Bài
4
Làm
chủ các cảm thọ
Trong
bài pháp thoại nầy, tôi xin nói về bộ bốn thứ nhì của
Pháp Quán tưởng Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati). Bốn
bước trong bộ bốn nầy có liên quan đến các cảm thọ,
nên được gọi là Vedanànupassànà, sự Quán tưởng về các
cảm thọ. Hai bước đầu của bộ bốn nầy lấy Hỉ, tức
là nỗi mừng (pìti) và Lạc, tức là niềm vui (sukha) làm đối
tượng cho sự thâm cứu và quan sát chi tiết.
Việc
thực tập các bước mới nầy phát triển dựa theo sự thực
tập các bước trước. Một khi thân hành, tức là hơi thở,
đã được lắng dịu, thì các cảm thọ mừng (pìti) và vui
(sukha) sẽ khởi hiện. Rồi ta lấy ngay hai cảm thọ mừng
và vui đó làm đối tượng, hay là chất liệu, cho việc thực
tập của chúng ta.
Nếu
ta làm dịu được thân hành (kàya sankhàra) tới mức độ
đạt đến Thiền định (Jhàna, Sơ Thiền, Nhị Thiền v.v.)
thì Hỉ, nỗi mừng (pìti) và Lạc, niềm vui (sukha) trở nên
đầy và đủ như hai yếu tố của Thiền, tức là hai Thiền
chi. Tuy nhiên, nếu ta còn chưa đủ khả năng để nhập vào
thiền định, mà chỉ đủ sức làm dịu thân hành được
một phần nào, thì cũng có thể có được một mức độ
về mừng và vui nào đó, tỷ lệ thuận với phần làm êm
dịu đó. Như thế, ngay cả đối với những ai chưa đủ khả
năng để vươn tới thiền định, cũng vẫn có thể xoay trở
hầu có đủ mừng và vui để thực tập các bước nầy.
Ngay
đây, ta sẽ nghiên cứu các đặc tánh và ý nghĩa của mừng
(pìti) và vui (sukha). Pìti, Hỉ (= mừng, là sự bằng lòng khởi
lên do nhờ thành công trong việc đạt đến định lực (samàdhi)
ở các bước trước, đó có nghĩa là, ta đã đủ sức làm
cho thân hành (= hơi thở) được êm dịu lại. Sự bằng lòng,
hay là sự thoả ý, khởi lên cùng với sự thành công. Một
khi đã có sự bằng lòng rồi, thì bạn đâu còn cần phải
nghi ngờ gì nữa, sự hoan lạc (Lạc, vui, sukha) sẽ khởi lên
theo. Do có thoả ý mà hân hoan khởi lên. Đấy là cách nên
làm sao mà ta có đủ được Hỉ (Pìti, mừng) và Lạc (sukha,
vui )để tiếp tục thực tập hai bước năm và sáu.
Mừng
(Hỉ) (Pìti) chẳng được êm ả lắm.
Điều
nên quan sát tiếp theo là có nhiều giai tầng ý nghĩa khác
nhau nơi chữ Pìti (Hỉ, Mừng), như sự bằng lòng, sự thoả
mãn, và sự ngây ngất. Bạn phải nên hiểu biết rõ các giai
tầng ấy của nỗi mừng (Pìti, Hỉ) được thể hiện ra dưới
hình thức khác nhau, hoặc có ít, hoặc có nhiều năng lực
trong đó. Đặc tánh quan trọng của Hỉ (Pìti, nỗi mừng)
mà bạn cần lưu ý nhiều đến là Hỉ (Mừng) chẳng được
êm ả cho lắm. Nơi cái điều mà ta gọi là Hỉ (Piti, mừng)
đó có một loại kích thích, hay xáo trộn. Chỉ khi nỗi mừng
(pìti) đó trở thành niềm vui (sukha), bấy giờ nó mới an
tịnh lại. Nỗi mừng, hay là Hỉ (Pìti) có nhiều cấp độ,
nhưng các cấp độ ấy đều mang đặc tánh là gây kích thích,
khiến cho tâm (citta) bị giao động. Còn Lạc, niềm vui (sukha),
đối ngược lại, làm tâm trở nên êm dịu. Đấy là điểm
sai biệt giữa Mừng và Vui, giữa Hỉ và Lạc, giữa Pìti và
Sukha.
Giờ
đây ta đã sẵn sàng để thực tập bước một và bước
hai của bộ bốn thứ nhì (2nd tetrad) -- thể nghiệm Hỉ (Pìti
patisamvedi) -- có nghĩa là ta quán tưởng Hỉ (= Piti = nỗi mừng),
mỗi khi ta thở vào và thở ra. Ta phải luôn luôn canh chừng
cho đến khi nỗi mừng (pìti= Hỉ) khởi lên vào lúc ta thành
công trong việc làm êm dịu thân hành (tức là hơi thở) lại.
Bạn hãy khám phá xem cảm thọ mừng đó ra như thế nào. Hãy
thể nghiệm nó trọn vẹn. Lấy nó làm đối tượng quán tưởng
mới cho tâm. Khi quán tưởng nỗi mừng (Hỉ) đó, tâm (citta)
sẽ bị thu hút vào trong nó, cũng tựa như là tâm nhứt điểm
(Ekaggatà). Tâm tư hoàn toàn thấm nhập vào đối tượng duy
nhứt là Hỉ (Pìti, nỗi mừng).
Từ
trước đến giờ, ta đã quan sát một số đối tượng như
hơi thở dài, hơi thở ngắn, tất cả thân, và làm êm dịu
các thân. Giờ đây, ta chuyển sang Hỉ, nỗi mừng (Pìti). Cái
Hỉ nầy có năng lực khích động. Nó khiến cho tâm tư giao
động, run rẩy, và xúc động. (...) Khi bằng lòng, thì bị
kích thích ra sao? Khi thoả mãn, sự kích động lên đến độ
nào? Và lúc ngây ngất, tâm tư bị sự kích thích tràn ngập
tới đâu? Hãy tìm quan sát cho kỹ để, tự bạn, bạn khám
phá ra được. Tâm tư chuyên chú vào nỗi mừng (pìti) và thể
nghiệm nó trọn vẹn, mỗi khi ta thở vào và mỗi khi ta thở
ra. Đây là cốt lõi của việc thực tập nơi bước thứ năm.
Nói
cho gọn hơn nữa, mỗi khi ta thở là ta thể nghiệm nỗi mừng
(Pìti, Hỉ). Thở vào và thở ra, thể nghiệm trọn vẹn cảm
thọ mừng (= bằng lòng) và đồng thời có sự hay biết về
hơi thở vào và về hơi thở ra. Khi thực tập bước nầy,
một cảm giác thật thích thú về an lạc sẽ khởi lên bên
trong ta. Công việc đang làm khá ngộ nghĩnh, và cũng rất thích
thú vậy. Xin bạn hãy cố tập thử bước thứ năm nầy xem.
Nghiên
cứu hương vị của hỉ (Pìti, mừng).
Mỗi
lúc ta thở với sự thể nghiệm về nỗi mừng (Pìti = Hỉ),
đó là ta đang vừa nghiên cứu học và đang vừa luyện tập.
Lúc trước, ta luyện tập và nghiên cứu trong khi thở dài
hơi, thở ngắn hơi, và các hơi kế tiếp. Giờ đây, ta nghiên
cứu và luyện tập ngay trong khi thể nghiệm nỗi mừng (Pìti,
Hỉ) trong tâm tư. Mừng đó như thế nào? Nó có nặng nề
không? Nó có nhẹ nhàng không? Có thô phù không? Nó tế nhị
như thế nào? Đó là điều mà ta gọi là "nếm hương vị
của Hỉ, của nỗi mừng (Pìti)". Đặc biệt phải nên biết
rõ ảnh hưởng của hương vị đó đến tâm tư, hoặc đến
các ý tưởng. Hãy nghiên cứu để hiểu thấu được bản
thể của Hỉ, của nỗi mừng (Pìti), cũng giống như cách
ta đã nghiên cứu trước đây, cho đến khi nào ta hiểu thật
rõ ràng về bản thể của hơi thở trong việc thực tập về
bộ bốn thứ nhứt (1st tetrad). Đó là cách thực tập về
bước thứ năm nầy.
Điều
quan trọng nhứt cần phải nghiên cứu và quán sát là sức
mạnh của nỗi mừng (Pìti, Hỉ) đã ảnh hưởng đến tâm.
Nỗi mừng đã ảnh hưởng lên tâm và lên các ý tưởng như
thế nào? Hãy quán sát thật cẩn thận xem tâm như thế nào,
khi Mừng chưa khởi lên. Một khi Mừng đã khởi sanh lên, thì
tâm ra làm sao? Có hiệu lực như thế nào, khi mừng nhiều?
Tâm tư ra sao, khi mừng ít? Khi nỗi mừng quá mạnh, như trong
trường hợp ngất ngây, thì tâm trạng bị ảnh hưởng kích
thích nhiều đến mức nào? Hãy nghiên cứu hình thức thô
phù, trung bình và tế nhị của một nỗi mừng, để thấy
cho rõ chỗ chúng khác biệt nhau. Rồi xét xem ảnh hưởng của
chúng lên tâm tư khác nhau thế nào. Đây là điểm then chốt
của sự thực tập bước thứ năm.
Sau
chót, ta nhận định ra được Hỉ, nỗi mừng (Pìti)đã kích
thích tâm tư theo một cách thô phù. Hỉ (Pìti) chẳng có được
cái hiệu lực thanh lọc và tế nhị của Lạc (Sukha) mà ta
sẽ xét tiếp theo sau đây. Ngay tại bước nầy, bạn phải
nên biết rõ bản thể, sự kiện và bí ẩn của hiện tượng
được gọi là Hỉ, là nỗi mừng, là Pìti. Hãy quán sát mối
tương quan giữa nó với tâm tư, mãi cho đến khi nào bạn
thật sự quen thuộc với sự thể nghiệm ấy.
Lạc
(Sukha, niềm vui) làm dịu tâm tư.
Giờ
đây, ta đi đến bước thứ nhì của bộ bốn thứ hai (2nd
tetrad), đúng ra là bước thứ sáu nếu kể chung lại hết.
Đây là bước thể nghiệm Lạc (sukha patisamvedi) trong đó ta
sẽ quán tưởng lạc (sukha, niềm vui), cùng với mỗi hơi thở
vào và với mỗi hơi thở ra. Hãy đặt tiêu điểm của việc
quan sát vào Lạc, (Sukha, niềm vui) trên phương diện Lạc (Sukha,
niềm vui ) nầy là kết quả của nỗi mừng (Pìti). Khi Hỉ
(Pìti, nỗi mừng) đã hết kích thích tâm tư (citta)theo cách
thô phù của nó, thì nó giảm bớt năng lực. Nói cách khác,
Hỉ đó đã lắng dịu lại, rồi biến thái để trở thành
Lạc (Sukha, niềm vui).Ta sẽ thấy cả hai cảm thọ đó: nỗi
mừng và niềm vui, rất khác nhau. Cái niềm vui (tức là lạc,
Sukha) đó chẳng kích thích hay khích động nữa, mà trái lại,
nó làm cho lắng dịu và êm ả lại. Tại đây, ta quán tưởng
Lạc (Sukha, niềm vui) như một tác viên khiến cho tâm (citta)
trở nên an tịnh. Thông thường, thì Hỉ che mờ Lạc; khi Hỉ
đã phai nhạt thì Lạc vẫn còn duy trì. Cảm thọ thô phù
nhường chỗ cho cảm thọ tế nhị. Bạn hãy nếm hương vị
của Lạc, của niềm vui, ngay trong mỗi hơi thở vào, ngay trong
mỗi hơi thở ra. Đây là cốt lõi của bước thứ sáu.
Trong
khi tâm tư đang quán tưởng về Lạc, niềm vui (Sukha), ta nghiên
cứu và tập luyện cũng giống như ta đã làm về hơi thở
và về Hỉ, nỗi mừng (Pìti). Cảm thọ Lạc nhẹ nhàng như
thế nào? Nó có nặng nề không? Nó có thô phù không? Nó tế
nhị như thế nào? Cảm thọ Lạc đã mang hương vị nào đến
cho sự tỉnh giác và sự thể nghiệm? Trong ngôn ngữ Thái
và Pali, người ta dùng động từ "uống" để diễn tả sự
thể nghiệm đó. Vậy, bạn hãy uống, hãy nếm cái hương
vị của Lạc, của niềm vui đó, ngay trong khi bạn thở vào
và thở ra. Đồng thời, cũng nghiên cứu bản thể của nó
và sự thật về nó.
Ta
thấy rõ dễ dàng rằng, khi sức mạnh của Hỉ, của nỗi
mừng (Pìti), khởi lên thì hơi thở trở nên thô phù. Khi ảnh
hưởng của Lạc, của niềm vui (Sukha) đã trở nên rõ rệt
thì hơi thở lại lắng dịu xuống. Ta có thể nói ngay rằng,
khi Hỉ bộc lộ sức mạnh của nó ra, thì tấm thân thể chất
nầy trở nên thô phù. Lại còn có ảnh hưởng của Hỉ đến
tâm (citta) nữa. Khi Hỉ (Pìti) càng mạnh bao nhiêu thì nó khuấy
động tâm tư cũng mạnh đến chừng ấy, trong khi đó thì
ảnh hưởng của Lạc (Sukha) là xoa dịu và làm thư giãn tâm
tư (citta). Cả hai cảm thọ: Hỉ và Lạc, nỗi mừng và niềm
vui, Piti và Sukha, trái ngược nhau như thế. Đó là điều mà
bạn phải nên quán sát cho thật kỹ khi gặp được cơ hội,
tức là, ở mỗi hơi thở vào và ở mỗi hơi thở ra.
Để
tóm tắt lại, khi Hỉ (pìti) và Lạc (sukha) khởi lên, thì
chúng có ảnh hưởng đến hơi thở. Cảm thọ nầy làm hơi
thở thô phù, còn cảm thọ kia làm hơi thở êm dịu. Chúng
có ảnh hưởng khác nhau lên trên tấm thân thể chất. Cảm
thọ nầy làm thân thể trở nên thô phù, trong khi đó cảm
thọ kia làm lắng dịu thân thể. Chúng lại có những ảnh
hưởng khác nhau đối với tâm tư. Cảm thọ nầy kích thích
tâm trong khi đó cảm thọ kia làm tâm an định. Khi nào bạn
nắm vững được sự phân biệt đó, qua chính sự thể nghiệm
của bạn, chớ chẳng phải qua sự suy tư suông về điều
ấy, thì bạn mới thật sự thành công trong việc thực tập
bước thứ sáu nầy.
Sau
đây, có vài sự khó khăn. Trong khi ta quán tưởng về Lạc
(sukha), thì Hỉ (pìti) có thể lại xen vào. Hỉ khởi lên mạnh,
khiến cho Lạc phải biến mất đi. Do đó, ta cần phải phát
triển khả năng duy trì cảm thọ Lạc cho thật lâu để ngăn
ngừa chẳng cho cảm thọ Hỉ bước vào. Hỉ mạnh mẽ hơn,
và thô phù hơn Lạc. Nếu có Hỉ xen vào thì sự quán tưởng
về Lạc bị làm hư hỏng và sự an tịnh thật sự sẽ chẳng
khởi lên. Ta phải nên cố gắng đưa một nỗ lực "tuyệt
kỹ" vào trong sự quán tưởng để cho Lạc chẳng bị phai
nhạt đi.
Đừng
để cho bất cứ cảm thọ nào khác xen vào. Nơi bước nầy,
có lẽ ta sẽ được chan hoà trong niềm hoan lạc. Vi diệu
thay khi thành công trong việc thực tập bước thứ sáu nầy!
Thể
nghiệm Tâm hành.
Giờ
đây, ta đến bước thứ bảy: "thể nghiệm tâm hành (cittasankhàra
patisamvedi)". Nếu ta đã thực tập thành công cả sáu bước,
thì nay ta đã biết rõ tất cả về các cảm thọ Hỉ và Lạc
(pìti và sukha). Khi Hỉ khởi lên, nó gây ảnh hưởng nào đến
Tâm (citta)? Còn Lạc khởi lên, gây ảnh hưởng nào đến Tâm?
Loại ý tưởng nào được Hỉ điều kiện hoá? Loại ý tưởng
nào chịu ảnh hưởng của Lạc? Ta đã ghi nhận và chiếu
rọi thật kỹ lưỡng vào các tác dụng đó kể từ bước
thứ năm và bước thứ sáu. Một khi đến bước thứ bảy
nầy, cũng dễ cho ta nhận thức ra rằng: "Ồ! Hỉ và Lạc
cũng đều là các tâm hành." Các cảm thọ nầy (vedanà) đều
là các tâm hành, cũng giống như cách mà các hơi thở đều
là các thân hành vậy. Phương pháp quan sát và nghiên cứu
ở đây cũng chẳng khác với phương pháp ở bước thứ ba.
Ta
đã quan sát thấy Hỉ thì thô phù và bị kích thích, còn Lạc
thì tế nhị và an hoà. Như thế, khi Hỉ điều kiện hoá hoặc
nhen nhúm lên một ý tưởng, thì ý tưởng ấy sẽ trở nên
thô thiển. Mặt khác, khi Lạc nhen nhúm một ý tưởng nào,
thì ý tưởng đó lại êm dịu và yên ổn. Đây là cách mà
ta nhận thức ra các cảm thọ (vedanà) đã điều kiện hoá,
đã gây ảnh hưởng đến, các tư tưởng. Và ta cũng nhận
định được rằng, cảm thọ điều kiện hoá cả hai loại
tư tưởng thô và tế. Ta gọi tác động đó là sự "diều
kiện hoá tâm trí".
Khi
nỗi mừng, Hỉ, (Pìti) mạnh mẽ thì nó tạo nên sự rung động
trong thân thể. Và khi nó trở nên thật mãnh liệt thì toàn
thân có thể nhảy nhót lên mừng rơn. Cảm thọ nầy thô phù
và mạnh bạo. Mặt khác, Lạc, niềm vui (Sukha) làm cho êm dịu,
xoa nhẹ, và thư giãn. Ta học được các đặc tánh của chúng
rất khác biệt nhau. Khi Hỉ ngự trị trong tâm thì chẳng thể
nào nghĩ đến các tư tưởng tế nhị được. Ta cảm thấy
ngứa ngáy, lâm râm khắp châu thân, khiến cho tóc lông phải
dựng lên. Vì thế, ta cần phải có đủ khả năng để kiểm
soát Hỉ (Pìti). Đối lại, Lạc (Sukha) lại có nhiều ưu điểm.
Nó đưa tới các tâm trạng tĩnh lặng. Nó thúc đẩy các tư
tưởng tế nhị, sâu xa và thanh tịnh. Hai cảm thọ: nỗi mừng
(Pìti, Hỉ) và niềm vui (Sukha, Lạc) dường như thể là kẻ
thù của nhau, chống đối nhau. Nhưng điều nầy chẳng quan
trọng cho lắm, vì ta đã biết cách điều chỉnh chúng được
rồi. Ta đủ khả năng để kiểm soát chúng bằng cách luyện
tập theo phương pháp mà ta đang thực tập đây. Đây chỉ
để thêm một chút hiểu biết rành rẽ, vừa đủ về các
tâm hành (citta sankhàra) mà thôi.
Thân
hữu và thù nhơn.
Mặc
dầu vậy, ta vẫn cần nên quán sát và thông hiểu thêm một
bí ẩn khác nữa. Hai cảm thọ đó phải cùng một lượt khởi
lên; có nghĩa là, nếu ta chẳng bằng lòng, chẳng được thỏa
mãn, thì sự vui vẻ chẳng khởi lên. Sự bằng lòng tạo nên
sự vui vẻ, sự hân hoan lại khởi lên từ sự thoả mãn.
Sự bằng lòng và sự thoả mãn là nhóm hiện tượng tâm linh
mà ta gọi là Pìti, Hỉ, đó là nhóm cảm thọ kích động
thích thú. Mặc dầu sự vui vẻ và sự hân hoan đều thuộc
nhóm cảm thọ có tánh cách xoa dịu, nhưng chúng chẳng thể
sanh khởi khi vắng bóng sự thoả mãn. Bạn có thể quan sát
để thấy rõ, bất cứ trong một biến cố nào có sự vui
vẻ thì trước đó phải có sự thoả mãn xảy ra. Hỉ (Pìti)
đi dẫn đầu. Khi đang thể nghiệm sự thành công, ta được
thoả mãn, bị kích thích và bị giao động bởi sự thành
công đó. Một khi Hỉ đã giảm bớt cường lực, khi tâm tư
đã bắt đầu mệt chán với sự xao động và kích thích đó,
thì Lạc vẫn còn duy trì ở đó. Tình cảm lắng dịu xuống.
Vậy, cả hai cảm thọ đó đều là với thân hữu nhau, mà
lại cùng chống đối nhau. Chúng là thân hữu với nhau, vì
chúng phải khởi lên một lượt: phải có sự bằng lòng trước
rồi mới có được sự vui vẻ. Ta nên thận trọng về điều
nầy. Ta cần phải ứng phó với chúng theo một đường lối
tế nhị và thanh tịnh. Đấy cũng như là một nghệ thuật
vậy. Một nghệ thuật tâm linh khéo léo để kiểm soát Hỉ
và Lạc (Pìti và Sukha) khiến chúng làm lợi ích cho đời ta.
Đó là điều bí ẩn về Hỉ Lạc mà ta cần phải biết rõ.
Tới
đây, ta khám phá ra được rằng Hỉ (Pìti) là kẻ thù của
sự quán tưởng (vipassanà), trong khi đó thì Lạc lại chẳng
như thế. Sự vui vẻ, hân hoan là thân hữu, ủng hộ cho sự
quán tưởng (vipassanà). "Vipassanà" có nghĩa là "thấy rõ ràng",
có đưọc sự hiểu biết trực tiếp thẳng vào chơn lý của
vô thường (aniccam, chẳng thường còn), khổ sở (dukkham, bất
toại nguyện) và vô ngã (anatta, chẳng có tự ngã). Ta cần
phải có một tâm trí thật thanh tịnh để nhận thức ra được
vô thường, khổ sở và vô ngã (aniccam, dukkham, và anatta),
xuyên qua sự quán tưởng (vipassanà). Nếu Hỉ (Pìti) khởi
lên, sự quán tưởng (vipassanà) chẳng thể nào phát động
được. Tâm trí bị che mờ và trở nên giao động. Cần phải
vẹt bỏ Hỉ qua một bên, vì nó là kẻ thù của sự quán
tưởng (vipassanà), là kẻ thù của cái nhìn trong sáng và tế
nhị của tâm. Trái lại, Lạc thì chẳng như thế. Lạc xoa
dịu và lắng êm, nó khiến cho tâm tư trở linh hoạt và sẵn
sàng để quán tưởng. Vì lẽ nầy, ta cần phải có khả năng
điều chỉnh Hỉ và Lạc.
Sau
cùng, ta sẽ nhận thức rằng cả hai cảm thọ Hỉ và Lạc
(Pìti và Sukha) đều là những tâm hành. Khi Hỉ điều kiện
hoá tâm (tức là gây ảnh hưởng đến tâm) thì tâm (citta)
trở nên thô phù và các tư tưởng cũng thô phù theo. Khi Lạc
điểu kiện hoá và ủng hộ tâm, thì tâm trở nên tế nhị
và an tịnh, rồi các tư tưởng trong tâm cũng tế nhị và
an tịnh theo. Cả hai loại cảm thọ đều có ảnh hưởng đến
tâm (điều kiện hoá), nhưng ở các khía cạnh khác nhau. Các
cảm thọ (vedanà) tạo nên điều kiện gây ảnh hưởng đến
tâm, vì thế cho nên chúng được gọi là các tâm hành (citta
sankhàra.
Khi
sự kiện vừa nói trên đã được ta khám phá ra, ta liền
quán tưởng đến nó trong tâm ta, theo mỗi hơi thở vào, ra.
Thở vào rồi thở ra với sự xác tín về sự kiện đó. Đấy
là công việc của sự thực tập bước thứ bảy.
An
tịnh các cảm thọ.
Bước
thứ tám là làm "an tịnh các tâm hành (passambhayam cittasankharam)"
trong khi thở vào và thở ra. Hãy làm cho các tâm hành, tức
là các cảm thọ (vedanà) trở nên êm diu và an hoà. Giảm bớt
cường độ của chúng trong khi thở vào và hạ thấp năng
lực của chúng trong khi thở ra. Ta cần phải có đủ khả
năng làm an tịnh các cảm thọ, thì ta mới có thể thể nghiệm
được điều đó mỗi khi thở vào và thở ra.
Có
nhiều đường lối làm giảm bớt cường độ của các cảm
thọ (vedanà). Hạ thấp năng lực của chúng hoặc chấm dứt
chúng hoàn toàn chẳng phải là việc chẳng thể làm được.
Có hai cách để chúng ta xử dụng: (1) phương pháp Định lực
(Samàdhi) và (2) phương pháp Bát nhã (Panna).
Phương
pháp Định lực.
Sức
xung động của Hỉ (Pìti) có thể được làm êm dịu lại
với phương pháp định lực (samàdhi) bằng cách phát triển
tình trạng thiền định lên một cấp cao hơn, để loại bỏ
Hỉ và Lạc (Pìti và Sukha) ra. Hiện nay có lẽ ta còn chưa
đủ khả năng để làm được như thế, bởi vì chúng ta vừa
mới bắt đầu thực tập. Tuy nhiên, vẫn có bí quyết để
gạt bỏ các cảm thọ đó bằng cách đạt đến một giai
tầng cao hơn của thiền định, như Tam thiền hoặc Tứ thiền
chẳng hạn. Nhưng, ta vẫn có thể vẹt Hỉ qua được, bằng
cách thay đổi tư tưởng của ta. Hãy đưa vào tâm một loại
tư tưởng khác, để can thiệp và loại trừ cái cảm thọ
bằng lòng (Hỉ) đó. Cả hai cách, cách nào cũng xử dụng
đến năng lực của Định lực. (...) Thông thường, chẳng
cần phải gạt bỏ Lạc (Sukha) ra. Đúng ra thì ta cần giữ
lại Lạc để hỗ trợ cho sự thực tập tiếp theo về sau.
Ở đây, ta đặc biệt cần phải kiểm soát Hỉ. Ta kiểm soát
được Hỉ với các kỹ thuật của Định lực, hoặc bằng
cách thay đổi đối tượng quán chiếu trong tâm, hoặc đạt
đến một tình trạng thiền định cao hơn. Hai cách đó, cách
nào cũng khiến cho Hỉ lắng dịu xuống.
Ta
có thể khẳng định rằng, khi biết dùng ý nghĩa chơn thật
của danh từ định lực (Samàdhi) thì ta có thể đẩy Hỉ
lui ra xa. Ý nghĩa thật sự của danh từ Samàdhi, định lực,
là "đạt tới tâm nhứt điểm (Ekaggatà citta) với Niết-bàn
(Nibbàna) làm đối tượng". Chúng tôi có giải thích, ekaggatà
citta, tâm nhứt điểm là tình trạng tâm tập trung lại, qui
vào một đỉnh tuyệt cao. Định lực chơn thật lấy Nibbàna
(Niệt bàn hay là tịch diệt, santi), làm đối tượng. Giờ
đây, cái cảm thọ Hỉ đó gây thêm rắc rối, xáo trộn và
khó khăn, thì ta hãy đuổi nó đi. Ta nhắm vào mục tiêu là
tâm nhứt điểm với tịch diệt (santi) hay Niết-bàn (Nibbàna)
làm đối tượng. Cảm thọ Hỉ tan biến đi vì ta đâu thèm
đến nó nữa. Đó là một phương tiện khéo léo: dùng Định
lực để đẩy Hỉ lui ra xa.
Phương
pháp bát nhã (trí huệ).
Giờ
đây tới phương pháp Bát nhã, để làm giảm cường độ
của Hỉ (Pìti), để xoá bỏ ảnh hưởng của Hỉ, hoặc của
Lạc, nếu muốn. Ta xử dụng Bát nhã (Panna) nhận thức được
bản thể chơn thật (đặc điểm, tánh chất, điều kiện)
của mọi sự vật do đấy mà Hỉ khởi lên và nguyên nhân
nào làm cho nó biến diệt. Hỉ bộc phát lên, khi có điều
kiện thoả ý được thực hiện đúng đắn. Nó sẽ biến
diệt đi, do sự khiếm khuyết điều kiện đó, do vì nhận
thức được nó chỉ là ảo giác, chớ chẳng phải là chơn
thật. Một khi ta thấy được rõ như thế, cảm giác bị Hỉ
khuấy động, và sẽ từ từ mất dần.
Một
phương pháp khác của Bát nhã là sự phân biệt rõ ràng giữa
vị ngọt (assàda) và nguy hiểm (àdìnava) của Hỉ. Vị ngọt
(Assàda) tức là tánh chất hấp dẫn của một sự vật, vẻ
duyên dáng ngon ngọt cám dỗ của nó. Hỉ có hương vị kỳ
diệu đó. Nguy hiểm (Àdìnava) là khía cạnh tác hại trừng
phạt của sự vật. Nguy hiểm của Hỉ là việc nó kích thích
và khuấy rối, lại đẩy lùi sự yên tịnh ra xa, đấy là
điều đã làm cho nó trở nên kẻ thù của sự quán tưởng
(vipassanà). Một khi ta đã nhận biết rõ như thế, thì Hỉ
tan rả. Nếu ta thấy rõ được sự khởi sanh, sự biến diệt,
sự duyên dáng (vị ngọt), và sự tác hại (nguy hiểm) của
Hỉ, thì nó tan rả và biến mất đi. Đây là xua đuổi Hỉ
với kỹ thuật của phương pháp Bát nhã.
Mỗi
người trong chúng ta cần nên hiểu rõ ý nghĩa của hai danh
từ Assàda và Àđìnava. Nếu bạn nhớ được tiếng Pali, thì
có lẽ tốt hơn là lời dịch. Assàda là khía cạnh hấp dẫn,
thoả thích, đáng yêu, làm say đắm, hay quyến rũ của một
sự vật nào. Àdìnava là khía cạnh thấp hèn hay tác hại
của một sự vật. Chẳng thể vịn vào cớ nào để cho hai
điều đó tới để phỉnh gạt ta. Một khi đã thấy rõ hai
điều đó rồi, thì ta biết rằng, thích thú một vật, hoặc
say đắm yêu mê nó, là một sự điên rồ tích cực. Còn đi
oán ghét một sự vật lại là một sự điên rồ tiêu cực.
Nếu đã hiểu biết rõ ràng cả hai rằng chúng luôn luôn phỉnh
gạt ta và dụ dỗ ta hoặc phải yêu mê hoặc phải thù hận,
thì bài học rút ra ở chúng, là ta chớ có dễ dãi trong hai
việc thương và ghét, và nhờ đó mà ta được giải thoát
khỏi ma lực của mọi sự vật. Thí dụ như tiền bạc có
cả hai:vị ngọt và nguy hiểm (Assàda và Àdìnava) thì ta chớ
nên để nó lung lạc mà đi lầm đường, hay là điên cuồng
theo đuổi nó mải miết.
Thông
hiểu cho thật đầy đủ về cặp Assadà với Àdìnava, tức
là cặp vị ngọt và nguy hiểm, là điều tạo nên sự an toàn
nhứt mà ta có thể biết được. Thấy biết vị ngọt và
nguy hiểm của Hỉ, bạn sẽ mệt chán với Hỉ. Rồi nó tự
bay đi mất. Đấy là cách dùng Trí huệ Bát nhã để đuổi
Hỉ đi xa. Ngay cả với Lạc (Sukha), cũng chớ nên dễ dãi.
Mặc dầu ta còn cần giữ lại đôi chút Lạc vì mục đích
hữu ích của nó, nhưng ta cũng chớ nên để bị mất hướng
vì nó. Xin bạn hãy nhớ kỹ hai danh từ Assàda và Àdìnava
nầy trong suốt khoảng đời còn lại của bạn. Chúng sẽ
trở thành một thứ linh phù để thật sự bảo vệ bạn,
chớ chẳng hề làm hại bạn.
Đến
điểm nầy, tâm trí có thể điều chỉnh các cảm thọ. Tâm
trí đã phát triển được khả năng làm chủ và tự kiểm
khiến cho các cảm thọ hết mong lôi kéo ta theo đường nầy
lối nọ. Cảm thọ Lạc, lạc thọ (sukha vedanà), tức là cái
cảm giác thích thú mà chúng ta đang bàn luận đây, thường
thu hút tâm trí theo một hướng khả ái một cách tích cực.
Còn có một loạt các cảm thọ khác trì níu ta vào đường
tiêu cực, theo một hướng chẳng đáng cho ta mong muốn hay
vừa ý.
Chúng
ta đã bàn luận đến nhóm các lạc thọ, và ta cũng nên biết
rõ thêm về các cảm thọ đau khổ, tức là nhóm các khổ
thọ (dukkha vedanà) nữa. Ta phải biết cách làm sao ngăn chặn
các cảm giác bất như ý và sầu muộn đừng đẩy ta vào
một tình trạng khổ sở (dukkha). Các khổ thọ có thể bị
ta đánh bại theo phương pháp giống như ta đã làm với Hỉ
(Pìti). Cho dầu là lạc thọ, hay khổ thọ, ta cũng có thể
kiểm soát chúng được cả. Ta chế ngự được chúng cả,
chẳng trừ loại nào. Ta thực tập bằng cách đưa bất cứ
cảm thọ nào vào tâm và thể nghiệm nó cho trọn vẹn. Rồi
với trí huệ Bát nhã ta soi chiếu nó để đuổi nó đi xa.
Bạn hãy thể nghiệm cái khả năng vứt bỏ được bất cứ
cảm thọ nào. Rồi ý thức rằng các cảm thọ chẳng còn
điều kiện hoá được tâm nữa. Hãy diễn đi diễn lại kỹ
thuật nầy với mỗi hơi thở vào và mỗi hơi thở ra, cho
đến khi nào bạn trở nên thuần thục thành một chuyên viên
về vấn đề nầy. Thế là, bạn đã thành công trong việc
thực tập bước thứ tám.
Sao
lại quá bận tâm?
Một
điểm chót là vấn đề vì sao ta lại quá bận tâm luận bàn
nhiều về các cảm thọ vậy? Tại sao lại thấy cần thiết
phải đưa các cảm thọ vào hàng các công tác của sự thực
tập? Sao lại chẳng bước ngay sang việc quán tưởng (Vipassanà)
để đạt tới Niết-bàn (Nibbàna) càng sớm càng tốt? Lý
do là ta cần phải thông hiểu về các cảm thọ (vedanà) mới
có đủ khả năng để kiểm soát tâm trí trong khi theo đuổi
việc thực tập cho tới ngày thành tựu được mục tiêu chánh
yếu là đạo quả Niết-bàn (magga phala nibbàna).
Nhưng
ta còn có một mục tiêu thứ yếu nữa. Đó là, một khi đã
điều chỉnh được các cảm thọ, có thể ta đủ khả năng
để giữ cuộc sống của ta theo con đường chơn chánh và
đứng đắn. Khi còn mê mờ về các tình cảm, ta thường rơi
vào vòng nô lệ của chủ nghĩa duy vật mà ma lực luôn luôn
bủa vây ta vào lúc ta buông thả theo các lạc thú vật chất,
tức là các hương vị của các cảm thọ. Tất cả những
cuộc khủng hoảng trên thế giới đều bắt nguồn từ nơi
những người còn chưa hiểu rõ cảm thọ (vedanà), và say mê
yêu đắm các cảm thọ. Tình cảm đã thúc đẩy ta hành động
như thế đó, để đưa đến các sự bất hoà, tranh chấp,
chống đối và cả chiến tranh nữa. Đôi khi chúng còn đưa
đến cả các trận thế chiến. Tất cả chỉ vì con người
thất bại trong việc đương đầu với sự phỉnh gạt của
cảm thọ (vedanà).
Giờ
đây, chắc các bạn đã nhận thức được rằng cần phải
thông hiểu các cảm thọ. Ta phải biết các điều bí ẩn
về chúng và vận dụng được sự điều chỉnh lấy chúng,
nếu muốn cho thế giới nầy hoà bình. Cần chi nói đến việc
chứng đắc Niết-bàn (Nibbàna) cho quá cao xa; ngay tại đây,
sống an hoà trong nội tâm và sống hoà bình với đồng loại
trên hành tinh nầy đã đòi hỏi mọi người phải đủ khả
năng làm chủ các tình cảm mình, đấy là điều mà giờ đây
chúng ta vẫn còn chưa biết cách khéo làm. Tôi hi vọng tất
cả các bạn sẽ tiếp tục khai thác lợi lạc của khả năng
đó suốt khoảng đời còn lại của các bạn. Bộ bốn nầy
sở dĩ được đưa vào sự thực tập Quán tưởng Giác niệm
về Hơi thở (Ànàpànasati) là vì tầm quan trọng rộng rãi
và mãnh lực to tát của các cảm thọ (Vedanà).
Trên
đây là bộ bốn thứ nhì (2nd tetrad) trong Pháp Quán tưởng
Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Xin
chấm dứt bài pháp thoại tại đây, vì hết giờ.