Phụ
lục 4
Phần
Đúc kết của Tỳ kheo Santikaro
(Trích
đoạn Phần Đúc Kết của Tỳ kheo Santikaro,
người
đã thông dịch từ tiếng Thái sang Anh ngữ.)
Hôm
nay, tôi xin cố gắng ôn lại và thêm vào vài điểm của Pháp
sư Phật Lệ (Ajahn Buddhadàsa) mà tôi nghĩ có lẽ các đạo
hữu người Tây phương có thể gặp khó khăn hay dễ lầm
lẫn. Đây chỉ là đôi điều gợi ý hay là vài mẹo vặt
có thể dùng để thiết lập sự thực tập Giác Niệm về
Hơi thở (Ànapànasati). Phần còn lại có liên quan đến Chánh
Kiến (Sammà ditthi). Thái độ của chúng ta có đứng đắn,
thì việc thực tập Giác Niệm mới trở nên đứng đắn để
đưa đến sự dập tắt các Khổ sở (dukkha) qua sự chấm
dứt các chấp thủ (= các sự bám níu). Mặc dầu tôi chẳng
phải là một thiền sư, nhưng các chi tiết nầy cũng có thể
giúp ích được các bạn một cách thực tiễn.
Tiến
triển tự nhiên và thực tập cố ý.
Tôi
xin bắt đầu với một sự phân biệt thường bị bỏ quên.
Khi chúng ta nói Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati), chúng
ta cũng nói đến sự tiến triển tự nhiên của tâm trí, của
đời sống con người. Sự tiến triển tự nhiên đó chẳng
phải là cùng một việc với sự thực tập quán tưởng, mặc
dầu cả hai cùng khởi lên với nhau và hỗ trợ cho nhau. Mười
sáu bước của Giác Niệm về Hơi thở được đặt trên căn
bản quán sát mười sáu đề mục (bao gồm cả hơi thở, nhưng
chẳng giới hạn vào hơi thở) trong khi chúng ta có ý thức
về hơi thở vào và hơi thở ra. Trong việc chúng ta nghiên
cứu về đời sống, chúng ta đặt tiêu điểm lên mười sáu
đề mục linh động đó. Cùng một lúc, mười sáu đề mục
đó khởi lên, một cách tự nhiên, từ sự huấn luyện về
tâm (citta bhàvanà). Tâm trí phải noi theo một con đường tiến
triển nào đó, từ điểm tâm trí đang hiện diện để đi
đến điểm được gọi là "giác ngộ". Với tất cả chúng
sanh, con đường tiến triển đó giống nhau, một sự tiến
triển tự nhiên vừa là bổn phận vừa là đặc quyền của
tất cả chúng ta. Giác Niệm về Hơi thở chẳng phải là sự
tiến triển đó, đúng ra Giác Niệm về Hơi thở là sự khảo
sát và sự trưởng dưỡng của sự tiến triển tự nhiên
đó. Khi sự tiến triển đó khởi lên, và nó đã bắt đầu
rồi, chúng ta dùng Giác Niệm về Hơi thở để học tập và
tìm hiểu về nó. Xuyên qua sự thông hiểu đó (về sự tiến
triển tự nhiên) chúng ta có thể dùng Giác Niêm về Hơi thở
để hỗ trợ, trưởng dưỡng, và thúc đẩy sự tiến triển
đó tiến lên theo. Như thế, sự thực tập và các tiến bộ
thu hoạch đều liên hệ hỗ tương nhau, và chẳng thể tách
rời nhau ra, mặc dầu chúng chẳng phải là đồng nhứt với
nhau.
Người
ta thường lầm lẫn hai điều vừa nói đó. Ta thường nghe
thốt lên: "Ồ! Tôi đang ngất ngây, tôi đang có hỉ (pìti),
tôi đang được bằng lòng, thì tôi phải đang ở bước thứ
năm." Sự lầm lẫn đó có thể xảy ra ở mọi bước thực
tập khác và vài người lại nghĩ rằng họ đã có thể thi
hành hết cả trong một buổi ngồi tập ngắn ngủi. Cái cảm
giác bằng lòng đó, cũng như các đối tượng khác, sẽ khởi
lên, đến rồi đi, vào mọi thời, như là một yếu tố của
tiến trình tự nhiên đang tiếp diễn. Tuy nhiên, trong bước
thứ năm, chúng ta mới bắt đầu làm việc với hỉ (pìti)
thật là vào đúng lúc, vì sau khi thực tập xong đầy đủ
cả bốn bước (của bộ bốn thứ nhứt) thì hỉ mới khởi
hiện lên rõ ràng và vững vàng. Ngay cả khi thực tập bước
thứ nhứt, cảm giác bằng lòng cũng đã khởi lên cùng với
niềm vui (lạc, sukha). Thế thì đâu có gì mà phải thích rộn
lên như thế. Chúng ta cũng lại có thể có ý thức về sự
vô thường, ngay cả trong bước thứ nhứt, nhưng đó còn chưa
phải là đã đến với bước thứ mười ba, trừ phi lúc ấy
ta đang cố ý quán tưởng về sự vô thường. (Trong trường
hợp vô thường, nếu đó là một chiếu kiến (insight) nom
thấy thật rõ ràng với Trí huệ, chớ chẳng phải chỉ là
sự tự nhũ thầm tưởng tượng ra như thế, thì cũng đáng
cho ta tiến lên ngay. Tuy nhiên, với mười hai bước đầu tiên,
tốt nhứt là nên tập từng bước một, từ bước, mỗi bước
một lần). Vào mỗi một lúc nào đó, chúng ta có ý định
chỉ thực tập một bước đặc biệt nào đó, hoặc một
đề mục đặc biệt nào đó mà thôi. Còn các đề mục khác
được tạm thời gát cả qua một bên. Nếu tâm trí có đi
"ngao du", thì chỉ nên ghi nhận việc đó, dứt bỏ nó đi,
và trở lại với đề mục hiện đang cứu xét cùng với nhịp
hơi thở vào và ra.
Có
một sự khác biệt giữa những gì khởi lên tự nhiên và
những gì chúng ta đang thực tập một cách riêng biệt. Để
tóm lại, về phương diện tự nhiên thì có đủ mười sáu
bước, mười sáu đề mục được khởi lên một cách tự
nhiên khi nào đầy đủ các điều kiện hiện có. Về phương
dện thực tiễn, chúng ta thực tập một cách có hệ thống
về mười sáu sự việc, từng đề mục một, mỗi cái một
lần. Xin các bạn hãy hiểu rõ điều nầy. Nó sẽ giúp các
bạn biết chắc được điều gì bạn đang cần phải làm
và thực tập cho có hiệu quả.
Còn
một phương diện khác của sự tiến triển tự nhiên nữa,
đó là tâm trí tiến triển từ tình trạng thô thiển sang
một tình trạng tế nhị hơn về vui mừng. Khi chúng ta mới
bắt đầu quán tưởng, chúng ta hay lưu tâm đến một tình
trạng vui mừng còn thô thiển, thông thường là về nhục
cảm và tình dục. Qua sự quán tưởng, chúng ta gặp được
các giai tầng tinh tế hơn về vui mừng. Và với sự quán tưởng
về tâm (citta bhàvànà) càng tiến triển, chúng ta khám phá
ra còn nhiều giai tầng tế nhị hơn nữa về sự an lạc. Một
khi chúng ta đã học được giai tầng càng ngày càng cao hơn
về an lạc, thì cũng khá dễ dàng để buông bỏ các tình
trạng vui mừng còn thô thiển đi. Như thế, trong việc thực
tập nầy, có sự tiến triển tự nhiên của tâm trí biết
buông bỏ các tình trạng thô thiển về vui mừng khi đã khám
phá ra niềm vui tốt đẹp hơn. Rồi đó tâm sẽ bám vào niềm
vui đẹp đó cho đến khi nào nó thấy ra được một niềm
vui khác còn cao quí hơn nữa. Nó có thể buông bỏ những gì
nay xem như là một niềm vui còn thấp kém để hưởng thọ
lấy một niềm vui cao quí hơn. Điều nầy cứ thỉnh thoảng
xảy ra cho đến khi chúng ta hiểu được rằng niềm vui tối
thượng chính là chẳng bám vào, hay đắm say với, bất cứ
hình thức vui mừng nào cả.
Xin
mỗi lần chỉ một bước thôi, và xin khởi sự ngay tại chỗ
phải bắt đầu.
Giác
Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) cần phải được thực tập
mỗi lần chỉ một bước thôi. Chúng ta chỉ thêm rối trí
hay lơ đãng hơn, khi cố làm hai hay ba việc cùng một lúc.
Chúng ta phải nên thoả mãn với bước chúng ta đang thực
tập và quyết tâm thực tập nó cho thật đúng, dầu nó kéo
dài trong bao lâu đi nữa. Chúng ta chẳng nên nhảy lòng vòng
từ bước nầy sang bước nọ, chỉ vì chúng ta thiếu sự
yên tâm, hoặc chán nản, hoặc đang có đầy ham muốn. Đừng
để ý nghe theo khi mình đang nghĩ: "Hôm nay, ta sẽ tập cả
mười sáu bước.", hoặc là "Mình hãy tập bộ bốn thứ nhứt
tuần nầy, tuần sau đến bộ bốn thứ hai, rồi tuần sau
nữa...", hoặc là "Mình hãy thử bắt đầu tại bước thứ
mười sáu, rồi tập ngược lên." Cũng đừng giở sách ra
đọc lướt qua rồi chọn một bước nào mình thích nhứt
để thực tập. Chúng ta phải tập từng bước một, bởi
vì Pháp Giác Niệm Hơi thở đã căn cứ vào sự tiến triển
tự nhiên vừa được mô tả ở trước.
Muốn
thu hoạch được lợi lạc nhiều nhứt về sự tiến triển
tự nhiên đó, tốt nhứt là chúng ta phải thực tập theo đúng
theo Pháp Giác Niệm về Hơi thở đã được Đức Phật chỉ
dạy.
Luôn
luôn phải bắt đầu tại chỗ bắt đầu. Mỗi buổi thực
tập bắt đầu với sự thiết lập giác niệm (sati) lên trên
hơi thở và rồi liền thực tập ngay bước thứ nhứt. Sau
khi bạn đã thuần thục với bước một rồi, sau khi bạn
đã biết bước ấy rất đầy đủ rồi và thực hành bước
ấy dễ dàng rồi, thì bạn mới sang bước thứ hai. Hãy thực
tập bước thứ hai cho đến khi nào bạn trở nên thiện xảo
với bước đó, và đã học xong tất cả những gì bạn phải
biết về bước đó. Rồi bạn mới qua bước thứ ba. Đừng
để mình phải rơi vào sự lầm lộn chút ít ở bước một,
rồi lại chút ít ở bước hai, rồi lại vài chỗ ở đây,
vài chỗ ở đó. Ta thường hay nóng lòng với điểm ta đang
đứng, và muốn sang ngay đến chỗ nào khác. Biết tự kềm
chế chẳng nghe theo sự nóng lòng đó, sẽ đem lại cho ta nhiều
điều tốt. Vậy, bạn hãy thực tập từng bước một, mỗi
bước một lần, và nên đeo dính bước ấy cho đến khi nào
bạn trở nên thật thiện xảo với bước đó mới thôi.
Mỗi
buổi thực tập là một buổi hoàn toàn mới. Mỗi buổi ngồi
hoặc đi, hoặc buổi thực tập về gì khác nữa, cũng là
một buổi hoàn toàn mới. (Và thật ra, mỗi hơi thở cũng
đều là mới cả). Bởi thế cho nên, mỗi buổi thực tập
phải bắt đầu ngay tại bước thứ nhứt. Ngay cả khi bạn
vừa thực tập ở bước thứ ba, hoặc bước thứ tư, vào
ngày hôm qua, hay trước bữa ăn sáng, (...) bạn cũng phải
bắt đầu buổi hôm nay ở bước thứ nhứt (...) Nếu bạn
đã thành công rồi với bước một, giờ đây bạn cũng phải
ôn nó lại, ngay tại lúc khởi sự tập lại ở mỗi buổi,
ôn lại cho đến khi nào mà sự hiểu biết về bước một
hiện ra tại đây và ngay bây giờ, chớ chẳng phải chỉ là
một sự hồi tưởng suông nhớ lại nó. Mỗi bước phải
được ôn lại như thế đó, để lấy làm chắc là mình đã
thiện xảo với nó ngay bây giờ. Tùy vào các điều kiện
hiện có -- phần lớn là điều kiện nội tại -- mỗi buổi
thực tập chẳng đi xa hơn mỗi một bước, và ở vài buổi
khác cũng chỉ đến mức đã tiến bộ chung vừa qua.(...) Chẳng
có chút mong cầu nào cả, ta cứ thực tập từng bước một,
nhận thấy rõ những gì đang xảy ra và cố học hỏi cho được
những gì ta có thể học được.
Mọi
sự việc chỉ giản dị là như thế thôi. MỗI bước tùy
thuộc vào các bước trước. Điều kiện thành công của bước
thứ năm là sự hoàn tất từ bước thứ nhứt cho đến bước
thứ tư. Ta chỉ sẵn sàng bước sang bước thứ mười khi
nào ta đã xuyên suốt được từ bước thứ nhứt đến bưóc
thứ chín, một cách thành công. Một khi ta đã chịu chấp
nhận sự vật như chúng đang là như thế, thì ta mớí ngưng
lại việc mong cầu chúng phải như thế nầy hoặc phải như
thế kia. Nhờ biết chấp nhận mỗi bước theo tánh tự nhiên
của nó mà ta mới thực tập được đứng đắn, thông minh,
chẳng nôn nóng, chẳng chán ngấy, và chẳng bực bội.
Con
đường trung đạo về sự vô chấp thủ (= chẳng bám níu)
Ta
cần phải luôn luôn ghi nhớ rằng đây là sự thực tập và
đào luyện tâm trí để dứt bỏ sự chấp thủ, tức là sự
bám níu chặt chẽ. Đức Phật chỉ chỉ dạy con đường Trung
Đạo, và Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) cũng chỉ là
con đường Trung Đạo đó. Nó đâu phải là sự thực tập
ráo riết, nhưng cũng chẳng phải là chẳng cần một nỗ lực
nào. Nó cần được thi hành một cách quân bình. Nó phải
là sự thực tập về vô chấp thủ (= về sự chẳng còn bám
níu nữa), đâu phải là sự vứt bỏ hết trơn trọi, mà cũng
đâu phải là sự đeo chặt một cách ích kỷ. Bạn phải thận
trọng khi ngồi xuống tập với ý nghĩ như vầy: "Tôi đang
ngồi đây, tôi đang canh chừng đây, tôi đang thở đây, tôi
đang quán tưởng đây, tôi là như thế nầy, cái đó chính
là của tôi, hơi thở của tôi, thân tôi, tâm tôi, cảm thọ
của tôi, Tôi, của tôi, tôi, ...". Xin hãy học kỹ cách gạt
bỏ các cảm giác bám níu đó và các ý tưởng về Tôi, về
của tôi, ra khỏi ngay đi. Hãy học kỹ cách giữ yên cho thật
quân bình với luồng hơi thở có ý thức (sati, giác niệm).
Ta
chẳng đeo chặt vào kỹ thuật ta đang xử dụng, hoặc vào
lý thuyết của nó. Ta chẳng dùng nó để thu thập các việc
hiểu biết thế tục nhỏ nhặt về hơi thở, về chúng ta,
hoặc về bất cứ sự việc gì. Ta chẳng lạm dụng nó để
mong được chứng đắc. Đúng hơn, ta kính cẩn dùng nó để
phát triển các sự khéo léo chúng ta cần có, để học hỏi
về các sự vật mà ta cần phải biết rõ. Và điều cần
thiết duy nhứt chính là để buông bỏ sự bám níu và dập
tắt sự khổ sở (dukkha).
Con
đường Trung Đạo còn là một sự thực tập về sự chơn
chánh, đứng đắn, để được trở nên toàn thiện trong lối
sống của chúng ta. Trong khi thực tập Giác Niệm về Hơi thở,
ta đang sống một lối sống chơn chánh. Ta chẳng gây tổn
hại cho bất cứ sanh vật nào, cũng chẳng làm hại mình, hại
người. Sự thực tập nầy chẳng hề lạm dụng đến ai cả.
Khi ta đã an lập trong phép thực tập nầy, ta trở nên quen
thuộc với một lối sống đứng đắn, quân bình, và chẳng
bám níu. Ta chẳng kẹt dính vào cực đoan nầy hay cực đoan
kia, hoặc lọt vào bất cứ cạm bẫy nào của nhị nguyên
(dualism). Mặc dầu Trí huệ có thể chỉ được phát triển
trong sự thực tập về quán tưởng (bhàvanà) một cách chánh
thức, nhưng ta cũng có thể đi tới Trí huệ đó, và trau dồi
nó qua sự quán tưởng còn chưa chánh thức, về đời sống
hàng ngày.
Đối
với đa số chúng ta, sự bám níu (= chấp thủ) là một thói
quen rất lâu đời. Nếu chúng ta biết buông rơi nó được
ngay ... như thế nầy!, thì rồi chúng ta sẽ thành Phật ngay
... như thế nầy! Nhưng phần đông chúng ta lại phải cố
công làm sao để buông bỏ hết mọi bám níu của chúng ta
và cái thói quen hay bám níu đó nữa. Giác Niệm về Hơi thở
(Ànàpànasati) chính là đường lối để biết buông bỏ. Ta
bắt đầu bằng việc buông bỏ các bám níu thô thiển: bám
níu vào thân thể, vào sự đau đớn, khổ sở, bám níu vào
sự xao động và nôn nóng, vào sự chán ngấy và lười biếng,
bám níu vào những sự khuấy rối bên ngoài và cả những
sự phiền hà nhỏ nhặt nữa. Rồi ta lại thấy ta đang bám
níu vào những sự việc tế nhị hơn, như các lạc thọ chẳng
hạn. Một khi ta đã buông rơi được chúng, ta lại bám níu
vào cái gì cao quí hơn, trong suốt hơn, chiếu sáng hơn, tức
là vào tình trạng tỉnh thức. Ta hãy buông bỏ chúng hết
đi, ta sẽ bắt đầu thấy được ánh sáng của thực tế
và rồi lại cũng bám níu vào các chiếu kiến (insights) đó
nữa. Sau cùng, ta mới học được sự buông bỏ tất cả.
Bằng cách đó, Giác Niệm về Hơi thở là một đường lối
có hệ thống đàng hoàng để ta buông bỏ từ từ các hình
thái tế nhị của sự bám níu mãi cho đến khi nào chẳng
còn một sự bám níu (= chấp thủ) nào nữa cả.
Kiên
nhẫn và tiến bộ.
Sau
rốt, xin bạn cho tôi được nhắc đến điều nầy: sự kiên
nhẫn (khanti, nhẫn nhục) là một khí cụ tinh thần hết sức
cần thiết. Đức Phật có nói trong Kinh Pháp Cú:
Khanti
paramam tapo titikkhà
(Nhẫn
nhục là khổ hạnh cao quí nhứt -- Kệ số 184).
Sự
nhẫn nhục là sự đốt cháy tuyệt kỷ của mọi phiền não.
Đa số chúng ta thường có thói quen tự phán xét và tự đo
lường mình theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau. Vài người có
tánh cạnh tranh, và so sánh mình với kẻ khác. Vài người
lại tự thẩm lượng mình chiếu theo các lý tưởng khác nhau
của mình. Lắm người khi học hỏi về mười sáu bước thực
tập của Giác Niệm về Hơi thở tự đánh giá mình dựa theo
các bước đó. Ta lại điền rồ nghĩ rằng: "Tôi nay là một
người đã khá tốt khi học xong bước thứ tư, hơn là khi
chỉ mới thực tập có bước một." Ta luôn muốn mình tốt
hơn và thực tập bước thứ tư, rồi thứ năm, rồi thứ
sáu. Cách suy nghĩ như thế đó chẳng làm cho ai khá hơn chút
nào đâu.
Đừng
đo lường sự tiến bộ bằng cách dựa theo mười sáu bước
đó. Hãy đo lường sự tiến bộ theo sự phát triển các đức
tánh tinh thần, như giác niệm (sati), năng lực, kiến thức,
tự tín, an tĩnh, thân thiện, từ bi, quân bình, và v.v. ...
Hãy đo lường với sự giảm bớt bám níu và sự biến mất
của tham lam, sân hận và si mê. Các thành quả đó của sự
thực tập đứng đắn sẽ hiện ra rõ rệt, ngay cả khi thực
tập bước một. Ngay cả khi chúng ta kiên trì với bước một
nhỏ nhặt và cũ kỹ nầy, cho đến trọn khoảng đời còn
lại của chúng ta, nếu chúng ta thực tập bước ấy cho thật
đúng đắn, những đặc tánh kia sẽ tăng trưởng dần lên
và sự bám níu (= cố chấp) sẽ giảm thiểu. Rồi cũng sẽ
có sự giảm thiểu từ từ của Khổ sở (dukkha) và đó mới
chính là điều ta đáng lưu tâm.
Đi
tới được bước thứ mười sáu chẳng phải là hết sức
quan trọng đâu. Thật ra, bước thứ nhứt cũng đã tạm đủ
rồi. Thực tế về Niết-bàn (Nibbàna) là chẳng bị điều
kiện hoá và chẳng kẹt vướng vào thời gian. Cho nên bạn
chẳng thể biết được lúc nào nó sẽ thực hiện. Cũng có
thể là ngay trong bước thứ nhứt. Bạn chớ nôn nóng muốn
gấp vào bước thứ hai, hoặc bước thứ ba, hay bước thứ
mười. Bước thứ nhứt có thể là đủ rồi, nếu bạn thực
tập nó được thật chín chắn. Hãy thực tập với sự kiên
nhẫn, với sự quân bình, với sự rõ ràng, với Trí huệ.
Hãy thực tập mà chẳng đeo níu và bám chặt. Chỉ cần là
cứ việc thực tập, vậy thôi!
Ta
nhận ra khi ta có được sự kiên nhẫn và có sức chịu đựng
được trong việc thực tập Giác Niệm về Hơi thở (Ànapànasati),
thì sự kiên nhẫn và sức chịu đựng là một yếu tố của
đời ta và hơn thế nữa. Cả hai đức tánh đó giúp ta có
được một cuộc đời trong sạch, sáng tỏ và yên tịnh.
Vậy xin bạn hãy kiên nhẫn, thật là kiên nhẫn. Hãy cố học
ngồi chẳng động đậy. Hãy học cắm sâu vào bước thứ
nhứt mãi cho đến khi nào thực tập bước đó thật đầy
đủ. Rồi đến bước thứ hai. Tập mỗi bước cho chín chắn
và đừng nôn nóng. Với sự kiên nhẫn, tâm sẽ phát triển
và nó đi tới một điểm nào đó. Hễ còn thiếu bền chí
mà lại ham muốn đi tới nữa, thì bạn đã ít được những
gì quan trọng mà còn phải thể nghiệm thêm nhiều khổ sở
(dukkha) nữa là khác.
Có
vài tư tưởng về thái độ, còn gọi là có Chánh Kiến, mà
tôi có thể cung hiến cho các bạn: khám phá sự tiến triển
tự nhiên, nghiên cứu nó một cách có hệ thống, bao giờ
cũng bắt đầu với một cách mới mẻ, bước mỗi lần một
bước, kiên nhẫn, gạt qua một bên các mong cầu, ham muốn,
và đòi hỏi, giữ vững sự quân bình, học cách nhận diện
ra, và buông bỏ ngay liền sự bám níu (= chấp thủ) đang lén
lén bò vào trong sự thực tập. Hãy chấp nhận rằng Niết-bàn
(Nibbàna) là lý do của sự thực tập Giác Niệm về Hơi thở
(Ànàpànasati) và nên hân hoan đã có được một cơ hội rất
vĩ đại như thế nầy.
Mở
đầu: an lập giác niệm (sati)
Bất
cứ việc thực tập nào về quán tưởng tâm (citta bhàvàna)
cũng phải mở đầu bằng giác niệm (sati) nắm lấy hơi thở
và an lập lên trên hơi thở; đó là đối tượng thứ nhứt
của chúng ta. Có nhiều cách để có sự tỉnh giác về hơi
thở. Ta có thể sắp xếp để vừa giác niệm vừa hơi thở,
để chúng cùng lần lần trở nên từ thô thiển đến tế
nhị, đúng theo một đường lối có liên quan đến bốn bước
đầu. Tôi xin mô tả một đường lối khá giản dị có thể
thành công được với nhiều người, nhưng bạn chẳng cần
phải nhắm mắt tuân theo; vì lúc nào bạn cũng nên tự tìm
lấy những gì thích hợp riêng cho mình.
(1)
Một khi đã ngồi yên xuống một cách thoải mái, thư giãn
và chẳng động đây, hãy cảm thấy hơi thở đã bắt đầu
dễ nhận ra trong tấm thân yên tịnh và bất động nầy. Chú
ý đến hơi thở một cách vững chắc mà dịu dàng. Giữ sự
canh chừng lên hơi thở mãi và làm quen thân thiết với cả
hai việc: canh chừng và hơi thở.
(2)
Ghi nhận ba giai đoạn của mỗi hơi thở: lúc đầu, khúc giữa
và đoạn cuối. Đối với hơi thở vào, ba giai đoạn đó
liên hệ đến mũi, giữa ngực và dưới bụng. Đối với
hơi thở ra, thì ngược lại, từ dưới bụng rồi trở lên
mũi để chấm dứt. Canh chừng và đợi tại mũi cho đến
khi cảm được hơi thở vào đang đi qua đó. Rồi nhẹ nhàng
nhảy sang chú ý đến giữa ngực và chờ ở đó cho đến
khi nhận thấy được hơi thở tại đấy. Rồi lại nhẹ nhàng
nhảy sang bụng và canh chừng xem lúc nào hơi thở được cảm
thấy ở đó. Tiếp tục canh chừng theo hơi thở vào cho đến
lúc nó chấm dứt và chờ cho hơi thở ra khởi lên. Một khi
hơi thở ra đã được cảm nhận thấy, thì liền chú ý trở
ngược lên ngực, rồi đến mũi. Quan sát tại mũi xem hơi
thở ra chấm dứt iại đấy và chờ một hơi thở mới vào,
và rồi chú ý theo đến ngực, và cứ tiếp tục như thế.
Với giác niệm (sati), ghi nhận hơi thở tại mỗi điểm mà
nó đi ngang vào và ra khỏi, vào và ra. Hãy cẩn thận quan sát
một cách kiên nhẫn ở mỗi điểm cho đến khi hơi thở (cử
động của hơi thở hoặc của các bộ phận cơ thể có nhiệm
vụ trong việc hô hấp) đã được cảm nhận thấy ra rõ ràng.
Chỉ vào lúc đó, tâm trí mới nhẹ nhàng nhảy sang qua điểm
kế tiếp. Việc nhảy nhẹ nhàng từ điểm nầy sang điểm
kia cũng là một cách dễ dàng để an lập giác niệm (sati)
trên hơi thở. Đó là một cách khá tốt để bắt đầu khởi
sự tập. Tuy nhiên lối đó cũng hơi thô thiển và xao động,
sau một lúc thực tập. Nhưng một khi ta đã trở nên thiện
xảo về việc theo dõi rồi, chúng ta sẽ cảm thấy cần có
một lối nào tế nhị hơn, an tĩnh hơn để có được giác
niệm về hơi thở.
(3)
Kế đến, ta nối liền ba điểm lại thành một luồng hay
là một dòng trôi chảy, như gần giống với chính luồng hơi
thở vậy. Ta gọi đó là "theo dõi, rượt theo, săn đuổi theo,
lén rình theo". Trong khi thở một cách tự nhiên, chẳng có
một sự cố gắng, thúc dục nào hay cố vận dụng nào đến
hơi thở, thì giác niệm (sati) theo dõi hơi thở vào và ra,
giữa chót mũi và rún. Bạn hãy theo dõi hơi thở mà chẳng
nên hướng dẫn nó. Truy lùng theo các cảm giác nối tiếp
liên tục xảy ra trong thân thể -- cần phải cảm nhận và
thể nghiệm các cảm giác đó -- khi hơi thở đi vào và ra
khỏi.
(4)
Một khi sự theo dõi đã trở nên dễ dàng và liên tục chẳng
ngừng nghỉ, thì ta sẽ thấy sự theo dõi ấy chẳng còn cần
thiết, lại bận rộn và hay làm gián đoạn nữa. Lúc bấy
giờ, ta đã sẵn sàng để "canh gát"("guarding"), tức là, có
được một cách êm ả hơn để thực tập giắc niệm (sati)
về hơi thở. Lúc nầy, tại bên trong mũi, có một điểm liền
nổi bật lên. Điểm đó chính là nơi mà hơi thở chạm vào,
mỗi khi ta cảm thấy nó đi ngang qua, lúc vào và lúc ra. Mặc
dầu có vài người bảo rằng có đến hai điểm như thế,
mỗi bên lỗ mũi có một điểm, nhưng bạn chớ nên làm cho
sự việc trở nên rắc rối thêm, cứ giản dị mà ghi nhận
cái điểm đó nó bao trùm cả hai bên lỗ mũi. Đây là điểm
để "canh gát"(đó cũng như cái trạm gát vậy). Ta lựa điểm
ở mũi vì điểm ở đó chính xác, tế nhị và rõ rệt. Tại
nơi khác, như ở ngực hay ở bụng, các cử động choán rộng
chỗ và thô phù, chẳng phù hợp với mục đích của ta. Để
có thể làm êm dịu được hơi thở, ta nên chọn một điểm
nhỏ, dễ chú tâm đến và thật tế nhị. Với giác niệm
(sati), ta an trú tâm (citta) vào trên điểm đó. Hãy để cho
tâm tự gom lại quanh điểm đó. Làm được như thế, bằng
cách đồng thời khiến cho hơi thở êm dịu lại và khiến
mình trở nên nhạy cảm hơn đối với các cảm giác, ngay
tại điểm canh gát. Tiếp tục làm êm dịu thân hành (body
conditioner, tức là hơi thở, ở đây) cho đến khi nào định
lực (samàdhi) thực sự khởi lên và phát triển đầy đủ.
Chúng
ta có thể luôn iuôn bắt đầu với kỹ thuật thứ nhứt.
Kỹ thuật thứ hai và thứ ba thích ứng hơn với bước một
và bước hai. Với bước ba, tốt nhứt là nên "theo dõi", mặc
dầu "canh gát" cũng có thể dùng được. Bước thứ tư phải
nên bắt đầu bằng "theo dõi" và rồi sẽ được sự "canh
gát" thay thế cho.
Nếu
buổi ban đầu hơi thở của ta ngắn và cạn, với cử động
ở ngực thôi chớ chưa thấy ở bụng, thì cứ giản dị theo
dõi hơi thở dài được đến chừng nào hay chừng nấy. Sau
khi giác niệm (sati)đã an lập, thì chúng ta trở nên thư giãn
và hơi thở cũng trở nên sâu xa hơn. Chẳng bao lâu ta sẽ
cảm thấy các cử động ở bụng. Nếu thấy được hơi thở
đi ngang qua nhiều điểm cùng một lúc, thì xin bạn đừng
dùng sự kiện đó như một cơ hội khiến cho sự việc thêm
rắc rối. Xin cứ giữ cho được giản dị: chỉ đơn thuần
là một dòng trôi chảy từ chót mũi đến rún, và từ rún
trở ra mũi, cũng đủ cho mục tiêu của chúng ta rồi. Đừng
cố tìm kiếm gì thêm để tạo ra một thể dạng hơi thở
phức tạp. Đừng cố canh chừng một lần nhiều cử động
riêng biệt. Nếu ta giản dị quan sát hơi thở, thì hơi thở
cũng thành giản dị. Nếu ta cứ nghĩ tới nghĩ lui về các
hơi thở, thì dễ cho ta bị rối trí, lầm lẫn lắm.
Đây
là một dịp tốt để nhấn mạnh rằng, giác niệm (sati) chẳng
phải là "suy nghị" về sự việc gì. Giác niệm là sự chú
ý có ý thức, sự ý thức, sự canh chừng, sự quan sát, sự
thẩm sát. Nó chẳng cần chi đến các ý niệm, nhãn hiệu,
từ ngữ và hình ảnh để tự mô tả. Các sự vật vừa kể
chỉ tổ làm cản trở cho việc trực nghiệm hơi thở ra và
vào. Ta có thể ví việc "theo dõi" hơi thở như là đi tản
bộ dọc theo bờ sông. Nước trôi êm đềm và ta nhìn dòng
nước chảy. Ta cần gì nói với mình: "Sông! Sông!", "Trôi!
Trôi!", "Chảy! Chảy", v.v. và v.v. ... để ngắm dòng sông trôi
lững lờ! Và nếu ta chẳng thận trọng thì hãy coi chừng!,
sắp thôi nhìn nước chảy trên sông đấy, và đi lạc vào
rừng các danh từ, các tư tưởng khác khởi lên trong tâm.
Ta còn chưa chán ngấy chúng hay sao mà lại vẫn cố mang vác
chúng đến để chúng xen vào Pháp Giác Niệm về Hơi thở
(Ànàpànasati) của chúng ta nữa vậy?
Vài
mánh lới để giúp cho giác niệm.
Nếu
cảm thấy quá khó và lâu, trong nỗ lực giữ tâm mãi trên
hơi thở khi theo dõi, thì đây có một vài mánh lới ta có
thể dùng đến. Mánh lới thứ nhứt là cứ hướng nhìn vào
chót mũi, như Pháp sư Phật Lệ (Ajahn Buddhadàsa) đã chỉ dạy
trong các bài pháp thoại của Người. Hãy nhìn vào chót mũi
theo một cách thật là thư giãn và dịu dàng. Đừng cố nhắm
mắt lại, vì đó cũng chỉ khiến tạo thêm sự căng thẳng.
Làm như vậy chẳng đưa đến giác niệm (sati) mà chỉ khiến
cho thêm ... nhức đầu. Trong buổi ban đầu, có thể bạn chỉ
đủ khả năng nhìn lên phía trước chót mũi, hay hơi xa, quá
khỏi mũi, nhưng đến khi thân thể và gương mặt bạn đã
được thư giãn, thì bạn cũng có nhìn thấy được chót mũi.
Ngay cả khi mắt tự động nhắm lại, con mắt trí bạn vẫn
còn chú vào mục tiêu chót mũi.
Mánh
khoé thứ hai là cứ thở lớn tiếng. Hãy thở đủ lớn tiếng
để tai nghe được hơi thở. Hai tai, cũng như đôi mắt, có
thể trợ giúp cho giác niệm (sati). Điều nầy lại có ích
lợi đặc biệt trong những phút đầu của mỗi buổi thực
tập, và nhứt là vào những lúc bị khấy rối, lơ đãng.
Khi nào sự theo dõi đã trôi chảy dễ dàng rồi thì ta buông
bỏ hơi thở to tiếng để thở lại như bình thường, tự
nhiên. (Hơi thở ồn cũng dễ làm mình khó chịu). Dầu sao,
bạn cũng nên thử tập xem vài hơi thở ồn ồn vào lúc mở
đầu, hoặc khi nào bạn cảm thấy khó mà an lập được giác
niệm (sati).
Mẹo
khéo thứ ba là đếm hơi thở (= sổ tức). Ta hãy chiêu tập
nào mắt, nào tai, và nào trí năng, phụ giúp vào sự theo dõi
hơi thở. Hãy đếm từng hơi thở vào khi nó vừa khởi lên,
đếm một số cho mỗi hơi thở. Nếu tâm đi "ngao du", đếm
trở lại "một". Nếu đếm đến được tới "mười" mà tâm
còn chưa đi lang thang thì cũng vẫn trở lại với "một". Mục
đích của ta ở đây giản dị chỉ cần đếm mỗi hơi thở
là đủ. Phương pháp sổ tức (= đếm hơi thở) của Pháp
sư Phật Lệ (Ajahn Buddhadàsa) còn được dùng vào nhiều mục
tiêu khác nữa. Lại một lần nữa, một khi giác niệm (sati)
đã được an lập khá vững vàng rồi thì phép đếm hơi thở
hết còn cần thiết cho ta nữa và nên buông bỏ nó đi. Với
sự luyện tập. Giác niệm (sati) sẽ trở nên tế nhị, linh
hoạt và tự nhiên hơn.
Hơi
thở dài và hơi thở ngắn
Sau
khi giác niệm (sati) đã được an lập (nhờ kỹ thuật thứ
hai hoặc thứ ba), ta bắt đầu lưu tâm đến hơi thở dài
và hơi thở ngắn. Tâm tuy vẫn hơi lang thang chút ít, nhưng
cũng còn ở chung với hơi thở vừa đủ cho ta học hỏi thêm
về đặc tánh của hơi thở ra như thế nào. Đặc tánh đầu
tiên và cũng dễ nhận thấy là sự ghi nhận được chiều
dài hơi thở -- chiều dài ở đây, là tính theo vừa lâu hay
mau (theo thời gian của hơi thở) và vừa rộng hay hẹp (theo
phạm vi của cử động khi thở). Đối với mục tiêu của
chúng ta, một lằn ranh phân chia chính xác giữa hơi dài và
hơi ngắn cũng chẳng quan trọng mấy. Bạn chỉ cần quen rành
với hơi thở của mình, biết rõ hơi thở dài và hơi thở
ngắn của bạn ra làm sao, tương đối với nhau. Đâu cần
gì phải so sánh hơi thở của bạn với hơi thở của người
khác.
Thông
thường, bạn thấy hơi thở ở bụng dài hơn hơi thở ở
ngực, nếu hơi thở ở bụng được để tự nhiên. Đây là
điều mà chúng ta cần quan sát, chớ chẳng phải là điều
mà chúng ta mong tìm kiếm để có cho được. Chúng ta chẳng
nên thở theo một cách nầy hay một cách khác, và chúng ta
cũng chẳng nên dùng Pháp Giác niệm về Hơi thở để tập
luyện một lối thở nầy hay một lối thở nọ. Vậy bạn
đừng nên cố thử tập ép hơi thở bụng cho dài ra; kết
quả sẽ chẳng thư giãn, khoan khoái đâu. Cứ để cho hơi
thở tự nhiên đến và đi, hễ nó dài, thì ta sẽ thấy hơi
thở dài, như vậy mới được thư giãn và lành mạnh hơn.
Nếu
hơi thở của bạn dài ra, dài thật dài, bạn sẽ khám phá
ra được một điểm lý thú. Bạn có thể nghĩ là lạ đời,
khi bạn nghe Pháp sư Phật Lệ (Ajahn Buddhadàsa) nói rằng, ngực
nở ra và bụng co lại với một hơi thở thât dài. Theo lẽ
thường thì ta thấy bụng nở ra với một hơi thở vào, và
nó co lại với hơi thở ra. Dường như việc quan sát đó mâu
thuẫn với nhau, phải vậy không? Cái nào đúng? Trước tiên,
chúng ta quan sát sự thở bình thường. Khi ta hít vào, hoành
cách mạc xệ xuống để đẩy bụng phình lên. Khi ta thở
ra, bụng lại xẹp xuống. Đấy là lối thở bụng trước
khi hơi thở trở nên dài, thật dài hơn ra. Đó là cử động
giản dị và tự nhiên của bụng phình lên với hơi thở vào
và xẹp xuống với thở ra. Vài người xem đó thì ngắn, vài
kẻ khác lại cảm thấy nó tương đối dài.
Giờ
đây, có một giới hạn cho bụng chỉ phình lên tới một
cở nào đó. Khi ta thư giãn và thở sâu hơn thì giới hạn
đó có thể đạt đến. Tuy nhiên, tại thời điểm đó thì
ngực đưọc có thêm chỗ để nở rộng ra cho hơi vào thêm.
Nếu bấy giờ ta cứ tiếp tục hít hơi thở vào, thì ngực
sẽ nới rộng và phình lên. Và cử động nầy kéo lằn bụng
lại xẹp xuống. Đó là điều mà ý nghĩa của lời giảng
của Pháp sư Phật Lệ muốn nói đến. Một hơi thở vào thật
dài cũng khởi lên giống như một hơi thở vào bình thường
và bụng phình lên, còn ngực xem như chẳng chuyển động tí
nào. Sau khi sức giãn của bụng đã đến giới hạn rồi,
thì ngực lại phình lên và bụng lại xẹp xuống. Khi nào
hơi thở thật là dài, thì chính bạn cũng khám phá và thấy
ra đúng như thế. Còn đối với các hơi thở ra thật là dài,
thì các cử động trái ngược kể ở trên cũng xảy ra một
cách chung chung. Vậy thì hơi thở thật dài cũng là một hơi
thở bình thường cộng thêm chút ít. Nhiều người trong chung
ta ít khi thể nghiệm được hơi thở thật dài, mãi cho đến
khi nào thân thể trở nên hoàn toàn thư giãn qua Pháp Giác
Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati). Và về sau nữa, hơi thở
thật dài sẽ xảy đến thường thường hơn, ngay cả ngoài
các buổi ngồi thực tập chánh thức.
Ngay
cả khi giác niệm (sati) còn chưa được an lập vững chắc,
chúng ta vẫn có thể học hỏi được về hơi thở dài, hơi
thở ngắn. Tuy nhiên, bước một và bước hai thực sự bắt
đầu khi giác niệm (sati) theo dõi hơi thở đã hết ngập ngừng.
Tiếng động, tư tưởng và các hiện tượng khác có thể
đôi khi xen vào, nhưng tâm chẳng để tâm vướng mắc vào.
Chúng ta có thể dừng lại với hơi thở, quán sát hơi thở
và học tập về hơi thở một cách hoan hỉ. Nếu chúng ta
nôn nóng để vượt qua được bước một và muốn tiến tới
những điều "hứng thú" hơn, chúng ta cũng nên soát cái ý
tưởng đó lại xem, bằng cách tự hỏi: "Thân thể nầy có
đủ thư giãn để ngồi thêm như thế nầy, trong một giờ
hay lâu hơn, thoải mái và chẳng muốn tiến tới bước khác
nữa chăng?" Khi hơi thở thực sự dài (và sâu), ta có thể
ngồi thoải mái trong một thời gian lâu. Nếu ta đang xao động
cứ thay đổi thế ngồi mỗi mười hay mười lăm phút, tưởng
tốt nhứt là cứ vui lòng ở lại với bước một. Hãy học
cách ngồi yên bất động, và thở cho dài, chậm, dịu dàng
và êm ái. Rồi thì ta có thể ngồi dễ dàng trong một thời
gian dài. Đây là vấn đề kỷ luật tự giác -- chớ không
phải là vấn đề hành xác! Bạn hãy nên tập luyện một
cách thông minh, và quân bình.
Bước
thứ ba: đối tượng mới
Trong
hai bước, bước một và bước hai, hơi thở là đối tượng
duy nhứt được chúng ta chú ý đến. Bắt đầu bước thứ
ba, chúng ta sẽ xét đến các đối tượng mới, trong trường
hợp nầy, xét về "toàn thân", ảnh hưởng của các hơi thở
đến các phần còn lại của thân. Xin hãy ghi nhận rằng,
đó chẳng phải là chính hơi thở, mặc dầu hơi thở và ảnh
hưởng của nó được liên kết nhau rất chặt chẽ. Vào lúc
nầy, sự ý thức về hơi thở vào và ra được lui về hậu
trường, nơi đó các hợi thở vẫn còn luôn luôn rõ rệt.
Trong khi tâm đặt tiêu chuẩn lên một đối tượng mới, chúng
vẫn ý thức rằng chúng ta đang thở vào và thở ra. Điều
nầy vẫn đúng cho số bước còn lại trong tổng số mười
sáu bước.
Nghiên
cứu ảnh hưởng của hơi thở đối với toàn thân có liên
quan đến nhiều việc khác hơn là chiều dài của mỗi hơi
thở. Xét theo chiều dài của hơi thở đã là một cách giản
tiện để bắt đầu việc nghiên cứu. Giờ đây, chúng ta
lại cần lưu tâm đến tốc lực (mau và chậm) và phẩm chất
(thô thiển và tế nhị). Phẩm chất là quan trọng nhứt vì
chính phẩm chất của hơi thở đã ảnh hưởng rộng lớn
đến sự êm dịu của tấm thân. Trong bước nầy, chúng ta
sẽ khám phá ra loại hơi thở nào sẽ đem lại êm dịu nhiều
nhứt cho tấm thân nầy.
* *
*
Tôi
vừa trình bày cùng các bạn cách làm thế nào để khởi sự
việc thực tập Giác Niệm về Hơi thở một cách cho đúng
đắn. Tôi hi vọng các bạn dùng được các chi tiết mà tôi
đã cống hiến để cho việc tập luyện quán tưởng được
phát
triển. Trước khi chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay, tôi
muốn xin các bạn cho phép tôi nói thêm một nhận xét chót.
Đời
sống là quán tưởng.
Còn
nhiều việc khác trong sự quán tưởng về tâm (citta bhàvanà)
hơn là chỉ ngồi suông. Những buổi tập chánh thức, ngồi
hoặc đi, cũng rất là quan trọng, và cũng ít người thấy
mình chẳng cần đến; nhưng hơn tất cả mọi việc khác,
chúng tôi lại chú trọng nhứt tới đời sống hằng ngày
-- một cuộc đời thoát khỏi mọi sự khổ sở (dukkha). Đời
sống còn nhiều hoạt động khác, đâu chỉ có ngồi yên bất
động mà thôi, và Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
còn có thể giúp chúng ta trong những điạ hạt khác nữa.
Trước nhứt, các sự khéo léo và các kiến thức được phát
triển qua sự thực tập chánh thức, có thể được mở rộng
thêm và đem ra dùng vào các hoạt động hằng ngày của chúng
ta. Thứ hai, chúng ta có thể vẫn có sự tỉnh giác về hơi
thở, và ngay cả đặt định tâm vào đó trong khi thi hành
các nhiệm vụ khác của mình. Nếu điều nầy được phát
triển một cách thích nghi, thì hơi thở sẽ điều hoà được
tấm thân ở vào một tình trạng thật đứng đắn và đưa
tâm đi sâu vào sự thanh tịnh, ổn cố, an tịch, sáng tỏ,
dõng mãnh và linh hoạt. Thứ ba, tâm có thể đến với hơi
thở và chiếu trụ lên đó mỗi khi một tình trạng tinh thần
có hại khởi lên. Khi làm như thế, thì chẳng nên coi hơi
thở như là một lối thoát. Tuy nhiên, cách đó lại thường
là một phương tiện hết sức khéo léo để vượt qua được
những tư tưởng bất thiện, những tình cảm và khí sắc
chẳng đẹp. Đấy mới chỉ có ba cách thôi mà tôi muốn đưa
Pháp Giác Niệm về Hơi thở vào trong trọn cuộc đời.
Ngay
cả lý thuyết của Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
cũng có thể được đem ra dùng trong sự quán tưởng về đời
sống hằng ngày. Một khi chúng ta đã có đủ thời giờ để
nghiên cứu và thông hiểu rõ ràng mười sáu bước (tưởng
cũng còn cần đọc thêm nhiều tài liệu bổ túc khác) chúng
ta có cần gì giới hạn sự ứng dụng các bước nầy chỉ
riêng vào trong hơi thở. Như Pháp sư Phật Lệ (Ajahn Buddhadàsa)
có nói trong Phụ lục số 2, rằng Pháp Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna)
còn thiếu sót một phương pháp rõ rệt để thực tập. Mặt
khác, chúng ta làm phát triển bốn lãnh vực của sự tỉnh
thức vào mọi dịp thuận tiện. Rồi các bạn sẽ thấy mười
sáu bước cống hiến một cơ cấu tổng quát cho sự thực
tập về Pháp Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna). Chúng ta phải quán
tưởng mười sáu đề mục đó mỗi khi gặp được dịp,
vào lúc nào mà chúng sanh khởi lên. Mặc dầu các diễn biến
trong cơ thể (bodily processes) còn chưa mở ra hết trước sự
giải tích (treatment) có hệ thống và đầy đủ của chúng
ta với phương tiện hơi thở, nhưng chúng ta vẫn có thể dùng
mười sáu bước thực tập để nhận diện ra được những
sự việc nào đáng cho ta chú ý đến nhứt.
Từ
mười sáu bước thực tập cho đến bất cứ việc nào
Chúng
ta có thể dùng bất cứ một hoạt động nào của cơ thể
để làm cơ sở căn bản cho giác niệm (sati). Hoạt động
đó càng cần thiết và chủ yếu cho đời sống, (như trường
hợp của hơi thở chẳng hạn), thì lại càng tốt. Trước
nhứt, tìm hiểu về hoạt động đó dưới mọi khía cạnh
của nó. Thứ hai, tìm thấy ra hoạt động đó có ảnh hưởng
nào đối với cơ thể. Thứ ba, tìm biết được đường lối
đúng đắn để thi hành hoạt động đó sao cho có hiệu quả
tối hảo đến thân thể và giúp cho tâm đạt đến một trình
độ và một chủng loại về định lực thích nghi. Điều
nầy tương hợp với bộ bốn thứ nhứt về thân (kàya). Kế
đến, cứu xét đến các cảm thọ liên hợp với hoạt động
đó, nhứt là các lạc thọ khởi lên khi hoạt động đó được
thực hiện tốt đẹp và thành công. Nghiên cứu ảnh hưởng
các cảm thọ đó gây ra cho tâm, rồi tìm cách làm lắng dịu
ảnh hưởng đó. Điều nầy bao gồm bộ bốn thứ hai về
cảm thọ (Vedanà). Bộ bốn thứ ba về tâm (citta) bắt đầu
bằng sự thể nghiệm các loại tâm trạng khởi lên trong khi
hoạt động đó được thi hành. Rồi chúng ta tập luyện để
khiến cho tâm được hân hoan, tập trung vào định lực, và
được giải thoát, trong khi thi hành hoạt động đó. Sau cùng,
nơi bộ bốn thứ tư là bộ bốn quan trọng nhứt, về Pháp
(Dhamma), ta quán tưởng về mọi phương diện của hành động
đó -- về thân, về cảm thọ, và về tâm -- như là vô thường,
khổ sở và vô ngã (aniccam dukkham anattà). Quán tưởng sự
tàn phai và tận diệt của sự bám níu (= chấp thủ). Quán
tưởng sự quẳng bỏ ra phía sau tất cả những gì có dính
líu với hoạt động đó.
Pháp
Giác niệm về Hơi thở (Anàpànasati) giải thích cách xử dụng
mọi hoạt động của ta vào việc thực tập Pháp Tứ Niệm
Xứ (Satipatthàna). Mội khi gặp dịp tốt, nên thực tập Pháp
Giác niệm về Hơi thở một cách trực tiếp. Bằng không,
thì thực tập Pháp ấy một cách gián tiếp xuyên qua một
cách thực tập song hành. Những kiến thức mà chúng ta thâu
lượm được qua sự thực tập song hành tâm quán (citta bhàvanà)
sẽ hỗ trợ và bổ túc cho sự thực tập Giác Niệm về Hơi
thở của chúng ta, và ngược lại. Khi chúng ta đã biết thẩm
lượng giá trị các khả năng tiềm tàng của mười sáu bước
thực tập, thì luôn luôn có những cơ hội để phát triển
tâm ngay cả trong những điều kiện thật là khó khăn. Mưới
sáu bước thực tập -- đặc biệt là bộ bốn thứ nhứt
và bộ bốn thứ tư -- là lý thuyết đầy đủ trong việc
loại trừ khổ sở (dukkha) ra khỏi cuộc đời. Tôi nguyện
cầu cho các bạn biết xử dụng chúng thật đứng đắn.
Tôi
hi vọng các bạn có thể xử dụng các chi tiết vừa được
giới thiệu. Tôi đã cố gắng hết sức để trình bầy chúng
được rõ ràng. Xin các bạn nghiên cứu chúng một cách cẩn
thận; cần đọc qua hơn một lần. Hãy suy gẫm đầy đủ
về chúng. Và, quan trọng nhứt là hãy thử tập ngay đi. Qua
sự thực tập, sự hiểu biết của bạn về các lời chỉ
dẫn sẽ phát triển thêm. Bạn sẽ cần đến vài sự điều
chỉnh, nhưng phần lớn các sự điều chỉnh đó sẽ tìm thấy
ngay trong sự hiểu biết và ứng dụng của bạn, hơn là trong
lời chỉ dẫn của Pháp sư Phật Lệ (Ajahn Buddhadàsa). Hãy
thử tập theo các lời khuyên của Người. Và đừng pha trộn
các lời khuyên đó với những gì bạn được nghe đến ở
các thiền sư khác vơi các hệ thống khác của họ. Với sự
kiên nhẫn, quyết tâm và trí huệ, hãy đi sâu vào sự thực
tập và khiến nó dẫn đến tri kiến về sự vô chấp thủ
(= chẳng bám níu nữa), về sự tận diệt khổ sở (dukkha),
về sự an hoà tối thượng cùng sự giải thoát của Niết-bàn
(Nibbàna).