Phụ
lục 2
Thế
nào là Giác Niệm về hơi thở?
(Trích
đoạn bài Pháp thoại ngày 05-04-1987)
Trước
nhứt, xin biết cho rằng có rất nhiều hệ thống và phương
pháp về Vipassanà, Minh sát (sự quán tưởng để nhận thức
được vô thường, khổ sở và vô ngã) dưới các danh xưng
khác nhau. Tuy nhiên, trong tất cả loại đó, chúng tôi chuộng
nhứt một hệ thống gọi là Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Đây là một hệ thống đào luyện tinh thần (quán tưởng)
được chính Đức Phật khuyến khích thực tập. Ngày nay,
có nhiều đạo sư nầy, thiền sư nọ, về Minh sát, ở khắp
mọi nơi; nào là hệ thống Miến điện, hệ thống Tích lan,
hệ thống Thái lan, đủ cả. Chúng tôi chẳng được hiểu
rõ hết tất cả các hệ thống đó, mà chỉ lưu tâm đến
Giác Niệm về Hơi thở thôi. Ta có thể nói Giác Niệm về
Hơi thở là một hệ thống của Phật. Nó chẳng phải là
một hệ thống riêng biệt gì của Suan Mokkh; đúng ra, Suan
Mokkh đã đem hệ thống đó ra thực tập rồi giảng dạy và
truyền lại cho các người khác.
Vậy
xin ân cần giới thiệu với các bạn hệ thống Giác Niệm
về Hơi thở, đang được xử dụng tại (thiền viện) Suan
Mokkh.
Ngay
cả trong phương pháp thực tập được gọi là Giác Niệm
về Hơi thở (Ànàpànasati) cũng có nhiều hình thức giản
lược khác nhau, ngắn gọn, dễ dàng và chẳng đầy đủ.
Có nhiều thứ khác nhau, nhưng chúng tôi đã chọn một hình
thức đầy đủ. Vì thế, nó có thể xem như dài và lắm chi
tiết, nhưng lại thích hợp với những gì đầy đủ, như
trường hợp hình thức Mười sáu bước thực tập của Giác
Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati). Vài người lắc đầu cho
đó là quá dài, quá nhiều, hoặc quá rườm rà chi tiết, quá
mức cần dùng của họ. Điều đó cũng đúng, nó có thể
có phần dư thừa đối với vài người. Nhưng với những
ai muốn nghiên cứu và tập luyện cho hoàn toàn, thì nó cũng
vừa vặn đủ thích hợp với họ. Nếu muốn có được một
kỹ thuật thật trọn vẹn, ta phải học cả mười sáu bước.
Đây là một đòi hỏi của Thiên nhiên. Nếu lưu tâm đến
sự toàn vẹn, thì ta cần phải bền chí để tập luyện và
thực hành Giác Niệm về Hơi thở trong hình thức đầy đủ
của nó. Và hình thức đầy đủ thì cần phải theo đủ mười
sáu bước.
Niệm
xứ chính là Giác Niệm về Hơi thở.
(Satipatthanà
là Anàpànasati).
Một
vấn đề thông thường khác nữa là, có vài người cứ bám
níu và bị kẹt cứng một cách quá đáng vào danh từ Satipatthàna
(Niệm xứ, bốn cơ sở (= xứ) của giác niệm, hay là bốn
lãnh vực của sự tỉnh thức). Vài kẻ lại còn đi xa hơn
và cho rằng Giác Niệm về Hơi thở chẳng dính dáng gì với
bốn niệm xứ (= bốn lãnh vực của giác niêm, hay của sự
tỉnh thức). Vài người lại bác bỏ thẳng thừng Giác Niệm
về Hơi thở. Tại một vài nơi, người ta đeo dính chặt vào
danh từ Satipatthàna, Niệm xứ, thật ra đó chỉ là một bản
liệt kê dài thậm thượt về các danh xưng, các pháp môn.
Mặc dầu nơi đó có rất nhiều pháp môn, nhưng chẳng hề
có nổi một đường hướng nào để thực tập, đã được
giải nghĩa rõ ra cả. Chữ Satipatthàna, Niệm xứ, thường
được hiểu theo ý nghĩa như vậy đó. Thế rồi người ta
tu chỉnh lại, sắp xếp lại vào các cách thực tập như vầy,
như kia, để gọi các "hệ thống mới" đó là quán tưởng
về Niệm xứ, là Satipatthàna. Những kẻ tu tập theo các kỹ
thuật đó lại phủ nhận và khinh bỉ ngay cả đường lối
của Giác Niệm về Hơi thở, bảo rằng đó chẳng phải là
Niệm xứ, Satipatthàna. Thật ra, Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
chính là tinh túy của Niệm xứ, là trái tim của Satipatthàna,
là cốt lõi của cả bốn lãnh vực của Giác Niệm, của sự
tỉnh thức. Mười sáu bước của Pháp Giác Niệm về Hơi
thở là sự thực tập rõ ràng và trực diện, chớ chẳng
phải là một bản liệt kê các danh xưng hay các pháp môn như
trong bản Kinh Đại Niệm Xứ (Trường Bộ Kinh, Kinh số 22)
(Mahàsatipatthanà Sutta, Digha Nikaya, 22). Vì thế, chúng ta đừng
để mình rơi vào sự hiểu lầm rằng Giác Niệm về Hơi thở
(Ánàpànasati) chẳng phải là Niệm Xứ (Satipatthàna); bằng
không chúng ta sẽ mất hết cả hứng thú khi nghĩ rằng pháp
đó sai lầm. Bất hạnh thay sự hiểu lầm vẫn còn phổ biến.
Xin được phép nhấn mạnh lần nữa, Giác Niệm về Hơi thở
chính là tinh hoa của bốn lãnh vực của giác niệm, tức là
trái tim của Tứ Niệm xứ, dưới một thể dạng có thể
đem ra thực hành ngay được.
Chúng
tôi đã dành khá nhiều thời giờ để cứu xét các danh từ
Satipatthàna, Niệm xứ và Ànàpànasati, Giác Niệm về Hơi thở,
cũng chỉ vì muốn phá bỏ các sự hiểu lầm có thể đưa
đến các thái độ quá hẹp hòi đối với lối thực tập
của người khác. Vậy xin cứ hiểu cho rằng, dầu nói đến
Niệm xứ (Satipatthàna) hay là Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
thì cũng chỉ có bốn lãnh vực quan trọng là: thân (kàya),
cảm thọ (vedanà), tâm (citta) và Pháp (Dhamma) mà thôi. Tuy nhiên
trong Kinh Đại Niệm Xứ (Mahàsatipatthàna Sutta) chẳng thấy
có lời giải thích về cách thực tập như thế nào bốn lãnh
vực đó. Kinh nầy chỉ đưa ra các danh xưng về pháp môn và
khai triển chúng ra thôi. Thí dụ như, vấn đề thân (kàya)
chỉ nói rộng đến sự quán tưởng về niệm (sati sampajannà)
về các hoạt động thường ngày, về các tư thế (oai nghi)
và các điều khác, nhiều đến mức khó nhớ cho hết được.
Kinh chỉ liệt kê các nhóm sự vật (dhamma) có liên quan đến
bốn lãnh vực đang được cứu xét.
Mặt
khác, Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) đã chỉ thật
rõ ràng làm thế nào để thực tập bốn lãnh vực đó theo
một tiến trình tiệm tiến để rồi chấm dứt vào sự giải
thoát ra khỏi mọi Khổ sở (dukkha). Mười sáu bước thực
tập tác động lên bốn lãnh vực, mỗi lãnh vực làm phát
triển lãnh vực trước và yểm trợ cho lãnh vực sau. Khi thực
tập đầy đủ mười sáu bước, thì tinh hoa của Niệm Xứ
(Satipatthàna) sẽ khởi lên một cách hoàn mãn. Tóm lại, Kinh
Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna Sutta) chỉ là một bản liệt kê
các danh xưng; còn Kinh Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati
Sutta) có chỉ dạy cách thức thực tập bốn lãnh vực của
Niệm xứ, chẳng có chi là dư thừa, hay thêm thắt nào cả.
Kinh nầy chẳng hề nêu lên một vấn đề mà chẳng có liên
hệ đến.
Thể
dạng cô đọng .
Nếu
vài người cảm thấy mười sáu bước thực tập quá nhiều,
thì cũng được đi. Có thể cô đọng mười sáu bước đó
lại thành hai bước thôi:
1-
Bước thứ nhứt -- huấn luyện tâm (citta) cho đến mức thuần
thục tập trung được vào định lực một cách thích nghi.
2-
Bước thứ hai -- với định lực (samàdhi) đó, liền nhẹ
nhàng bước nhảy qua sự quán tưởng về vô thường (aniccam),
khổ sở (dukkham) và vô ngã (anattà) ngay.
Chỉ
có hai bước đó, được thực tập với mọi hơi thở vào
và mọi hơi thở ra, nên cũng gọi là Giác Niệm về Hơi thở
nữa. Nếu bạn chẳng thích mười sáu bước thực tập hoặc
nghĩ rằng chúng quá lý thuyết, hoặc quá nhiều để học
tập, hoặc có lắm chi tiết, thì bạn cứ tập thử hai bước
vừa nói đó. Hãy giữ tâm (citta) tập trung vào định lực
bằng cách quán sát hơi thở. Khi bạn cảm thấy định lực
đã khá đầy đủ rồi, thì hãy quan sát đến các sự vật
mà bạn đã có kinh nghiệm và đã biết rõ, để bạn có thể
nhận thức ra rằng chúng đều là vô thường đến mức nào,
bất toại nguyện đến độ nào, và vô ngã đến cấp nào,
chẳng có linh hồn như thế nào. Cũng chỉ có bấy nhiêu đó
cũng là đã đủ để đạt đến kết quả -- tức là, từ
bỏ hết, buông bỏ hết, chẳng còn bám níu chút nào nữa
hết! Và sau cùng, ghi nhận sự chấm dứt của lậu hoặc (kilesa,
phiền não) và sự tận diệt của chấp thủ (= bám níu), khi
vô thường, khổ sở và vô ngã (aniccam dukkham anattà) đã được
trông thấy ra thật là rõ ràng rồi. Vậy, bạn cứ dùng đến
thể dạng cô đọng trong hai bước nầy, nếu bạn có ý muốn
làm như vậy.
Tuy
nhiên, chúng tôi muốn bạn hiểu rõ về hệ thống thực tập
đầy đủ. Vì lẽ đó chúng tôi nói đến mười sáu bước
thực tập. Một khi bạn đã hiểu rõ tất cả mười sáu bước
đó thật đầy đủ, thì các bạn có thể tự mình rút gọn
chúng lại. Cứ việc giảm bớt đi, cho đến khi nào bạn được
thoả mãn đầy đủ để thực tập Pháp đó một cách thật
là tự tín. Bạn có thể thực tập tóm lược thành hai, hay
năm bước, hoặc cách nào mà bạn thấy thích hợp với bạn.
Đấy là đường lối mà chúng tôi giải thích Pháp Giác Niệm
về Hơi thở (Ànàpànasati) tại đây. Chúng tôi sẽ giải thích
nó một cách trọn vẹn; rồi tùy ý bạn muốn rút ngắn lại
như thế nào mà bạn thích.
Do
đó, chúng ta sẽ nghiên cứu và giải thích trọn vẹn Mười
sáu bướcthực tập thật đầy đủ, vì đường lối nầy
sẽ phát hiện được các bí ẩn của Thiên nhiên qua một
phương pháp có đủ các đặc tánh khoa học. Đây là một
khoa học mà đối tượng là sự hiểu biết một cách tự
nhiên về các sự vật được gọi là thân (kàya), cảm thọ
(vedanà), tâm (citta) và Pháp (Dhamma), theo một đường lối
tốt nhứt và đầy đủ nhứt, xuyên qua viễn tượng và phương
cách khảo sát của một khoa học thiên nhiên. Đây là một
phương pháp khoa học có thể điều chỉnh được bốn việc.
Trước nhứt hễ nghiên cứu tất cả mười sáu bước rồi,
bạn có thể lược bỏ bớt lại theo ý bạn muốn. Hãy chọn
bước nào mà bạn thấy cần. Chỉ thực tập hai, hoặc ba
bước, nếu bạn muốn. Và chỉ giữ kỹ lại hai, hoặc năm
bước tùy theo ý thích. Nhưng giờ dây, xin bạn cho phép tôi
được giải thích đầy đủ trọn vẹn mười sáu bước thực
tập.
Quán
tưỏng về Thân (Kàya nupassanà).
Mười
sáu bước thực tập được chia ra làm bốn bộ bốn (four
tetrads), tương ứng với bốn niệm xứ, tức là bốn đối
tượng căn bản của việc nghiên cứu. Giờ đây, chúng ta
sẽ bàn luận đến bộ bốn về thân, tức là sự quán tưởng
về thân (kàya nupssanà). Trong bộ bốn nầy, việc đầu tiên
bạn phải nghiên cứu và hiểu rõ, là hơi thở. Hiểu biết
tất cả các loại hơi thở, các tánh chất, đặc điểm và
ảnh hưởng của chúng. Hãy tìm biết mọi khía cạnh, mọi
phương diện của một hơi thở đứng đắn. Nói cho gọn lại
là bạn phải có được một pràna đứng đắn. Pràna là một
iếng Phạn; tương đương với chữ Pàna trong tiếng Pali. Thông
thường, chữ ấy có nghĩa là "sự sống", hoặc là "sanh lực",
hoặc là "cái điều gì đang bảo tồn và dưỡng dục sự
sống". Chúng ta cần phải có điều đó thật đứng đắn.
Chúng ta cần phải có pràna lành mạnh và đứng đắn. Rồi
thì đời ta mới được an hoà. Vì lẽ đó, cho nên ta phải
nghiên cứu kỹ lưỡng về đề mục hơi thở nầy.
Ở
Ấn độ, mỗi trường phái du già (yoga) -- và có đến cả
chục trường phái du già như thế -- đều có riêng một lối
huấn luyện liên quan đến pràna, chẳng kể bất cứ trường
phái nào. Các lối huấn luyện đó được gọi là prànayàma,
có nghĩa là "sự kiểm soát về pràna", hoặc là "sự kiểm
soát về hơi thở". Có khả năng kiểm soát được hơi thở
có nghĩa là có khả năng kiểm soát được đời sống. Khi
pràna đi vào, nó được gọi là àna; khi nó trở ra, thì được
gọi là apàna. Hiệp hai chữ lại, ta có ànàpàna, tức là,
pràna vào (nhập tức= hơi thở vào) và pràna ra (xuất tức=
hơi thở ra). Có khả năng để kiểm soát pràna là có khả
năng kiểm soát được sự vật đi vào để bảo tồn sự
sống. Rồi thì ta mới có được đời sống tươi mát và
hân hoan, sẵn sàng và thích ứng cho việc huấn luyện và thực
tập. Sự huấn luyện pràna như thế cũng được tìm thấy
trong nền Phật học. Bạn sẽ thấy rằng sự huấn luyện
pràna (Prànayàma) đã được lấy ra làm đề mục thứ nhứt
của Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati). Điều đó
chẳng có gì là chống đối chút nào với các nguyên tắc
của chúng ta. Thật ra, Pháp Giác Niệm về Hơi thở vẫn đứng
vững trước bất cứ hệ thống trường phái du già nào. Hơn
thế nữa, Pháp Giác Niệm về Hơi thở còn cải tiến cả
các hệ thống trường phái đó. Với kỹ thuật quán tưởng
về thân (kàya nupassanà), chúng ta xử dụng đến sự huấn
luyện pràna (Prànayàma) của tất cả các trường phái du già
của Ấn độ, cải tiến chúng, phát triển thêm cho hoàn hảo,
để trở thành một hình thức huấn luyện về pràna (Prànayàma)
thích ứng nhứt, và thực tiễn nhứt. Đó chính là sự quán
tưởng về thân (Kàyanupassanà), đề mục thứ nhứt của việc
chúng ta đang nghiên cứu.
Nếu
chúng ta chỉnh đốn cái thân pràna (thân hơi, tức là hơi
thở vào và ra) cho được hoàn mỹ, khiến nó trở nên tốt
đẹp, lành mạnh và yên tĩnh, thì nó sẽ làm cho tấm thân
thể chất nầy cũng trở nên tốt đẹp, lành mạnh và yên
tĩnh. Cái thân hơi đó có đủ khả năng tạo nên mối an hoà
to lớn và yên tĩnh cho cuộc đời nầy. Đó là lý do tại
sao ta cần phải nên hiểu rõ cả hai thân (kàya): tấm thân
bằng xương thịt và tấm thân hơi (hơi thở). Thế rồi chúng
ta sẽ khiến chúng trở nên tốt đẹp cho đến khi nào thấy
có được sự hoàn mỹ, sự an hoà và sự an tĩnh. Chữ "tốt
đẹp" ở đây có nghĩa là "thích nghi và phù hợp để được
xử dụng trong việc hoàn tất các công tác và nhiệm vụ."
Đề
mục cuối cùng của bộ bốn thứ nhứt là sự an định thân
hành, tức là làm cho vật bảo mạng của thân (tức là pràna,
thân hơi) được trở nên an hoà và yên tĩnh. Làm được như
thế, thì sự an tĩnh sẽ khởi lên nơi tấm thân thể chất.
Tâm (citta) cũng cảm được sự an tĩnh đó và nó cũng trở
nên an tĩnh theo. Nhờ đó mà tâm mới sẵn sàng hoàn tất được
các nhiệm vụ của nó sau nầy. Đề mục về thân, giản dị
cũng chỉ có thế. Nếu bạn chẳng muốn biết đến chừng
ấy, thì cũng tùy ý bạn, nhưng sự kiện thực tế đều đúng
là như vậy; bạn đâu mất đồng xu nhỏ nào để hiểu đến
chúng. Bạn càng hiểu rõ chúng chừng nào thì sự thực tập
càng mang lợi lạc nhiều đến cho bạn chừng ấy. Rồi có
thể là bạn sẽ được hưởng thọ về cuộc đời nầy đến
mức tối đa. Vì lẽ đó mà ta phải bắt đầu học tập về
thân (kàya) như là bộ bốn thứ nhứt của mười sáu bước
thực tập.
Xin
bạn hãy nghiên cứu kỹ lưỡng sự thật thiên nhiên sâu xa
nầy: thân hơi (pràna) là tác viên gây điều kiện ảnh hưởng
(conditioner) đến tấm thân thể chất. Bạn phải biết rõ
có hai thân (kàya), hoặc là hai giai tầng của thân (Kàya).
Mọi người đều biết rõ giai tầng thứ nhứt tức là tấm
thân thể chất, và chẳng hiểu chi nhiều về giai tầng thứ
hai, tức là thân hơi (pràna). Vì thế, việc tìm hiểu rõ về
thân hơi là việc rất quan trọng, bởi vì nó đưa tới việc
có được một tác viên gây ảnh hưởng tốt cho tấm thân
vật chất. Ở Ấn độ, việc huấn luyện pràna (prànayàma,
sự huấn luyện hơi thở) được xem như là một đề mục
cao nhứt và cần thiết nhứt để nghiên cứu. Mặc dầu các
lời giải thích của các trường phái có khác nhau, và mỗi
trường phái có lối cắt nghĩa riêng, nhưng sau cùng, tất
cả đều cô đọng lại ở điểm nầy: điều chỉnh hơi thở
(pràna) như thế nào để cho nó gây ảnh hưởng tốt đến
tấm thân vật chất theo ý ta mong muốn. Bạn nên học tập
và huấn luyện hơi thở cho khéo để có thể dùng được
nó mà điều kiện hoá tấm thân thể chất. Chúng ta đâu thể
nào trực tiếp điều chỉnh tấm thân thể chất được, nhưng
chúng ta vẫn có thể điều chỉnh nó một cách gián tiếp.
Ta học hỏi về thân hơi (pràna) và thực tập cách điều
chỉnh nó. Có đủ khả năng để điều chỉnh thân hơi cũng
tương đồng với việc điều chỉnh tấm thân thể chất,
như ý ta cần đến, tức là, làm cho tấm thân xương thịt
trở nên an hoà và yên tịnh.
Chúng
ta gắng phát triển sự hiểu biết cho đến khi nào chúng ta
có đủ khả năng để điều chỉnh được thân hơi (pràna).
Rồi chúng ta dàn xếp thế nào để có được một tấm thân
thể chất tốt đẹp, lành mạnh, sẵn sàng hỗ trợ cho tâm
(citta) đi vào định lực. Như thế, cả hai thân và tâm đều
được chuẩn bị để thực hiện các nhiệm vụ riêng của
chúng. Đấy là tất cả những gì bộ bốn thứ nhứt đang
bàn đến. Nó có đủ các đặc điểm, mục tiêu và đường
lối thực tập như thế đó. Xin bạn hãy cứu xét đến nó
cho cẩn thận. Có cần thiết làm như vậy không? Có đáng
công sức hay thời giờ để nghiên cứu và thực tập như
thế không? Nếu bạn thấy rõ đó là điều tốt nhứt mà
ta có thể làm, rằng đó đáng cho ta bỏ công ra để cố gắng,
thì bạn nên dấn thân trọn vẹn vào việc nghiên cứu và
thực tập nầy cho đến ngày thành công viên mãn. Đó là cách
làm cho có được điều tốt đẹp nhứt về sự huấn luyện
hơi thở -- prànayàma của Phật học -- xuyên qua sự thực
tập về quán tưởng minh sát (Vipassanà bhàvanà)(=sự đào
luyện về tỉnh thức, hay là sự trực nhận).
Quán
tưởng về các Cảm thọ (Vedanà nupassanà)
Giờ
đây, chúng ta đến với sự quán tưởng các cảm thọ (Vedanà
nupassanà). Chúng ta cần phải nên biết về qui chế các cảm
thọ là có ma lực, xấu ác. Thật khó kiếm được chữ để
mô tả chúng cho đầy đủ. Cảm thọ thì xấu ác, là bọn
ma quái gây nên sự tổn hại, hết sức thấp hèn, những tên
đểu cáng đã gây ra các khủng hoảng trong đời ta. Chúng
ta làm nô lệ cho các cảm thọ. Mọi người đều làm việc
cực nhọc chỉ vì để có được đồng tiền cung phụng cho
các lạc thọ (sukha vedanà, các cảm giác thích thú) Các cảm
thọ đó là chủ nhân ông của chúng ta. Chúng là bọn ma quái
xấu ác luôn luôn làm cho ta lầm lộn, tạo những khó khăn
cho ta, và làm cho đời ta thêm rắc rối, vất vả. Ta cần
phải biết rõ các cảm tho (vedanà); vì thế, ta chọn các cảm
thọ làm đề tài học tập thứ hai của Giác Niệm về Hơi
thở (Ànàpànasati).
Phải
chăng các bạn đã rời Âu châu, Mỹ châu, hay bất cứ nơi
nào mà bạn cư trú, để đến đây, ở Suan Mokkh nầy, hầu
tìm ra một thứ lạc thọ (sukha vedanà)? Có đúng vậy không?
Ngay cả khi còn ở Âu Mỹ, các bạn đã làm việc cũng chỉ
là để trưởng dưỡng các lạc thọ (sukha vedanà). Nay, các
bạn đến Suan Mokkh nầy là để tìm những điều kiện thuận
tiện, hay những phương tiện nào để có cho được lạc thọ.
Chúng ta là nô lệ cho các cảm thọ, nhứt là các lạc thọ,
vào tất cả mọi thời. Giờ đây là lúc nên tìm cách hiểu
biết cho thật rõ ràng về các cảm thọ để có thể kiểm
soát được chúng.
Trong
một vài văn kinh của hệ Pali, chữ vedanà, cảm thọ, được
mô tả như là những tâm hành (citta sanhkhàra), (the conditioners
of the mind, tức là, những yếu tố tạo nên điều kiện gây
ra ảnh hưởng đến Tâm). Tâm, ở đây, là những gì khởi
lên từ các tư tưởng, ham muốn và nhu yếu. Ta đâu có thể
nào chịu đựng mãi ảnh hưởng của các cảm thọ, chúng
ta cần phải suy nghĩ lại, tại sao phải hành động dưới
quyền lực của cảm thọ, hay theo ý nghĩa của các cảm thọ.
Chúng ta còn chưa có được tự do bên trong chúng ta, chúng
ta còn bị rơi vào quyền lực của các cảm thọ. Cảm thọ
thúc đẩy chúng ta phải hành động. Chúng ép buộc tâm, điều
kiện hoá tâm (= gây ảnh hưởng đến tâm) phải suy nghĩ và
hành động theo đúng quyền lực của chúng.
Nếu
chúng ta làm chủ được cái cảm thọ cao cả nhứt, tuyệt
đỉnh nhứt, thì rồi chúng ta cũng có thể làm chủ các cảm
thọ thấp hơn, thô thiển hơn, nhỏ bé hơn. Khi đã kiểm soát
được việc khó khăn nhứt rồi, thì việc kiểm soát các
cảm thọ nhỏ, giản dị, ấu trĩ, cũng dễ dàng thôi. Vì
lẽ đó, ta nên cố gắng đạt đến một giai tầng cao cấp
nhứt trong các cảm thọ, tức là, các cảm thọ khởi phát
từ định lực (samadhi). Rồi các bạn hãy lấy các cảm thọ
cao đó làm thành một bài học, để có thể chinh phục được
chúng. Một khi ta đã chinh phục được các cảm thọ cao đó
rồi thì chúng ta cũng chiến thắng được luôn tất cả các
cảm thọ khác. Bạn có muốn thấy cần tập thử một lần
xem ra sao chăng? Bạn sẽ phải chịu đựng những khó khăn
nào sắp khởi lên? Bạn có nên đầu tư thời giờ quí báu
của bạn vào việc thực tập nầy chăng? Xin bạn hãy bình
tâm nghĩ lại cho chín chắn.
Có
thể bạn thấy thật là "ngộ nghĩnh" khi bạn phải cố gắng
chinh phục cho được các cảm thọ cao quí đó, rồi thay vì
hưởng thọ, thưởng thức, thích thú nếm lấy hương vị
của chúng, thì bạn lại phải kiểm soát chúng, giết chúng,
và tận diệt chúng đi. Có lẽ vài bạn thấy như thế là
buồn cười! Có người lại tưởng đó chỉ một câu chuyện
khôi hài, cố tìm cho được một cảm thọ thật cao quí rồi
chỉ để kiểm soát được nó và để giết tiêu nó luôn
đi! Xin các bạn hãy thận trọng suy nghĩ lại cho kỹ và cho
chín chắn về điểm nầy. Bù lại việc giết chết một cảm
thọ thật cao quí đó, chúng ta sẽ thủ đắc được một
cái gì còn cao cả hơn, hoàn mỹ hơn, hơn cả cái cảm thọ
cao quí trước đó. Chúng ta sẽ được một thứ cảm thọ
đặc biệt, ở một giai tầng cao xa hơn, cho đến nổi ta chẳng
thể gọi đó là một cảm thọ nữa, mà là một chút gì tựa
như Niết-bàn (Nibbàna), hay là sự giải thoát. Vậy bạn chớ
nên xem đó là một trò đùa, hay một câu chuyện khôi hài,
cái công tác mà ta đã bỏ công ra đi tìm kiếm và để rồi
lại giết chết hết đi các cảm thọ cao quí đó.
Quán
tưởng về Tâm (Citta nupassanà)
Bộ
bốn thứ ba là sự quán tưởng về tâm (citta nupassanà). Mục
tiêu của bộ bốn nầy là tìm hiểu thật rõ các loại tâm
và biết được chúng ra như thế nào. Rồi chúng ta sẽ huấn
luyện tâm sao cho nó biết đi theo con đường đứng đắn mà
đáng lẽ lúc nào nó cũng phải theo như thế. Ta thanh lọc
tâm, gom tâm ý tập trung lại và thúc đẩy tâm hoạt động.
Ta khiến tâm trở nên một loại tâm thích ứng và sẵn sàng
để hoàn tất các nhiệm vụ cao cả của nó. Tâm phải được
đặt trong tình trạng luôn luôn sẵn sàng để thi hành các
bổn phận còn lại của nó, nhứt là việc tiêu trừ sự khổ
sở (dukkha). Trong bộ bốn nầy, chúng ta nghiên cứu về tâm
cho đến lúc nào ta có thể đặt nó dưới quyền kiểm soát
của ta. Rồi chúng ta sẽ xử dụng tâm ấy để thi hành nhiệm
vụ kế tiếp còn cần phải hoàn tất, cho đến khi chúng ta
đạt tới được một mức cao nhứt về bổn phận.
Quán
tưởng về Pháp (Dhamma nupassanà)
Bộ
bốn thứ tư là sự quán tưởng về Pháp (Dhamma nupassanà),
liên quan đến sự thông hiểu thấu suốt về tất mọi sư
vật mà chúng còn đang bị lệ thuộc vào. Ý nghĩa của việc
nầy rất quan trọng. Hiện giờ, chúng ta cứ bám níu vào sự
nầy, vật nọ, khiến chúng ta trở nên nô lệ của các sự
vật đó. Do đó, chúng ta cần phải tìm biết sự thật về
các sự vật để có thể chấm dứt tình trạng lệ thuộc
của chúng ta vào chúng. Đó là ý nghĩa của việc quán tưởng
các Pháp (Dhamma nupassanà). Hãy tìm biết cho rõ ràng Sự thật
về các sự vật mà chúng ta còn đang bám níu vào. Phải biết
rõ Sự thật đó cho đến khi nào tâm biết buông bỏ mọi
bám níu (= cố chấp, chấp thủ), cho đến khi mọi sự bám
níu còn vướng lại đều tan rả hết.
Trên
đây là những điều mà ta cần thông hiểu về sự quán tưởng
về Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati vipassanà), với
mục tiêu là loại bỏ tất cả mọi vấn đề khó khăn, chỉ
để cho mình khỏi bị thành một tên nô lệ cho bất cứ sự
vật gì trên cõi thế gian nầy nữa, và để cho mình có thể
sống một cuộc đời thanh lương và an hoà đến mức tuyệt
đỉnh. Ngay trong cõi đời nầy, đã có sự thanh lương, và
đó là hoa quả của việc thực tập. Pháp nầy chính là chiếc
xe đưa ta đến sự thanh lương của cuộc đời, một đời
sống tươi mát; đấy chính là sự minh sát (Vipassanà) được
thực tập theo đúng với các nguyên tắc của Pháp Giác Niệm
về Hơi thở (Ànàpànasati).