NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2001
TOÀN TẬP
TÂM NHƯ TRÍ THỦ
--- o0o ---
TẬP 2
LUẬT TỲ
KHEO
YẾT MA YẾU CHỈ
Hòa thượng THÍCH TRÍ THỦ Soạn
CHƯƠNG BỐN
TRUYỀN
GIỚI THỌ GIỚI
(II)
Cũng như tỳ
kheo tăng, khi muốn độ người xuất gia cho đến truyền giới cụ túc, phải hội đủ
các đức tính của Hòa thượng, và phải được Tăng tác pháp yết ma cho phép. Các
nguyên tắc này cũng áp dụng đồng nhất cho tỳ kheo ni. Chỉ có điều khác biệt là,
trong khi tỳ kheo tăng phải đủ mười tuổi hạ mới được phép nuôi chúng và truyền
giới cụ túc, thì tỳ kheo ni phải đầy đủ mười hai hạ. Nếu không được ni chúng tác
pháp yết ma cho nuôi chúng, mà tỳ kheo ni nào tự ý thâu nhận đồ đệ cho thọ sa di
cho đến cụ túc thảy đều phạm ba dật đề.()
Dù tỳ kheo
ni đã đủ mười hai hạ, nhưng không được hằng năm độ người cho thọ cụ túc, mà phải
cách năm. Như vậy, cứ mỗi năm chỉ được cho một đệ tử thọ thức xoa ma na, và hai
năm cho một đệ tử thọ cụ túc.()
Tỳ kheo ni
nào sau khi ni tăng đã yết ma cho nuôi chúng, nhưng sau đó ni tăng nhận thấy vị
ấy thiếu sót bổn phận dạy dỗ, bèn tác pháp yết ma không cho nuôi chúng nữa, mà
nếu vẫn cứ tiếp tục nuôi chúng thì phạm ba dật đề.
Văn yết ma
cho tỳ kheo ni nuôi chúng:
Tỳ kheo ni
đã đủ các đức tính được phép thâu nhận đệ tử, phải đến trước ni tăng xin yết ma
cho nuôi chúng. Sau khi đảnh lễ ni tăng, tác bạch:
Đại
đức tăng, xin lắng nghe. con tỳ kheo ni… cầu xin ni tăng cho phép độ người xuất
gia thọ cụ túc. Ngưỡng mong tăng cho phép con, là tỳ kheo ni… được độ người thọ
cụ túc. (ba lần)
Ni chúng
nhận xét, nếu thấy tỳ kheo ni này chưa đủ khả năng dạy dỗ người, nên ngăn rằng:
"Thôi đi, đại tỷ không nên độ người.” Trái lại, nếu nhận xét thấy
đủ khả năng, thì tác bạch nhị yết ma cho phép. Vị tỳ kheo ni yết ma bạch:
Đại đức
tăng, xin lắng nghe. tỳ kheo ni… nay xin phép Tăng được độ người thọ giới cụ
túc. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay cho phép tỳ kheo ni… độ
người thọ giới cụ túc. Đây là lời tác bạch.
Đại
đức tăng, xin lắng nghe. tỳ kheo ni… nay xin phép Tăng được độ người thọ giới cụ
túc. Trưởng lão ni nào chấp thuận, nay cho phép tỳ kheo ni… độ người thọ giới cụ
túc, thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.
Tăng
đã chấp thuận cho tỳ kheo ni… độ người thọ giới cụ túc, vì im lăng. Tôi ghi nhận
như vậy.
Ý nghĩa của
việc thọ sa di ni và ngoại đạo cộng trú cũng giống như những điều đã được nói
trong phần thuộc tăng ở trên. Các nghi thức tác pháp yết ma cũng giống nhau, duy
thêm chữ "ni" vào những từ xưng hô cần thiết để phân biệt.
Tiếng Phạn
nói siksamànà, Hán âm là thức xoa ma na hay thức xoa ma na ni,
và dịch là chánh học, nghĩa là người nữ đang học tập các học xứ của tỳ
kheo ni.
Nguyên tắc
cơ bản là sa di ni trước khi thọ cụ túc để thành tỳ kheo ni phải có hai năm học
giới. học giới ở đây là học tập tất cả các học xứ của tỳ kheo ni, từ tám pháp ba
la di cho đến các pháp chúng học. Chỉ được phép học tập các giới tướng và các
hình thái phạm hay không phạm, chứ không được nghe tỳ kheo ni thuyết giới. Trong
các học xứ này, có sáu điều được trích là sáu học pháp đặc biệt. Sáu học pháp
này gồm:
1.
Không sát sinh;
2.
Không trộm cắp;
3.
Không dâm dục;
4.
Không nói dối;
5.
Không uống rượu;
6.
Không ăn phi thời.()
Bốn học
pháp đầu được phân biệt thành hai trường hợp khác nhau. Trường hợp thứ nhất,
trường hợp nghiêm trọng, tương đương với bốn ba la di đầu của tỳ kheo ni, nếu
phạm phải bị diệt tẩn. Ngoài ra, nếu giết hại súc vật, ăn cắp dưới mức tội ba la
di, bốn ba la di cuối của tỳ kheo ni, nói dối dưới mức tội ba la di, uống rượu
và ăn phi thời, nếu phạm các điều này mà bị phát hiện, hay tự mình phát lồ trong
ngày nào, thì ngay ngày đó phải thọ lại từ đầu, và lấy đây làm mốc cho hai năm
học giới, còn thời gian trước khi phạm hoàn toàn xóa bỏ.
Ngoài sáu
học pháp chính trên, còn có các học pháp phụ khác gọi là mười tám tùy pháp. Chi
tiết các điều này, hãy xem trong ni luật, ở đây không cần thiết phải nêu rõ.
Nói vắn
tắt, về sáu học pháp, trừ những trường hợp thuộc vào bốn ba la di đầu của luật
ni thì bị diệt tẩn, còn lại nếu phạm thì bị coi là khuyết giới và phải thọ học
giới lại từ đầu. Ngoài ra, các học xứ của ni, từ tăng tàn trở xuống, nếu vi
phạm, thảy đều được phép sám hối.
Về hạn tuổi
để thọ thức xoa ma na, theo luật Tứ phần ()
mà văn Hán dịch có thể nói như sau: "Thập tuế tằng giá, thập bát đồng nữ, các
nhị tuế học giới.” Về câu văn: Thập bát đồng nữ thì ý nghĩa đã rõ
ràng. Đó là đồng nữ mười tám tuổi, tức con gái chưa chồng, đến tuổi mười tám.
Nhưng câu văn: Thập tuế tằng giá gây nên một số khó khăn. Không phải vì
câu văn tối. Vì theo nghĩa đen, rõ ràng nói: mười tuổi đã có chồng. Nhưng một số
các luật sư ở nước ta, căn cứ theo phong tục hôn nhân, cho rằng không thể có
trường hợp con gái mười tuổi đã có chồng. Cho nên câu văn dịch của Tứ phần
được hiểu là người nữ đã có chồng, nhưng đã thôi chồng mười năm, sau khi đủ mười
năm như vậy mới được phép thọ hai năm học giới. ()
Căn cứ theo
các văn dịch trong các Quảng luật, luật Ngũ phần nói: "Thập nhị tuế dĩ giá nữ"
và nói thêm: "nhi nữ ngu si, vô tri, bất năng học giới.” Theo nội dung
từng đoạn cần phải hiểu câu văn này nói rằng: con gái mười hai tuổi đã có chồng,
nhưng ngu si, không hiểu biết, không kham học giới.
Luật Ma ha
tăng kỳ nói: " thích tha phụ thập nhị vũ", nghĩa đen là: mười hai tuổi đã
làm vợ người khác. nói là vũ (mùa mưa) thay vì nói là niên (năm) hay tuế (tuổi),
vì theo lịch pháp Ấn độ tính năm và tuổi theo mùa mưa. Trong đoạn nói về học
giới nữ này, luật ma ha tăng kỳ có giải thích đại cương rằng: Phật trú ở Xá vệ,
lúc bấy giờ có những người nữ thuộc dòng họ Thích, dòng họ Câu lê, dòng họ Ma
la, trước đó đã có chồng, đã từng kham nhẫn các sự khổ nhọc. Đại Ái Đạo Cù Đàm
Di bạch Phật: Người nữ đã có chồng mà chưa đủ hai mượi tuổi, có thể thọ cụ túc
được không? Phật cho phép được. Nhưng người nữ tám hay chín tuổi, dù đã có chồng
(tằng giá bát tuế cửu tuế nữ) thì không được. Và giải thích sau đây cần
nhấn mạnh: với số tuổi này, còn quá nhỏ, quá yếu đuối, không kham nổi sự khổ
(văn Hán nói: thái tiểu, nhuyển nhược bất kham khổ sự). Theo giải thích
như vậy, rõ ràng câu văn: thích tha phụ thập nhị vũ, chính xác phải hiểu
là: mười hai tuổi đã làm vợ người khác.
Về vấn đề
này, luật Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ bí sô ni tỳ nại gia nói: sau khi dòng
họ Thích bị vua Tỳ Lưu Ly tàn sát, một số thích nữ không nơi nương tựa, bèn được
cho xuất gia. Những người này cầu thọ cụ túc. Nhưng các trưởng lão ni nói, Phật
chế, chưa đủ hai mươi tuổi, không được phép thọ cụ túc, vì chưa đủ khả năng để
phụng sự Hòa thượng, A xà lê ni. Các người nữ này nói: "Chúng con khi tại gia
đã từng thờ chồng, các doanh nghiệp còn có thể đảm đương được, huống gì nay là
sự hầu hạ Hòa thượng, A xà le ni, mà không làm nổi.” Các trưởng lão ni bạch
Phật. Phật cho phép, người nữ đã có chồng đủ 12 tuổi (Hán: tằng giá nữ, niên
mãn thập nhị) cho hai năm học giới rồi cho thọ cụ túc.
Theo các
quảng luật được dẫn trên, duy chỉ Tứ phần nói là thập tuế tằng giá, còn theo các
luật khác, phải nói là thập nhị tuế tằng giá. Số 10 hay số 12, là theo phong tục
mỗi địa phương quan niệm về số tuổi thấp nhất cho con gái trưởng thành. Tuy vậy,
về nội dung giải thích tại sao có con số tuổi này, các luật đại khái nói như
nhau: dưới số tuổi đó quá nhỏ, yếu đuối, còn ngu dại. Đây là số tuổi thấp nhất
qui định sự trưởng thành về thể chất cũng như tinh thần của người nữ. Đương
nhiên, sư qui định như vậy bị hạn chế theo phong tục địa phương. Ở nước ta, con
gái ít nhất 17 tuổi mới được coi là thành niên.
Như vậy,
nếu giải thích rằng, thập tuế tằng giá trong văn Tứ phần chỉ cho người nữ này
không thể được coi là quá nhỏ, yếu đuối, còn ngu dại như đã thấy từ các dẫn
chứng trong các Quảng luật trên.
Tuy nhiên,
ở nước ta từ xưa dù có tục tảo hôn, nhưng không với số tuổi quá nhỏ như vậy.
Ngày nay thì điều đó hoàn toàn không xảy ra nữa. Vả lại, tuổi trưởng thành được
qui định theo luật pháp từ xưa là 17 tuổi. Nói tóm lại nếu là con gái chưa chồng
thì tối thiểu phải 18 tuổi mới được phép thọ hai năm học giới. Nếu đã có chồng,
không hạn chế số tuổi, trừ khi tuổi quá nhỏ, và nhỏ như thế nào thì tùy theo
phong tục địa phương.
Về hai năm
học giới, duy nhất chỉ có luật Thập tụng mới nói rằng sở dĩ như vậy để tránh
trường hợp có thai mà không biết.()
Nếu theo tinh thần các luật khác, như đã dẫn thì hai năm như vậy là cần thiết để
học tập đầy đủ các học xứ của tỳ kheo ni, và là thời gian cần thiết để kiểm
nghiệm sự hộ trì sáu học pháp đặc biệt. Sáu học pháp này, theo danh nghĩa, vốn
là trong mười giới của sa di ni. Nhưng đây không phải trích ra sáu. Bởi vì sự
thọ trì không giống như trường hợp sa di ni, ở chỗ, nếu vi phạm thì phải thọ lại
hai năm học giới khác, cho đến khi nào liên tục trong hai năm không vi phạm điều
nào trong sáu điều mới được thọ cụ túc. Đương nhiên trừ các trường hợp nghiêm
trọng tương đương ba la di.
Văn thọ
thức xoa ma na:
Trước khi
thọ thức xoa, phải cho thọ sa di ni. Sa di ni đến trước tỳ kheo ni tăng, đảnh lễ
và bạch:
Đại
đức tăng rủ lòng thương tưởng. Con sa di ni… nay thỉnh cầu tăng cho hai năm học
giới theo Hòa thượng ni là… ngưỡng mong Tăng cho con hai năm học giới. Cúi xin
thương tưởng. (nói ba lần)
Sau đó, lui
ra khỏi giới trường, đứng ở chỗ có thể thấy nhưng không thể nghe. Bấy giờ Tăng
tác pháp yết ma cho học giới. vị tỳ kheo ni yết ma bạch:
Đại
đức tăng, xin lắng nghe. sa di ni… kia nay thỉnh cầu Tăng cho hai năm học giới
theo Hòa thượng ni là… Nếu thời gian thích hợp đối với tăng, tăng nay chấp thuận
cho sa di ni… hai năm học giới theo Hòa thượng ni… Đây là lời tác bạch. Đại đức
ni tăng, xin lắng nghe. sa di ni… kia thỉnh cầu Tăng cho hai năm học giới theo
Hòa thượng ni là…Tăng nay cho sa di ni… hai năm học giới theo Hòa thượng ni là…
Đại đức nào chấp thuận Tăng cho sa di ni… hai năm học giới với Hòa thượng ni là…
thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói. đây là yết ma lần thứ nhất.
Đại
đức ni tăng, xin lắng nghe… (cho đến)… đây là yết ma lần thứ hai.
(…như trên,
cho đến….) Đây là yết ma lần thứ ba.
Tăng
đã chấp thuận cho sa di ni… hai năm học giới theo Hòa thượng ni là… vì đã im
lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
Bạch tứ yết
ma xong, cho gọi giới tử vào giới trường để truyền sáu học pháp. Giới sư nói:
(gọi pháp danh giới tử)
… Hãy
lắng nghe. Đức như lai, bậc chí chân đẳng chính giác, đã thiết lập, sáu học
pháp.
- Thứ
nhất. không được phạm bất tịnh hạnh, hành pháp dâm dục. Nếu thức xoa ma na hành
pháp dâm dục, không còn là thức xoa ma na, không phải là Thích nữ nữa. Nếu đụng
chạm đến thân thể một người nam có tâm nhiễm ô, giới bị khuyết, phải thọ lại.
Trong điều này, ngươi phải trọn đời thọ trì, không được trái phạm
- Thứ
hai, không được cố ý lấy của không cho, nhẫn đến một cọng cỏ. Nếu thức xoa ma na
lấy trộm năm tiền, hay vật tương đương năm tiền trở lên, tự mình lấy hay khiến
người lấy, tự mình phá hoặc khiến người phá, tự mình chặt hoặc khiến người chặt,
hoặc đốt, hoặc chôn, hoặc hủy mất màu sắc, thì không còn là thức xoa ma na,
không phải là thích nữ nữa. Nếu lấy trộm dưới năm tiền hoặc vật tương đương dưới
năm tiền, giới bị khuyết phải thọ lại, trong điều học này, ngươi phải trọn đời
thọ trì, không được trái phạm.
- Thứ
ba, không được cố ý giết hại mạng sống nhẫn đến con kiến. Nếu thức xoa ma na cố
ý giết người, tự tay mình cầm dao giết, hay cầm dao đưa cho người khác giết,
hoặc xúi dục người tự sát, ca ngợi để người tự sát, đưa thuốc độc cho người, làm
trụy thai, hoặc bằng chú thuật mà giết hoặc tự mình đặt phương tiện giết hay
khiến người khác làm; như thế không còn là thức xoa ma na, không phải là Thích
nữ nữa. Nếu cố ý giết hại mạng sống của loài vật, loài không biết biến hóa, thì
giới bị khuyết, phải thọ lại. Trong điều này, ngươi phải trọn đời thọ trì, không
được trái phạm.
- Thứ
tư, không được cố ý nói dối, nhẫn đến nói dối mà chơi. Nếu thức xoa ma na tự
mình không thật sự chứng đắc mà nói rằng: "Tôi đã chứng đắc pháp thượng nhơn,
đắc thiền, đắc giải thoát, đắc định, đắc bốn không định, đắc quả Tu đà hoàn, Tư
đà hàm, A na hàm, A la hán, trời, rồng, qủy, thần đến cúng dường tôi.” Nói vậy,
không còn là thức xoa ma na, không phải là Thích nữ nữa. Nếu ở trong chúng mà cố
ý nói dối, giới bị khuyết, phải thọ lại. Trong điều học này, ngươi phải trọn đời
thọ trì, không được trái phạm.
- Thứ
năm, không được ăn phi thời, nếu thức xoa ma na ăn phi thời, giới bị khuyết,
phải thọ lại. Trong điều học này, ngươi phải trọn đời thọ trì, không được trái
phạm.
- Thứ
sáu, không được uống rượu. Nếu thức xoa ma na uống rượu, giới bị khuyết, phải
thọ lại. Trong điều học này, ngươi phải trọn đời thọ trì, không được trái phạm.
---------------------------
TIẾT HAI
Sa di ni đã
thọ học giới đủ hai năm, thanh tịnh, được pháp thọ giới cụ túc. Trước khi truyền
giới cụ túc, Hòa thượng ni phải được Tăng tác pháp yết ma cho nuôi chúng như đã
nói. Ni thọ cụ túc trước hai bộ tăng gồm hai mươi vị (mười tỳ kheo và mười tỳ
kheo ni); nếu là ở biên địa, trước hai bộ Tăng gồm mười vị (năm tỳ kheo và năm
tỳ kheo ni). Việc truyền thọ như vậy được chia làm hai giai đoạn chính. Giai
đoạn thứ nhất, tác pháp yết ma giữa ni bộ, gọi là bản pháp yết ma và sau đó đến
giữa đại Tăng tác pháp yết ma lần nữa, gọi là chính pháp yết ma.
Trong quá
trình tác pháp yết ma giữa ni bộ, tức bản bộ yết ma (hoặc bản pháp yết ma) gồm
tám tiết mục sau đây:
a)
Thỉnh hòa thượng ni.
b)
Yết ma sai giáo thọ ni.
c)
Giáo thọ ni hướng dẫn giới tử về các già nạn.
d)
Đơn bạch gọi giới tử đến trước Tăng.
e)
Giới tử bạch Tăng xin giới.
f)
Đơn bạch chính thức hỏi các già nạn trước tăng.
g)
Chính thức hỏi các già nạn.
h)
Bạch yết ma trao giới cụ túc.
Văn bạch
yết ma cũng giống như trường hợp thọ giới ty kheo, xem chi tiết ở các đoạn của
chương trước, duy chỉ thêm tiếng "ni" sau các từ xưng hô cần thiết. Riêng các
già nạn trên đại thể tuy tương đồng, nhưng có một vài chi tiết khác biệt cần lưu
ý như sau:
1.
Già nạn thứ nhất của tỳ kheo ni được nói là: "Ngươi đã từng thọ tỳ kheo
ni chưa?" Già nạn này khác với già nạn về phạm biên tội của tỳ kheo. Vì rằng,
nếu người trước đó đã từng thọ tỳ kheo mà chưa phạm các trọng cấm và hoàn giới
như pháp thì được phép xuất gia thọ cụ túc lại. Nhưng nếu người nữ đã từng thọ
tỳ kheo ni, rồi hoàn tục, dù không phạm các trọng cấm và đã hoàn giới như pháp,
theo luật chế, vẫn không được phép thọ cụ túc lại.()
2.
Ni không có già nạn thứ hai của tỳ kheo. Tức trong khi còn là bạch y mà
đã từng hành dục với người đã thọ giới cụ túc.
3.
Tặc trú hay tặc tâm thọ giới, cũng giống như già nạn của tỳ kheo.
4.
Phá nội ngoại đạo: ni không có già nạn này, vì nó đã được gồm trong già
nạn thứ nhất.
5.
Không phải là hoàng môn. Trong trường hợp già nạn của tỳ kheo là năm loại
đàn ông bất lực. Ni không có trường hợp này, do đó không có già nạn này.
6.
Năm tội nghịch giống như các già nạn của tỳ kheo.
7.
Phá hòa hiệp tăng, một phần giống già nạn của tỳ kheo. Nhưng ni không có
trường hợp phá pháp luân tăng, vì người nữ không thể tự xưng là Phật.
11 – 13.
Phi nhân , súc sinh và nhị hình: giống như các già nạn của tỳ kheo.
Các già nạn
nhỏ tiếp theo cũng giống như cửa tỳ kheo. Nhưng cuối cùng có thêm các trường
hợp: hai đường (đại và tiều tiện) hợp một, đường đại tiểu tiện thường són.()
Tổng kết,
các già nạn của tỳ kheo ni được hỏi như sau:
1.
Ngươi đã từng là tỳ kheo ni chưa?
2.
Có phải tặc tâm xuất gia không?
3.
Có giết cha không?
4.
Có giết mẹ không?
5.
Có giết A la hán không?
6.
Có gây thương tích Phật không?
7.
Có phải là phi nhân không?
8.
Có phải là súc sinh không?
9.
Có phải là hai căn không?
- Pháp
danh ngươi là gì?
- Hòa
thượng ni của ngươi hiệu là ai?
-
Tuổi đã đủ chưa?
- Y
bát có đủ không?
- Cha
mẹ phu chủ đã cho phép chưa?
- Có
mắc nợ không?
- Có
phải nô tỳ không?
- Có
phải là quan viên tại chức không?
- Có
thật là người nữ không?
-
Người nữ có những bệnh sau đây: cùi hủi, ung thư, ghẻ lở, lao phổi, điên cuồng,
hai căn, đường đại tiểu tiện hợp một, đường đại và tiểu tiện thường són, và
huyết kinh thường xuyên chảy. Ngươi có các bệnh ấy không?
Sau khi ni
tăng tác pháp bản bộ yết ma, ngay ngày hôm đó, cả mười giới sư ni hướng dẫn giới
tử sang bên tỳ kheo tăng xin tác chánh pháp yết ma: không được phép để cách đêm.
Cũng nên
nhắc lại rằng, sau khi bạch tứ yết ma là dứt phần bản bộ yết ma của tỳ kheo ni
tăng. Các tiết mục khác như nói tám ba la di, bốn pháp sở y, và tám pháp tôn
kỉnh, phải do tăng trong phần chánh pháp yết ma này.
Và thêm
nữa, túc số của tỳ kheo tăng ở đây là mười vị, trong đó duy chỉ có một vị tỳ
kheo làm vị yết ma, chứ không có Hòa thượng truyền giới. Các vị còn lại đều là
tôn chứng cả.
Chính pháp
yết ma được tiến hành như sau:
Vị tỳ kheo
ni làm giới thọ sư hướng dẫn giới tử bạch thỉnh.
Đại
đức rủ lòng thương tưởng, con thức xoa ma na pháp danh… nay thỉnh cầu Đại đức vì
con làm yết ma a xà lê. Ngưỡng mong Đại đức vì con làm yết ma a xà lê, con nương
nhờ đại đức mà được thọ giới cụ túc. Cúi xin thương tưởng con. (nói ba
lần)
Đại
đức tăng rủ lòng thương tưởng, con thức xoa ma na pháp danh… theo Hòa thượng ni
hiệu… cầu thọ cụ túc. Con thức xoa ma na… nay thỉnh cầu tăng cho thọ cụ túc với
Hòa thương ni hiệu… ngưỡng mong đại đức Tăng đưa con lên bậc cao. Cúi xin thương
tưởng con. (nói ba lần).
Vị tỳ kheo
yết ma bạch tăng để hỏi các già nạn.
Đại đức
tăng xin lắng nghe. thức xoa ma ni pháp danh… nay theo Hòa thượng ni hiệu… cầu
thọ cụ túc. Thức xoa ma na… này, nay thỉnh cầu Tăng cho thọ cụ túc với Hòa
thượng ni… nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, tôi sẽ hỏi các già nạn. Đây là
lời tác bạch.
Thầy tỳ
kheo yết ma hỏi giới tử ni các già nạn, như đã được hỏi giữa Tăng. Hỏi xong các
già nạn này, thầy tỳ kheo yết ma lại hỏi giới tử ni tiếp:
-
Ngươi đã học giới chưa?
- Con
đã học giới.
- Học
giới có thanh tịnh không?
-
Thanh tịnh.
Tiếp theo
thầy tỳ kheo yết ma lại hỏi các giới sư ni:
-
Giới tử ni này đã học giới chưa?
Các giới sư
ni đồng thanh đáp:
- Đã
học giới.
Thầy yết ma
hỏi:
- Học
giới có thanh tịnh không?
Các giới sư
ni đáp:
- Thanh
tịnh.
Tỳ kheo yết
ma bạch:
Đại
đức tăng, xin lắng nghe. Thức xoa ma na này theo Hòa thượng ni… cầu thọ cụ túc.
Thức xoa ma na… này nay thỉnh cầu tăng thọ giới cụ túc theo Hòa thượng ni… Thức
xoa ma na này… tự nói thanh tịnh, không có các già nạn, tuổi đã đủ, y bát có đủ,
đã học giới thanh tịnh. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay cho thức
xoa ma na… này thọ cụ túc, theo Hòa thương ni là… Đây là lời tác bạch.
Đại
đức tăng xin lắng nghe. Thức xoa ma na… này theo Hòa thượng ni… cầu thọ cụ túc.
Thức xoa ma na… này nay thỉnh cầu tăng thọ cụ túc theo Hòa thượng ni là… Thức
xoa ma na… này tự nói thanh tịnh không có các già nạn, tuổi đã đủ, y bát có đủ,
đã học giới thanh tịnh. Tăng nay cho thức xoa ma na… này thọ giới cụ túc theo
Hòa thượng ni… các. Trưởng lão nào chấp thuận, nay Tăng cho thức xoa ma na… này
thọ giới cụ túc theo Hòa thượng ni… thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.
Đây là yết ma lần thứ nhất. Đại đức tăng, xin lắng nghe. (như trên, đến:
) Ai không chấp thuận hãy nói. Đây là yết ma lần thứ hai. (như trên)
Đây là yết ma lần thứ ba. Tăng đã chấp thuận cho thức xoa ma na… thọ cụ túc giới
theo Hòa thượng ni… vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
Bạch tứ yết
ma xong, từ đây giới tử ni được gọi là tân tỳ kheo ni. Tiếp theo, tăng truyền
thọ giới tướng, tức là truyền tám pháp ba la di, các y pháp và tám kỉnh pháp.
Ni có tám
pháp ba la di. Bốn ba la di đều giống như của tỳ kheo. Trong đó, khi truyền đổi
các từ xưng hô, như tỳ kheo thì nói là tỳ kheo ni; sa môn Thích tử thì chỉ nói
là Thích nữ. Dưới đây chỉ nhắc bốn ba la di cuối.
- 5.
Không được đụng chạm thân thể người nam, cho đến kể cả loài súc sinh. Nếu tỳ
kheo ni, với tâm nhiễm ô, đụng chạm đến thân thể người nam có tâm nhiễm ô từ
nách trở xuống và từ đầu gối trở lên; hoặc bóp, hoặc xoa, hoặc kéo, hoặc đẩy,
hoặc xoa ngược, hoặc xoa xuôi hoặc nâng lên để xuống, hoặc nắm hoặc cọ. Như vậy
không còn là tỳ kheo ni nữa, không phải là Thích nữ nữa.
- 6.
Không được phạm tám sự, cả đến với súc sinh, nếu tỳ kheo ni với tâm nhiễm ô,
chịu cho người nam có tâm nhiễm ô nắm tay, nắm áo vào chỗ khuất, cùng đứng, cùng
nói chuyện, cùng đi, thân thể kề sát nhau, cùng ước hẹn nhau, phạm tám sự này,
không còn là tỳ kheo ni, không phải là Thích nữ nữa.
- 7.
Không được che dấu tội người khác. Dù là tội đột kiết la hay tội ác thuyết. Nếu
tỳ kheo ni biết tỳ kheo ni khác phạm tội ba la di mà không nêu ra, không bạch
Tăng hay không nói cho số đông người biết, về sau, khi tỳ kheo ni kia hoặc bãi
đạo, hoặc bị diệt tàn; bấy giờ mới nói rằng: "Trước đây tôi đã biết có sự kiện
như vậy như thế, do trọng tội phú tàng này, không còn là tỳ kheo ni, không phải
là Thích nữ nữa.
- 8.
Không được theo tỳ kheo bị xả trí (),
theo sa di cho đến người giữa chùa bị xả trí. Nếu tỳ kheo ni biết tỳ kheo kia đã
bị tăng xả trí như pháp, như luật, như lời Phật dạy mà không phục tùng, không
chịu sám hối; nếu Tăng chưa tác pháp cho người ấy sống chung mà tuỳ thuận theo
tỳ kheo ấy; các tỳ kheo ni can gián tỳ kheo ni này rằng: " Này cô, có biết
không, nay tỳ kheo ấy bị Tăng xả trí. Như pháp, như luật, như lời Phật dạy.
Nhưng tỳ kheo ấy không phục tùng, không chịu sám hối; Tăng chưa tác pháp xả cho
tỳ kheo ấy sống chung. Vậy cô đừng tùy thuận, tỳ kheo ni nay như vậy mà cố chấp
không bỏ. Các tỳ kheo ni nên can gián ba lần cho bỏ sự ấy. Sau ba lần can gián,
bỏ thì tốt, nếu không bỏ, không còn là tỳ kheo ni, không phải là Thích nữ nữa.
Này
tân tỳ kheo ni, đức Như lai, bậc vô sở trước, đẳng chính giác, đã nói, tám pháp
ba la di, lại nói bốn thí dụ. Nếu ai phạm tám điều trọng cấm này. Như người đã
bị ắt đầu không còn có thể cứu sống được nữa, như cây ta la bị chặt đứt lõi
không còn sinh trưởng được nữa; như cây kim sút lỗ không còn dùng được nữa; lại
như tảng đá lớn bị vỡ hai không còn dính lại được. Nếu tỳ kheo ni phạm tám trọng
cấm này rồi thì phẩm hạnh tỳ kheo ni không thể phục hồi được nữa, trong tám điều
này ngươi phải trọn đời hộ trì không được trái phạm.
Các y pháp
tức bốn thánh chủng. Nội dung cơ bản giống như của tỳ kheo, đã được nói trong
chương trước. Tuy vậy ở đây có sự bất đồng giữa các bộ. Theo Tứ phần tỳ kheo ni
yết ma yếu dụng,()
bốn sở y của tỳ kheo ni hoàn toàn đồng nhất với của tỳ kheo. Nhưng, Di sa tác
yết ma bản,()
thay điều sở y thứ ba của tỳ kheo, “y thọ hạ", " y thô tệ ngọa cụ" (sống y trên
các ngọa cụ thô xấu). Trái lại, Thập tụng yết ma tỳ kheo yếu dụng ()
bỏ hẳn sở y về thọ hạ này, nên tỳ kheo ni chỉ có ba sở y, bởi vì, theo ni luật:
ni bất trụ lan nhã, tỳ kheo ni không được phép sống tại a lan nhã.
Này tân
tỳ kheo, hãy lắng nghe. Đức Phật đã lập tám pháp tôn kỉnh. Người nữ y nơi đó mà
được xuất cụ túc. Tám pháp ấy là gì?
1.
Tỳ kheo ni dù trăm tuổi hạ, khi thấy tỳ kheo dù mới thọ giới, phải đứng
dậy đón chào, hỏi han, lễ bái, thỉnh ngồi.
2.
Không được mắng tỳ kheo.
3.
Không được nêu tội tỳ kheo, không được tác pháp ức niệm, tự ngôn trị đối
với tỳ kheo, không được ngăn tỳ kheo xét tội, ngăn thuyết giới, ngăn tự tứ, và
nói lỗi lầm của tỳ kheo tăng. Nhưng tỳ kheo tăng được nói lỗi của tỳ kheo ni.
4.
Phải thỉnh cầu tỳ kheo tăng mà thọ cụ túc.
5.
Nếu phạm tăng tàn, phải ở giữa hai bộ tăng, nửa tháng hành pháp ý hỷ.
6.
Nửa tháng phải đến tỳ kheo tăng cầu thỉnh giáo thọ.
7.
Không được kiết hạ an cư ở chỗ không có tỳ kheo tăng.
8.
Sau khi an cư phải đến giữa tỳ kheo tăng cầu ba sự tự tứ là thấy, nghe và
nghi.
Tám
pháp tôn kỉnh như vậy, ngươi phải trọn đời phụng trì.
Nội dung
các lời giáo giới, đại để cũng giống như trong truyền thọ tỳ kheo.
-------------------------------
TIẾT BA
Tỳ
kheo ni đủ mười hai hạ, đủ các đức tính để làm Hòa thượng ni, đã được Ni Tăng
tác pháp yết ma cho nuôi chúng, nhưng nếu không thực hiện đầu đủ các trách nhiệm
giáo dục đệ tử, thì Ni Tăng có thể cứu xét và nếu cần thì tác pháp yết ma ngăn
cấm không cho nhận đệ tử nuôi chúng nữa.
Sau khi Ni
Tăng họp, tác pháp tiền phương tiện của yết ma xong, tiếp theo nêu những khuyết
điểm của tỳ kheo ni nuôi chúng mà không biết dạy dỗ ấy. Trong khi Ni Tăng nêu
các khuyết điểm, vị tỳ kheo ni đương sự phải quì trước Tăng, chắp tay lắng nghe.
Nêu các
khuyết điểm xong, bạch yết ma như sau:
Đại
đức ni tăng, xin lắng nghe. tỳ kheo ni… nuôi đệ tử mà không giáo hóa, không
giảng pháp. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay tác pháp yết ma ngăn
cấm không cho tỳ kheo ni… nuôi đệ tử nữa. Đây là lời tác bạch.
Đại
đức ni tăng, xin lắng nghe. Tỳ kheo ni… nuôi đệ tử mà không giáo hóa, không
giảng pháp. Tăng nay tác pháp yết ma ngăn cấm không cho tỳ kheo ni nuôi đệ tử
nữa. Các trưởng lão ni nào chấp thuận, Tăng tác pháp yết ma không cho tỳ kheo
ni… nuôi đệ tử, thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.
Tăng
đã chấp thuận tác pháp yết ma ngăn cấm tỳ kheo ni… nuôi đệ tử, vì đã im lặng.
Tôi ghi nhận như vậy.
a)
Di sa tác yết ma bản (đại 22, tr. 219b), các già nạn: 1-5 tội ngũ
nghịch; 6- Phạm tịnh hạnh với tỳ kheo; 7- Phi nhơn; 8- súc sinh; 9- nhị
hình; 9- tự xuống tóc và tự xưng là tỳ kheo ni; 10- xả nội; ngoại đạo; 11-
đã từng xuất gia mà trì giới không trọn, cả các chứng bệnh khác v.v…..
b)
Tứ phần tỳ kheo ni yết ma pháp (đại 22, tr. 1066c) 1- phạm biên tội,
2-phạm tịnh hạnh với tỳ kheo; 3-tặc tâm thọ giới, phá nội ngoại đạo; 4-Hoàng
môn; 5-9 tội ngũ nghịch; 10-phi nhân; 11-súc sinh; 12- nhị hình.
c)
Thập tụng yết ma tỳ kheo yếu dụng (đại 23, tr. 498) các già nạn phần
lớn qui tụ các chứng bệnh riêng của người nữ, ở đây không cần thiết nêu lên.
d)
Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ bách nhất yết ma (đại 24, tr. 461c):
1- còn cha hay mẹ nhưng cha mẹ không cho phép; 2- còn chồng nhưng chồng
không cho phép; 3- nô tỳ không được chủ cho phép; 4- cung nhân không được
quốc chủ cho phép; 4- người độc hại của vương giả; 5- đạo tặc; 6- ưu sầu tổn
tâm (tức điên cuồng hay quẩn trí) 7-âm đạo nhỏ, không có âm đạo, có cả 2 đạo
hay hai đạo hiệp một; 8- thường lưu huyết hay không có huyết (kinh nguyệt);
9- Hoàng môn; 10- Ô tỳ kheo, tức phạm tịnh hạnh với tỳ kheo; 11-15 tội ngũ
nghịch; 16- hiện là ngoại đạo; 17- đã từng làm ngoại đạo, tặc trú; 19- biệt
trú; 20- bất cộng trú; 21- mắc nợ người mà không thể trả; 22- đã từng xuất
gia.
--- o0o ---
Mục Lục Toàn Tập
Tập 1
|
1
|
2-0
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
Tập 2
|
7
|
8
|
9-1
|
9-2
|
9-3
| 9-4
|
9-5
|
9-6
|
9-7
|
9-8
|
10
Tập 3 |
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
|
20
--- o0o ---
Source:
www.phatviet.net
Vi tính: Nguyên Trang, Nhị Tường - Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-06-2004