đại
đức, đây là một trăm pháp chúng học xuất từ Giới kinh, mỗi nửa tháng tụng một
lần.
1. Phải bận
niết bàn tăng cho tề chỉnh, cần phải học.
2. Phải khoác
ba y cho tề chỉnh, cần phải học.
3. Không nên
vắt ngược y khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.
4. Không nên
vắt ngược y khi ở trong nhà bạch y, cần phải học.
5. Không nên
quấn y nơi cổ khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.
6. Không nên
quấn y nơi cổ khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.
7. Không nên
trùm đầu khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.
8. Không nên
trùm đầu khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.
9. Không nên
nhảy nhót khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.
10. Không nên
nhảy nhót khi ở trong nhà bạch y, cần phải học.
11. Không nên
ngồi chồm hổm trong nhà bạch y, cần phải học.
12. Không nên
chống nạnh khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.
13. Không nên
chống nạnh khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.
14. Không nên
uốn éo thân mình khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.
15. Không nên
uốn éo thân mình khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.
16. Không nên
đánh đồng xa khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.
17. Không nên
đánh đồng xa khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.
18. Phải trùm
kín thân thể khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.
19. Phải trùm
kín thân thể khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.
20. Không nên
nhìn ngắm ngang dọc khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.
21. Không nên
nhìn ngắm ngang dọc khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.
22. Phải khẽ
tiếng khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.
23. Phải khẽ
tiếng khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.
24. Không
được cười cợt khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.
25. Không
được cười cợt khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.
26. Phải dụng
ý khi thọ nhận thức ăn, cần phải học.
27. Thọ nhận
thức ăn vừa ngang bát, cần phải học.
28. Thọ nhận
canh vừa ngang bát, cần phải học.
29. Ăn cơm và
canh đồng đều, cần phải học.
30. Theo thứ
lớp mà ăn, cần phải học.
31. Không nên
moi giữa bát mà ăn, cần phải học.
32. Tỳ kheo
không bịnh, không được vì mình yêu sách cơm canh, cần phải học.
33. Không nên
dùng cơm che lâáp canh để mong được thêm, cần phải học.
34. Không nên
liếc nhìn vào trong bát người ngồi cạnh sanh hiềm tâm, cần phải học.
35. Phải chú
tâm vào bát mà ăn, cần phải học.
36. Không nên
ăn vớt cơm lớn, cần phải học.
37. Không nên
há miệng lớn đợi cơm mà ăn, cần phải học.
38. Không nên
ngậm cơm mà nói, cần phải học.
39. Không nên
vắt cơm thảy vào trong miệng, cần phải học.
40. Không nên
ăn cơm rơi rớt, cần phải học.
41. Không nên
búng má mà ăn, cần phải học.
42. Không nên
nhai cơm có tiếng khi ăn, cần phải học.
43. Không nên
hớp canh có tiếng mà ăn, cần phải học.
44. Không nên
lấy lưỡi liếm khi ăn, cần phải học.
45. Không nên
rảy tay khi ăn, cần phải học.
46. Không nên
dùng tay lượm cơm rời mà ăn, cần phải học.
47. Không nên
tay dơ cầm đồ đựng thức ăn, cần phải học.
48. Không nên
đổ nước rửa bát trong nhà bạch y, cần phải học.
49. Không nên
đại tiểu tiện, hỷ, nhổ lên rau cỏ tươi, trừ bịnh, cần phải học.
50. Không
được đại tiểu tiện, hỷ, nhổ trong nước sạch, trừ bịnh, cần phải học.
51. Không nên
đứng mà đại tiểu tiện, trừ bịnh, cần phải học.
52. Không nên
thuyết pháp cho người vắt ngược áo không cung kính, trừ người bệnh, cần phải
học.
53. Không nên
thuyết pháp cho người quấn áo nơi cổ, trừ người bịnh, cần phải học.
54. Không nên
thuyết pháp cho người trùm đầu, trừ người bịnh, cần phải học.
55. Không nên
thuyết pháp cho người quấn khăn trên đầu, trừ người bịnh, cần phải học.
56. Không nên
thuyết pháp cho người chống nạnh, trừ người bịnh, cần phải học.
57. Không nên
thuyết pháp cho người mang dép da, trừ người bịnh, cần phải học.
58. Không nên
thuyết pháp cho người mang guốc gỗ, trừ người bịnh, cần phải học.
59. Không nên
thuyết pháp cho người ngồi trên ngựa, trừ người bịnh, cần phải học.
60. Không nên
ngủ nghỉ trong tháp Phật, trừ canh giữ, cần phải học.
61. Không
được chôn dấu tài vật trong tháp Phật, trừ muốn cho chắc chắn, cần phải học.
62. Không
được mang dép da vào tháp Phật, cần phải học.
63. Không
được tay cầm dép da đi vào tháp Phật, cần phải học.
64. Không
được mang dép da đi nhiều lần quanh tháp Phật, cần phải học.
65. Không
được mang giày phú la vào trong tháp Phật, cần phải học.
66. Không
được xách giày phú la vào trong tháp Phật, cần phải học.
67. Không
được ngồi dưới tháp mà ăn, lưu lại cỏ và thức ăn làm dơ đất, cần phải học.
68. Không
được khiêng tử thi đi qua dưới tháp, cần phải học.
69. Không
được chôn tử thi đi dưới tháp, cần phải học.
70. Không
được thiêu tử thi dưới tháp, cần phải học.
71. Không
được đối diện tháp thiêu tử thi, cần phải học.
72. Không
được thiêu tử quanh bốn phía tháp Phật, cần phải học.
73. Không
được mang áo và giường người chết đi qua dưới tháp Phật, cần phải học.
74. Không
được đại tiểu tiện dưới tháp Phật, cần phải học.
75. Không
được đại tiểu tiện đối diện tháp Phật, cần phải học.
76. Không
được đại tiểu tiện quanh bốn phía tháp Phật, cần phải học.
77. Không
được mang tượng Phật đến chỗ đại tiểu tiện, cần phải học.
78. Không
được nhăn nhành dương (đánh răng súc miệng) quanh bốn phía tháp Phật, cần phải
học.
79. Không
được nhăn nhành dương (đánh răng súc miệng) đối diện tháp Phật, cần phải học.
80. Không
được nhăn nhành dương (đánh răng súc miệng) quanh bốn phía tháp Phật, cần phải
học.
81. Không
được hiû nhổ trước tháp Phật, cần phải học.
82. Không
được hiû nhổ đối diện với tháp Phật, cần phải học.
83. Không
được hiû nhổ quanh bốn phía tháp Phật, cần phải học.
84. Không
được ngồi duỗi chân về phía tháp Phật, cần phải học.
85. Không đặt
(thờ) tháp (nhỏ) ở phòng dưới, mình ở trên, cần phải học.
86. Không nên
thuyết pháp cho người ngồi mà mình đứng, trừ người bịnh, cần phải học.
87. Không nên
thuyết pháp cho người nằm mà mình ngồi, trừ người bịnh, cần phải học.
88. Không nên
thuyết pháp cho người ngồi chính giữa còn mình ngồi một bên, cần phải học.
89. Không nên
thuyết pháp cho người ngồi chỗ cao còn mình ngồi chỗ thấp, trừ người bịnh, cần
phải học.
90. Không nên
thuyết pháp cho người đi phía trước còn mình đi phía sau, trừ người bịnh, cần
phải học.
91. Không nên
thuyết pháp cho người ở chỗ kinh hành cao còn mình ở chỗ kinh hành thấp, trừ
người bịnh, cần phải học.
92. Không nên
thuyết pháp cho người ở giữa đường còn mình ở bên đường, trừ người bịnh, cần
phải học.
93. Không nên
nắm tay khi đi đường, cần phải học.
94. Không nên
leo lên cây cao quá đầu người, trừ khi có nhân duyên, cần phải học.
95. Không
được để bình bát vào trong đãy, xỏ vào đầu gậy quảy trên vai mà đi, cần phải
học.
96. Không nên
thuyết pháp cho người cầm gậy, không cung kính, trừ người bệnh, cần phải học.
97. Không
được thuyết pháp cho người cầm gươm, trừ người bịnh, cần phải học.
98. Không nên
thuyết pháp cho người cầm mấu, trừ người bịnh, cần phải học.
99. Không
được thuyết pháp cho người cầm dao, trừ người bịnh, cần phải học.
100. Không
nên thuyết pháp cho người cầm dù, trừ người bịnh, cần phải học.
Thưa các Đại
đức, tôi đã tụng xong một trăm pháp chúng học.
Nay hỏi các
Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần).
Các Đại đức
trong đây thanh tịnh. Vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.
CHƯƠNG TÁM
PHÁP DIỆT TRÁNH
Thưa các Đại
đức, đây là bảy pháp diệt tránh xuất từ Giới kinh, mỗi nửa tháng tụng một lần.
Nếu có tránh
sự nổi lên giữa các tỳ kheo, tức thì phải trừ diệt.
1. Cần giải
quyết bằng hiện tiền tỳ ni, phải giải quyết bằng hiện tiền tỳ ni.
2. Cần giải
quyết bằng ức niệm tỳ ni, phải giải quyết bằng ức niệm tỳ ni.
3. Cần giải
quyết bằng bất si tỳ ni, phải giải quyết bằng bất si tỳ ni.
4. Cần giải
quyết bằng tự ngôn trị, phải giải quyết bằng tự ngôn trị.
5. Cần giải
quyết bằng mích tội tướng, phải giải quyết bằng mích tội tướng.
6. Cần giải
quyết bằng đa nhân mích tội tướng, phải giải quyết bằng đa nhân mích tội tướng.
7. Cần giải
quyết như thảo phú địa, phải giải quyết như thảo phú địa.
Thưa các Đại
đức, tôi đã tụng xong bảy pháp diệt tránh.
Nay hỏi các
Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần).
Các Đại đức
trong đây thanh tịnh. Vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.
CHƯƠNG KẾT
I. KẾT
THUYẾT.
Thưa các Đại
đức, tôi đã tụng tựa của Giới kinh, đã tụng bốn pháp ba la di, đã tụng mười ba
pháp tăng già bà thi sa, đã tụng hai pháp bất định, đã tụng ba mươi pháp ni tát
kỳ ba dật đề, đã tụng chín mươi pháp ba dật đề, đã tụng bốn pháp ba la đề đề xá
ni, đã tụng các pháp chúng học, đã tụng bảy pháp diệt tránh. Đó là những điều
Phật đã thuyết, xuất từ Giới kinh, mỗi nửa tháng tụng một lần. Và còn có các
Phật pháp khác nữa, trong đây cần phải cùng hòa hiệp học tập.
II. THẤT
PHẬT GIỚI KINH.
1. Nhẫn : khổ hạnh bậc nhất.
Niết bàn : đạo tối
thượng.
Xuất gia, não hại
người,
Không xứng danh sa môn.
Đây là Giới
kinh mà đức Tỳ bà thi Như lai, bậc Vô sở trước, Đẳng chánh giác, đã giảng dạy.
2. Cũng như
người mắt sáng
Tránh khỏi lối hiểm
nghèo,
Bậc có trí trong đời
Tránh xa các xấu ác.
Đây là Giới
kinh mà đức Thi khí Như lai, bậc Vô sở trước, Đẳng chánh giác, đã giảng dạy.
3. Không báng
bổ, tật đố,
Vâng hành các học giới,
Ăn uống biết vừa đủ,
Thường ưa chỗ nhàn
tịnh,
Tâm định, vui tinh tấn.
Là lời chư Phật dạy.
Đây là Giới
kinh mà đức Tỳ diếp la Như lai, bậc Vô sở trước, Đẳng chánh giác, đã giảng dạy.
4. Như ong đến tìm hoa
Không hại sắc và hương
Chỉ hút nhụy rồi đi.
Vậy tỳ kheo vào xóm,
Không dòm ngó việc
người
Người làm hay không
làm,
Chỉ xét hành vi mình
Đoan chính không đoan
chính.
Đây là Giới
kinh mà đức Câu lưu tôn Như lai, bậc Vô sở trước, Đẳng chánh giác, đã giảng dạy.
5. Chớ để tâm buông lung,
Hãy cần học thánh pháp,
Như thế, dứt ưu sầu.
Tâm định, nhập niết
bàn.
Đây là Giới
kinh mà đức Câu na hàm Mâu ni Như lai, bậc Vô sở trước, Đẳng chánh giác, đã
giảng dạy.
6. Hết thảy ác chớ làm.
Hãy vâng hành các
thiện.
Tự lóng sạch tâm chí.
Là lời chư Phật dạy.
Đây là Giới
kinh mà đức Ca diếp Như lai, bậc Vô sở trước, Đẳng chánh giác, đã giảng dạy.
7. Khéo phòng
hộ lời nói,
Tâm chí, tự lắng trong,
Thân không làm các ác;
Thực hành được như thế,
Ba tịnh nghiệp đạo này
Là đạo đấng Đại tiên.
Đây là Giới
kinh mà đức Thích ca Mâu ni Như lai, bậc Vô sở trước, Đẳng chánh giác, đã giảng
dạy cho các tỳ kheo vô sự trong khoảng mười hai năm đầu. Từ đó về sau được phân
biệt rộng rãi. Các tỳ kheo tự mình hâm mộ chánh pháp, hâm mô sa môn hành, có tàm
có quý, hâm mộ học giới, hãy tu học ở trong đây.
III.
KHUYẾN GIỚI.
1. Kẻ trí khéo
hộ giới,
Sẽ được ba điều vui:
Danh thơm và lợi dưỡng’
Sau khi chết sanh
thiên.
2. Hãy quán
sát điều này:
Bậc trí siêng hộ giới,
Giới tịnh, sanh trí
huệ,
Thành tựu Đạo tối
thượng.
3. Như chư
Phật quá khứ,
Và chư Phật vị lai,
Các Thế tôn hiện tại,
Đấng chiến thắng khổ
đau,
Thảy đều tôn kính Giới.
Đấy là pháp chư Phật.
4. Nếu ai vì
tự thân
Mong cầu nơi Phật đạo
Hãy tôn trọng chánh
pháp
Đây là lời chư Phật
dạy.
5. Bảy đấng
Thế tôn phật,
Diệt trừ mọi kiết sử
Thuyết bảy Giới kinh
đây
Giải thoát các hệ
phược.
Các ngài đã niết bàn,
Các lý luận vắng bặt.
6. Các đệ tử
tuân hành
Lời dạy đấng Đại tiên.
Giới thánh hiền khen
ngợi,
Thảy đều nhập niết bàn.
7. Thế Tôn khi
niết bàn
Vâng khởi tâm đại bi
Họp các tỳ kheo chúng
Ban giáo Giới như vầy:
8. Chớ nghĩ ta
niết bàn
Không còn ai chăn dắt,
Giới kinh và Tỳ ni
Những điều ta dạy rõ,
Hãy xem đó như Phật.
Dù ta nhập niết bàn.
9. Giới kinh
này còn mãi,
Phật pháp còn sáng rỡ.
Do sự sáng rỡ ấy
Niết bàn được chứng
nhập.
10. Nếu không
trì giới này
Không bố tát như pháp
Khác gì mặt trời lặn
Thế giới thành tối tăm.
11. Hãy hộ trì
giới ấy,
Như trâu mao tiếc đuôi
Hòa hiệp ngồi một chỗ
Như lời Phật đã dạy.
12. Tôi đã
thuyết Giới kinh,
Chúng tăng bố tát xong.
13.Tôi nay
thuyết Giới kinh,
Công đức thuyết giới
này,
Nguyện ban khắp chúng
sanh,
Cùng trọn thành Phật
đạo.
--- o0o ---
Mục Lục Toàn Tập
Tập 1
|
1
|
2-0
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
Tập 2
|
7
|
8
|
9-1
|
9-2
|
9-3
|
9-4
|
9-5
|
9-6
|
9-7
|
9-8
|
10
Tập 3 |
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
|
20
--- o0o ---
Source:
www.phatviet.net
Vi tính: Nguyên Trang, Nhị Tường - Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-06-2004