Phụ
lục 3
Quán
tưởng về Định lực trong Phật giáo
(Trích
đoạn bài pháp thoại ngày 1987 05 05)
Có
rất nhiều hình thức, thể dạng và hệ thống về sự Quán
tưởng về Định lực. (Samàdhi bhàvanà). Hôm nay, tôi muốn
bàn luận về sự quán tưởng về Định lực (Samàdhi bhàvanà)
được Đức Phật giới thiệu và khuyến khích. Đề tài nầy
được kết tập trong Tam Tạng Kinh điển, hệ Pali (Tipitaka),
dưới cả hai hình thức giản lược và chi tiết về lời
giải thích. Chúng tôi gọi đó là sự Quán tưởng Định lực
của Đức Phật. Sự quán tưởng nầy chẳng phải là hệ
thống của Miến điện, hay của Trung Hoa, hoặc của Tích lan
mà ngày nay chúng ta thường quí chuộng. Nó cũng chẳng phải
là hệ thống nào của một vị Hoà thượng nầy, thiền sự
nọ, đạo sư kia mà lắm người thường bị dính chặt vào.
Lại cũng chẳng phải là hệ thống của Suan Mokkh hay của
bất cứ tu viện nào. Nó chẳng hề giống với bất cứ hình
thức pháp môn mới mẻ nào của ngày nay. Trái lại, đó là
đường lối chơn chánh mà Đức Phật đã giảng dạy và khuyến
khích tu tập theo. Ngài tuyên bố hình thức quán tưởng về
Định lực nầy chính là đường lối mà Ngài đã theo để
đạt đến sự Giác Ngộ Hoàn Toàn. Chúng tôi sẽ đặc biệt
nói riêng về hệ thống của sự quán tưởng về Định lực
đó.
Đây
là hệ thống quán tưởng về Định lực được biết đến
dưới danh xưng Ànàpànasati bhàvanà, hay vắn tắt và giản
dị hơn, là Ànàpànasati, Giác Niệm về Hơi thở. Tất cả
có cả thảy là mười sáu bước thực tập, hay là mười
sáu đề mục được đem ra thực tập. Dường như có vài
người chẳng thích và than phiền rằng có quá nhiều bước,
quá nhiều đề mục cho họ học tập. Về điểm nầy, tôi
thấy cần phải nhấn mạnh rằng, Đức Phật chẳng bao giờ
giảng dạy những gì nhiều hơn sự cần thiết, hoặc những
gì còn chưa đầy đủ. Tức là, mười sáu bước của Giác
Niệm về Hơi thở chẳng hề quá nhiều hoặc quá ít cả.
Nếu bạn có đủ kiên nhẫn để thực tập cả mười sáu
bước, bạn sẽ có được một hệ thống trọn vẹn. Nếu
bạn chẳng đủ sức để thực tập như thế, thì vẫn còn
có một thể dạng tóm lược cũng khá thích hợp cho những
người còn ... lười.
Thể
dạng rút gọn cho người thường.
(...)
Chúng tôi xin chỉ lấy những gì vừa đủ cho người thường,
mà chúng tôi gọi đó là "phương pháp được rút gọn". Cốt
lõi của phương pháp nầy là tâm tập trung vào định lực
một cách thích hợp, vừa đủ, mà người thường có thể
làm được, và rồi dùng cái tâm tập trung đó để quán sát
vô thường khổ sở vô ngã -- ba đặc tướng của muôn pháp
(aniccam dukkham anattà) -- cho đến khi nào nhận thức được
rõ ràng tánh không (sunnatà) và như thị (tathatà). Với sự
thực tập nầy, thường nhơn cũng thâu nhận được như thường
các lợi lạc của định lực. Họ sẽ thâu hoạch được
kết quả đầy đủ về sự tận diệt Khổ sở (dukkha), nhưng
sẽ chẳng có các đức tánh đặc biệt cộng thêm vào đó.
Dầu sao thì các đức tánh đặc biệt đó cũng chẳng cần
thiết. Vậy thì, bạn cứ tập trung tâm ý đi vào định lực
đủ để tiến lên việc quán sát vô thường, khổ sở và
vô ngã. Như thế, chỉ cần thực tập bộ bốn thứ nhứt
của Pháp Giác niệm về Hơi thở đầy đủ, rồi thì thực
tập tiếp đến bộ bốn thứ tư, cũng đầy đủ nữa. Và
chỉ có thế mà thôi! "Đầy đủ" thì chẳng phải là nhiều
quá, mà cũng chẳng được trọn vẹn đâu, nhưng cũng đã
đủ tốt lắm rồi. Đấy là thể dạng rút gọn dành cho thường
nhơn.
Giờ
đây, chúng ta xét đến việc thực tập bộ bốn thứ nhứt.
Hãy thở sao cho hơi thở thật tế nhị và khiến cho toàn thân
thể trở nên tế nhị, tức là, thanh lương và yên tĩnh. Chỉ
cần bấy nhiêu thôi đã đủ cho tâm vừa đủ khéo léo để
đi vào quán tưởng minh sát (Vipassanà). Và rồi tâm đạt đến
giai tầng có thể quán tưởng về vô thường, khổ sở và
vô ngã (aniccam dukkham anattà); cả ba đặc tướng nầy thường
thể hiện qua mọi bộ phận, cơ quan, thành phần trong cơ thể.
Đặc tướng vô thường, bất toại nguyện và vô ngã của
mọi cơ quan, bộ phận trong thân thể chúng ta -- vừa thể
chất lẫn tinh thần -- được quán sát cho đến khi nào nhận
thức ra được đặc tướng như thị (tathatà). Khi đặc tướng
như thị đã được nom thấy thật rõ, thì chúng ta hết còn
bị rơi dưới quyền lực của nhị nguyên (dualism) nữa. Như
thế cũng đã đủ rồi. Đủ được chừng ấy cũng khiến
ta vượt lên, càng ngày càng cao hơn, để đi sâu vào các Pháp
cho đến khi nhận thức được điểm tuyệt cao. Đấy là phương
pháp giản lược cho thường nhơn; những ai còn sống trong
gia đình, cũng có đủ khả năng để thực tập được chừng
ấy.
Thể
dạng hệ thống đầy đủ của Đức Phật
Giờ
đây chúng tôi xin nói đến hệ thống mà chính Đức Phật
đã thực tập và giải thích. Đây là hệ thống đầy đủ,
hoàn toàn, khác với thể dạng rút gọn; tức là hình thức
có đầy đủ cả bốn bộ bốn của Pháp Giác Niệm về Hơi
thở (Ànàpànasati). Xin bạn hãy kiên nhẫn để nghe. Bạn có
thể có đủ khả năng để hiểu được đôi chút và như
thế cũng đủ để đem lại lợi lạc cho bạn. Nếu chẳng
may bạn còn nghĩ rằng nó quá dài, hay dư thừa, thì chắc
là bạn còn chưa thực sự hiểu rõ được chi cả.
Chúng
ta thở, và thở nhiều hơi thở khác nhau để quán sát tìm
hiểu mỗi loại hơi thở thực sự đang tiếp diễn ra. Chúng
ta cũng hiểu rằng hơi thở hỗ trợ và phục dịch cho tấm
thân vật chất. Điều nầy đã được biết rõ như thế,
tự ngàn xưa, ngay cả trước khi Phật giáo xuất hiện trên
thế gian. Có thật nhiều phương pháp huấn luyện hơi thở
(prànayàma) được thực tập trước thời Đức Phật. Khi
Đức Phật thị hiện ra đời, Ngài lấy sự huấn luyện hơi
thở, prànayàma, đem cải tiến lại để trở thành hệ thống
quán tưởng Giác Niệm về Hơi thở. Chúng ta điều chỉnh
cuộc sống và thân thể qua hơi thở. Do đó mà có bốn bườc
thực tập: (1) ý thức được hơi thở dài, (2) ý thức được
hơi thở ngắn, (3) ý thức được hơi thở đã điều hoà
thân thể như thế nào, và (4) quán tưởng theo đường lối
nào mà hơi thở trở nên êm dịu, để khiến cho thân thể
được an tịnh. Đó là bốn bước thực tập. Đâu có nhiều
chi lắm, phải không? Tại sao lại chẳng thử tập xem? Bạn
hãy quán sát cho thật tình và nghiên cứu cho chân xác theo
một đường lối khoa học. Rồi thì mọi việc sẽ chẳng
có khó khăn chi nữa cả.
Sự
kiểm soát hơi thở (prànayàma) còn có nhiều lợi điểm khác
chẳng dính dáng với tôn giáo hay Chánh Pháp (Dhamma). (...) Bạn
có thể làm cho đời bạn dài thêm ra hơn mức bình thường,
nhờ sự kiểm soát hơi thở. Hay là bạn có thể làm cho bạn
chết, ngay cả vào hôm nay nữa. Bạn có thể chết được
ngay vào bất cứ hơi thở nào bạn muốn, qua sự kiểm soát
hơi thở. Bạn có thể có được hơi thở tốt đẹp và lành
mạnh cùng với một thân thể tốt đẹp và lành mạnh, qua
sự kiểm soát hơi thở. Bạn có thể chơi thể thao, lái xe,
làm việc ở văn phòng, hay bất cứ việc gì bạn muốn, nếu
bạn có thể điều chỉnh hơi thở của bạn, tức là pràna,
theo đúng đường lối phù hợp với các mục tiêu của bạn.
Chúng
tôi muốn các bạn biết rõ rằng Giác Niệm Hơi thở còn có
đủ các lợi điểm bên lề đó, ngoài phạm vi giáo lý và
tôn giáo ra.
Nhiệm
vụ tối cao của chúng ta.
Bộ
bốn chót bàn về Pháp (Dhamma), tức là Thiên nhiên và Chơn
Lý về Thiên nhiên. Khi tâm (citta) đã chịu ở dưới sự kiểm
soát rồi và có được định lực (samadhi) cần thiết, ta
dùng tâm ấy để thực hiện cái nhiệm vụ tối cao. Khi nói
"tối cao", chúng tôi muốn nói đến nhiệm vụ phải biết
rõ, phải nhận thức rõ, Chơn Lý. Xuyên qua sự minh sát (Vipassanà)
bằng cách quán sát thật kỹ lưỡng với một định tâm chúng
ta sẽ nom thấy rõ Chơn Lý của muôn sự vật. Chúng ta nhận
thức được mọi sự vật đều vô thường. Bất cứ việc
gì mà ta đang thể nghiệm đây cũng là vô thường. Ngay cả
những sự vật mà ta còn chưa ý thức đến cũng vô thường
nữa, nghĩa là, luôn biến chuyển và thay đổi. Chỉ có một
ngoại lệ duy nhứt là Niết-bàn (Nibbàna), một thực thể
chẳng hề thay đổi. Như thế, chúng ta biết được sự vô
thường (aniccam) của muôn sự vật. Hơn thế nữa, sự kiện
về vô thường còn đè ép chúng ta, và khiến cho chúng ta phải
thể nghiệm sự Khổ sở (Dukkha). Tình trạng khổ sở đó
khó cho mọi người phải chịu đựng mãi; chẳng có tự ngã
nào, linh hồn nào chống cự lại được. Đó là vô ngã (anattà).
Và như thế đó chúng ta nhận thức được vô thường, khổ
sở, vô ngã (aniccam dukkham anattà). Gọi chung chúng lại, ta
nói đó là tánh không (sunnatà), tức là sự rỗng không của
cái tự ngã. Kế đó, nhận thức đến sự như thị (tathatà),
"như thế", "chỉ là như vậy đó’. Đó là bước thứ nhứt
của bộ bốn thứ tư. Nó được gọi làquán tưởng về vô
thường (anicca nupassanà) Chỉ riêng một danh từ kép đó cũng
đủ bao trùm hết cả các sự nhận thức về vô thường,
khổ sở, vô ngã, tánh không, như thị! (aniccam dukkham anattà
sunnatà tathatà). Tất cả các điều đó đều được gom chung
lại vào một bước, bởi vì tất cả đều là kết quả trực
tiếp của việc nhận thấy ra được sự vô thường.
Tiếp
tục thực tập, ta thấy rằng: "Ồ! một khi nhận thức được
vô thường (aniccam) rồi thì sự bám níu (= chấp thủ) bắt
đầu phai nhạt dần, rồi từ từ tan rả từng miếng, từng
miếng ra". Điều đó được gọi là Viràga, sự vô chấp thủ,
sự buông bỏ chẳng bám níu nữa. Nhận thức được sự tan
rả của việc bám níu khiến ta thốt lên: Ồ! tiêu tán hết
rồi! Sự bám chặt đã "rã bèn" hết rồi! Đó là sự đoạn
diệt (nirodhà): sự tuyệt diệt đến tận gốc rễ của mọi
lậu hoặc, phiền não và khổ sở. Nếu sự khổ sở (dukkha)
đã thật sự chấm dứt, chúng ta liền biết rõ: "Ý a! Nay
mọi việc đều chấm dứt hết, mọi việc đều ngừng lại
hết. Nhiệm vụ của chúng ta đã hoàn tất! Chẳng còn gì
phải làm thêm nữa". Chẳng còn sự khổ sở nào hay vấn đề
khó khăn nào sót lại nữa, còn cần phải dập tắt nữa cả.
Đấy được gọi là sự quẳng bỏ lại ra phía sau (patinissagga),
sự khước từ, sự từ bỏ tất cả. Chẳng còn gì sót lại
hết cả. Đấy là bộ bốn cuối cùng, sự quán tưởng về
Pháp (Dhamma nupassanà) có liên quan đến Chơn Lý của muôn sự
vật.
Chẳng
có gì dư thừa cả.
Sau
cùng, bạn có thể tự mình nhận thấy lấy, xem có việc gì
là dư thừa hay không. Chúng ta bắt đầu nghiên cứu về sự
Khổ sở (dukkha), và nguyên nhân đã khiến sự Khổ sở khởi
lên. Kế đó, chúng ta nghiên cứu về những cơ sở nào đã
khiến cho sự Khổ sở nẩy nở thêm lên: đó là thân (Kàya)
và các cảm thọ (Vedanà). Chúng ta tiếp tục nghiên cứu sự
thể nghiệm khổ sở, hoặc thể nghiệm sự vắng bóng của
nỗi Khổ sở; nói cách khác, chúng ta đã nghiên cứu tâm (citta),
cái tâm thể nghiệm sự Khổ sở và sự Chẳng khổ. Và sau
chót, chúng ta nghiên cứu Pháp (Dhamma), tức là Chơn Lý của
muôn sự vật, để khiến cho tâm biết, hiểu biết, biết
thật rõ ràng, cho đến khi nào tâm ấy biết rằng chẳng còn
gì bám níu (= chấp thủ) vào đâu nữa cả. Biết buông bỏ
tất cả!
Thật
có rất nhiều việc cần phải làm. Để hoàn tất nhiệm vụ
đó, sự thực tập của chúng ta cần phải thật đầy đủ.
Vì lẽ đó mà ta cần phải có đủ mười sáu bước thực
tập. Nhưng như tôi đã giải thích với các bạn khi trình
bày Pháp nầy, cũng chẳng có chút nào là quá mức hay dự
thừa cả. Thật ra, có rất nhiều đề mục cần phải nghiên
cứu để thấu hiểu tường tận, nhưng chỉ nên biết rằng
đó chỉ có võn vẹn là mười sáu bước thực tập mà thôi,
có chi là quá nhiều đâu. Vài người nói, như thế đó cũng
đã nhiều rồi, và họ còn chưa muốn nghiên cứu và thực
tập đến. Nếu họ cứ nghĩ Pháp nầy chẳng giúp đỡ gì
cho họ, thì thôi vậy, cứ để cho họ tự tìm lấy những
gì thích hợp với họ. Những ai chẳng muốn nghiên cứu và
thực tập hình thức đầy đủ của mưới sáu bước thực
tập nầy, thì họ vẫn còn có thể tập theo các thể dạng
tóm lược đã được bàn đến ở phía trước. Đấy cũng
khá đủ để có thể thâu hoạch được các lợi lạc của
Phật học xuyên qua kỹ thuật quán tưởng về Định lực
(samàdhi bhàvanà).