Tự
vựng Pàli-Việt
Àcàrìya:
Pháp sư; thầy giảng giáo lý. Tiếng Thái là Ajahn .
Àdinava:
sự bất lợi, nguy cơ, tổn hại; lưỡi câu có mồi. Ám chỉ
phương diện tiêu cực, thấp hèn, xấu ác của một sự vật.
Àna:
hơi thở vào, sự thở vào.
Ànapànasati:
Giác niệm về Hơi thở; Hơi thở có ý thức.
Ànapàna
= hơi thở vào và hơi thở ra. Sati = giác niệm tức là sự
tỉnh thức. Pháp Giác Niệm về Hơi thở gồm có 16 bước
thực tập, vừa theo dõi hơi thở ra và vào, vừa quán tưởng
16 đề mục, đưa đến sự buông bỏ chấp thủ và được
giải thoát.
Anattà:
Vô ngã. Muôn sự vật, chẳng trừ sự vật nào cả, đều
khiếm khuyết (thiếu) hẳn một bản thể cốt lõi để có
thể gọi đó là một "tự ngã"(atta), một đặc tánh riêng
biệt. Chẳng sự vật nào là có "linh hồn" cả. Nói vô ngã
là có ý muốn nói chẳng thể có tự ngã, chớ chẳng phải
nói sự vật đó chẳng hiện hữu trên thực tế. Sự vật
tuy có đó, nhưng chẳng do tự nó có lấy được, và chẳng
làm của riêng cho một ai được cả.
Attà,
tự ngã, trái nghĩa với Anattà, vô ngã.
Anicca,
Aniccam: Vô thường. Vô thường là chẳng thường hằng, nay
có đó, nhưng sau lại biến đổi rồi sẽ tiêu diệt mất.
Trái với vô thường là thường hằng.
Anupassanà:
sự quán tưởng. Quán tưởng là sự quán sát bằng nội tâm,
nhận xét và nghiên cứu thật sâu xa về một sự việc. Có
bốn lãnh vực của sự quán tưởng:
(1)
quán tưởng về thân (Kàya nupassanà);
(2)
quán tưởng về cảm thọ (Vedanà nupassanà);
(3)
quán tưởng về tâm (citta nupassanà); và
(4)
quán tưởng về Pháp (Dhamma nupassanà)
(Pháp
ở đây có nghĩa là các sự vật).
Apàna:
Hơi thở ra.
Arahant:
A la hán. Vị A la hán là bực đã diệt dứt hết các phiền
não. Quả vị A la hán là quả vị cao nhứt của hàng Thanh
văn (= các đệ tử sống gần bên Phật, nghe Kinh mà tu tập
theo).
Ariya
sacca: Diệu đế, Chơn lý Nhiệm mầu. Có bốn Chơn Lý nhiệm
mầu, được gọi là Tứ Diệu đế. Bốn Chơn lý nầy được
Đức Phật Thích ca giảng trong Kinh Chuyển Pháp luân là bản
Kinh đầu tiên Ngài giảng sau khi mới thành đạo, cho năm anh
em ông Kiều trần như nghe, tại vườn Lộc uyển, ở thành
Ba la nại. Bốn Chơn lý đó là: (1) Khổ đế, về các sự
khổ sở; (2) Tập đế về nguồn gốc của Khổ; (3) Diệt
đế về sự tận diệt các Khổ sở; (4) Đạo đế về con
đường Bát Chánh Đạo có tám ngành, đưa đến sự tận diệt
Khổ.
Assàda:
mồi, mồi ngon ở lưỡi câu che dấu sự nguy hiểm. Ám chỉ
sự hào nháng gạt gẫm, khía cạnh khả ái, dễ say đắm của
một sự vật, thật ra chứa đầy sự nguy hiểm bên trong.
Attà:
Tự ngã. Đây là một quan niệm sai lầm cho rằng sanh vật,
sự vật đều có "linh hồn", có thể tự mình tạo ra mình,
và độc lập. Trái với tự ngã là vô ngã.
Apàdànà:
sự chấp thủ, sự bám níu, sự quyến kuyến, sự đắm say
đeo chặt vào.
Avijjà:
Vô minh, hay si mê. Trái nghĩa với Vijjà, sự thông minh, sáng
suốt, chẳng bị sự ngu dốt che mờ tâm trí.
Àyatana:
Nhập, đi vào trong, phạm vi, vùng, giới. Có hai loại nhập:
(1)
nội lục nhập, còn gọi là sáu căn, tức là các giác quan
ở trong thân thể: mắt, ta, mũi, lưỡi, thân và ý thức trong
tâm;
(2)
ngoại lục nhập, còn gọi là sáu trần, tức là sáu hình
thái của các sự vật bên ngoài: sắc (hình dạng và màu sắc),
thanh (tiếng động), hương (mùi), vị (vị nếm), xúc (sờ
chạm), và pháp (sự việc).
Bhàvanà:
sự quán tưởng, sự tăng trưởng tâm linh bằng quán tưởng.
Citta bhàvanà: sự quán tưởng tâm; sự tập luyện về tâm
linh để vun bồi các đức tánh thiện.
Bojjhanga:
Thất giác chi, bảy yếu tố chủa sự giác ngộ. Đó là: (1)
niệm (sati); (2) trạch pháp (dhamma vicaya) sự chọn pháp, phân
tách pháp; (3) tinh tấn (viriya) cố gắng, nỗ lực; (4) hỉ
(piti), mừng; (5) khinh an (passaddhi), niềm vui nhẹ nhàng và an
ổn; (6) định (samàdhi), tâm ý tập trung; (7) xả (upekkhà,
tâm biết buông bỏ, bình đẳng, chẳng bám níu vào đâu. Còn
gọi là Thất Bồ đề phần.
Citta:
Tâm.
Citta
sankhàra: Tâm hành, tức là các sự kiện tạo điều kiện
gây ra ảnh hưởng đến tâm (minh conditioners). Trong pháp Giác
niệm về Hơi thở, các cảm thọ là những tâm hành, vì như
hỉ (= mừng) và lạc (= vui) có thể khiến cho tâm rung động
lên.
Dhamma:
Pháp (= Chánh Pháp) hoặc pháp (= sự vật). Có hai loại pháp
(= sự vật):
(1)
pháp hữu vi là những sự vật bị điều kiện hoá, được
tạo tác nên, bị thay đổi, biến chuyển;
(2)
pháp vô vi, tức là Niết-bàn, thường còn, chẳng bị biến
đổi, chẳng do tạo tác mà có.
Chữ
Pháp (viết hoa) có nghĩa là Chánh Pháp do Đức Phật dạy và
truyền lại cho đời sau, là ngôi thứ hai trong Tam Bảo (Phật
Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo). Chữ Pháp (viết hoa) trong sách
nầy lại còn có bốn nghĩa khác nữa:
(1)
Chơn Lý hay Thiên nhiên;
(2)
qui luật của thiên nhiên;
(3)
nhiệm vụ phải tuân theo qui luật của thiên nhiên;
(4)
kết quả của việc tuân phục đó.
Dhamma
jàti: pháp giới (tức là toàn thể vũ trụ); hoặc Thiên
nhiên. Bao gồm cả muôn sự vật, kể cả nhơn (người) và
phi nhơn (sanh vật, chẳng phải người).
Dosa:
Sân hận, giận hờn.
Dukkha:
Khổ sở, sự đau khổ.
Dukkham:
Bất toại nguyện, gây ra sự chẳng vừa ý, một hình thức
của khổ sở. Vì sao lại bất toại nguyện? Vì các sự vật
hữu vi (= bị điều kiện hoá) thì vô thường, cứ biến đổi,
chẳng được ổn cố, bị suy mòn và diệt đi
Ekaggatà:
(Tâm) nhứt điểm, tâm gom lại vào một điểm duy nhứt trên
đối tượng. Đây là tình trạng tâm đi vào định lực. Tâm
nhứt điểm là thiền chi thứ năm, thường được gọi là
nhứt tâm.
Idappaccàyatà:
Lý duyên sanh, một qui luật thiên nhiên theo đó muôn sự vật
đều do nhân duyên mà khởi sanh và cũng do nhân duyên mà diệt
đi. Thường được biết dưới hình thức là luật nhân quả.
Jhàna:
Thiền na, các tình trạng mà tâm lần lượt đi qua để nhập
vào Định. Thường được gọi tắt là Thiền. Có bốn cấp
Thiền: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền (đôi
khi còn có thêm Ngũ thiền). Bốn cấp nầy thuộc về Sắc
thiền, vì hành giả nhờ quán tưởng các đối tượng có
hình sắc trong cõi dục giới mà nhập vào Định.
Jhànanga:
Thiền chi, các yếu tố của Thiền.
Ở
Sơ thiền có năm thiền chi: (1) giác (Vitakka, nay gọi là tầm,
tâm dán lên đối tượng để quan sát); (2) quán (Vicàra, nay
gọi là tứ, tâm đeo chặt vào đối tượng để quán tưởng);
(3) hỉ (piti, nổi mừng, tâm còn xao động); (4) lạc (sukha,
niềm vui, tâm yên tịnh lại trong niềm hoan lạc; (5) nhứt
tâm (ekaggatà, tức là nhứt điểm tâm, tình trạng tâm gom
vào một điểm trên đối tượng, tức là nhập định.
Ba
cấp Thiền còn lại lần lượt buông rơi bốn thiền chi đầu
của Sơ thiền, để có được ở bực Tứ Thiền với ba thiền
chi: xả, niệm và nhứt tâm.
Kalyana
mitta: Thiện hữu tri thức, thường gọi tắt là Thiện
tri thức, tức là người bạn hữu tốt, chỉ dạy giáo lý
và kinh nghiệm tu tập.
Kàma:
Nhục cảm, tình cảm ham muốn về sự thoả mãn các đòi hỏi
của giác quan hay của tình dục.
Kàya:
Thân, còn có nghĩa là nhóm, tập hợp của nhiều bộ phận
hay sự vật. Thường có nghĩa là thân thể, tấm thân vật
chất. Trong pháp Giác Niệm về Hơi thở, chữ toàn thân bao
gồm cả thânvật chất và các luồng hơi thở. Các luồng
hơi thở được gọi là thân hơi.
Kàya
sankhàra: Thân hành, (body conditioners) là các sự kiện tạo
điều kiện gây ảnh hưởng đến cho thân. Trong pháp Giác
Niệm về Hơi thở, chữ thân hành trỏ vào các hơi thở, vì
hơi thở điều kiện hoá thân thể, tức là, khi hơi thở có
êm dịu thì thân thể mới an ổn.
Khandha:
Uẩn hoặc Ấm. Thân tâm có năm uẩn: (1) sắc uẩn (rùpa khandha)
thuộc về thân vật chất; và bốn uẩn kia thuộc về tinh
thần: (2) thọ uẩn (vedanà khandha), các cảm thọ; (3) tưởng
uẩn (sannà khandha), các tri giác; (4) hành uẩn (sankhàra khandha),
các tư tưởng; (5)thức uẩn (vinnàna khandha), các sự hiểu
biết. Khi năm uẩn trở thành cơ sở cho sự bám níu (= chấp
thủ), thì chúng được gọi là thủ uẩn (upàdanà khandha).
Kilesa:
Phiền não, hay lậu hoặc, làm tâm dơ bẩn chẳng được thanh
tịnh, hoặc các sự sai lầm gây ra khổ sở. Có ba phiền não
chánh, thường được gọi là Tam độc: tham (lobha), sân (dosa),
và si (moha).
Lobha:
Tham lam.
Loka:
Thế giới, vũ trụ, pháp giới.
Lokiya:
Thế tục, đời sống tại gia, đời sống còn ràng buộc vì
gia đình, xã hội, chưa vượt qua khỏi cõi thế gian.
Lokuttara:
Xuất thế, vượt lên khỏi cõi thế gian.
Magga:
Đạo, tức là con đường tu tập, đường lối tu tập
Magga
phala nibbàna: Đạo và Quả Niết-bàn, tức là con đường
tu tập, và quả vị đã thành tựu về Niết-bàn. Đạo là
đường lối tu tập tận diệt các phiền não. Quả vị là
kết quả của việc tu tập đã thành công viên mãn.
Niết-bàn,
ở đây, là sự thanh lương, nhờ đã tận diệt được hết
các phiền não trước kia nung nấu.
Mahaggatà:
trở nên vĩ đại.
Mano:
Ý thức. Chữ ý thức còn dùng để dịch chữ Vinnàna. Chỗ
khác nhau giữa ba danh từ Mano, Vinnàna và Citta:
(1)
Mano trỏ vào cơ năng trí thức của ý thức, như hay biết,
cảm thấy, thể nghiệm và hiểu biết.
(2)
Vinnàna nói đến phạm vi của các giác quan thu nhận các tri
giác.
(3)
Citta là phương diện chủ quan của tâm.