NỘI DUNG
Vài
lời về tác giả
Lời
nói đầu
Phần
giới thiệu: Đạo Phật Hoa Kỳ
Chương
1 – Thiền Định: Tại sao phải bận tâm?
Chương
2 – Tu thiền không phải là?
Chương
3 – Tu thiền là gì?
Chương
4 – Thái độ và Quan điểm
Chương
5 – Sự tu tập
Chương
6 – Làm gì đây với Thân của bạn?
Chương
7 – Làm gì đây với tâm của bạn?
Chương
8 – Cấu trúc của sự tu tập
Chương
9 – Tổ chức sự tu tập
Chương
10 – Đối diện với khó khăn
Chương
11 – Đối diện với Vọng tâm I
Chương
12 – Đối diện với Vọng tâm II
Chương
13 – Chánh niệm
Chương
14 – Chánh niệm và Sự tập trung
Chương
15 – Tu thiền trong đời sống hàng ngày
Chương
16 – Những gì cho bạn?
Vài
lời về Tác giả
Thượng
tọa Henepola Gunaratana thọ cụ túc giới vào năm 12 tuổi, trong
một ngôi chùa nhỏ ở làng Malandeniya, quận Kurunegala thuộc
quốc gia Miến Điện. Thầy bổn sư của ngài là thượng tọa
Kiribatkumbure Sonuttara Mahathera. Vào tuổi 20, ngài được thụ
phong đại đức ở Kandy, năm 1947. Ngài hoàn tất chương trình
giáo dục tại đại học Vidyalankara và đại học Phật học
ở Colombo. Ngài sang Ấn độ trong 5 năm để làm việc thiện
nguyện cho hội từ thiện Mahabodhi, giúp đỡ người Harijana
ở những thành phố Sanchi, Delhi, và Bombay. Mười năm sau đó,
ngài sang Mã lai, làm cố vấn tôn giáo cho hội Sasana Abhivurdhiwardhana,
hội từ thiện Phật giáo, và Liên đoàn thanh niên Phật tử
Mã Lai. Ngài cũng là giáo sư dạy các trường Kishon Dial, Temple
Road Girls, và Trụ sở Nguyên tắc Phật học hội ở thủ đô
Kuala Lumpur.
Với
sự thỉnh mời của hội Sasana Sevaka, thượng tọa Gunaratana
đã đến Hoa kỳ vào năm 1968 với chức vụ Tổng thư ký danh
dự cho hội Phật giáo Vihara ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Năm
1980 ngài được bổ nhậm làm Chủ tịch của hội. Trong những
năm ở Vihara, ngài dạy những lớp học về giáo lý Phật
đà, hướng dẫn những khóa tu thiền, và thuyết giảng một
cách rộng rãi khắp nơi Hoa kỳ, Canada, Âu châu, Úc châu và
New Zealand.
Ngài
tiếp tục sự học và hoàn tất các bằng cấp Cử nhân, Cao
học, và Tiến sĩ triết học ở viện đại học American. Ngài
dạy Phật học tại những trường đại học American, Georgetown,
và Maryland. Những quyển sách và bài báo do ngài viết đã
được phát hành ở Mã lai Á, Ấn độ, Miến điện, và Hoa
kỳ.
Từ
năm 1973 ngài làm cố vấn ở trường đại học American, khuyến
khích giúp đỡ những học sinh có ý muốn tìm hiểu giáo lý
phật giáo và Thiền. Hiện nay, ngài là chủ tịch hội Bhavana
ở West Virginia tại thung lũng Shenandoah, chừng 100 dặm cách
thủ đô Hoa Thịnh Đốn, hướng dẫn thiền tập và điều
khiển những khóa tu học.
Lời
nói đầu
Theo
kinh nghiệm riêng thì tôi thấy ra rằng, phương pháp hữu hiệu
nhất dùng để diễn đạt một vấn đề gì cho người khác
hiểu, là dùng các từ ngữ bình dân nhất, đơn giản nhất.
Hơn thế nữa, tôi đã học được từ phương pháp mô phạm
là, ngôn ngữ càng cứng ngắt khô khan bao nhiêu thì có tác
dụng càng ít đi bấy nhiêu. Người ta thường không có phản
ứng đối với những ngôn từ nghiêm khắc và khuôn khổ;
nhất là khi chúng ta đang cố gắng giảng dạy những gì mà
người nghe cho là không dính dáng gì với đời sống hàng
ngày của họ. Đối với nhiều người, thiền tập là những
gì mà họ không thể làm được một cách thường xuyên hay
liên tục. Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và
đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những
phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có
thể tự tu tập mà không có một vị thầy bên cạnh. Quyển
sách này là theo sự đáp ứng của rất nhiều thiền sinh yêu
cầu; những người này rất cần một phương pháp hướng
dẫn đơn giản bằng ngôn ngữ thông thường bình dân.
Để
chuẩn bị cho quyển sách này, tôi đã được sự giúp đỡ
của rất nhiều bạn đạo. Tôi rất lấy làm biết ơn tất
cả. Đặc biệt là đối với John Patticord, Daniel J. Olmsted,
Matthew Flickstein, Carol Flickstein, Patrick Hamilton, Genny Hamilton,
Bill Mayne, tì kheo Dang Pham Jotika, và tì kheo Sona. Những quí
thân hữu này đã cống hiến những đề nghị, lời dẫn giải
quí giá, cũng như vô số lời phê bình trong khi soạn thảo
quyển sách này. Tôi cũng không quên lời tạ ơn đối với
sự giúp đỡ của Sister Sama và Chris O’Keefe trong vấn đề
ấn tống.
H.
Gunaratana Mahathera
Bhavana
Society
Rt.
1 Box 218-3
High
View, WV 26808
December
7, 1990
Phần
giới thiệu: Phật Giáo Hoa Kỳ
Đề
tài trong quyển sách này là phương pháp tu tập Thiền Minh
Sát Tuệ. Xin lập lại ở đây “Tu Tập”. Đây là một cẩm
nang hướng dẫn tu Thiền Tuệ, là quyển sách chỉ dẫn từng
bước công phu để đạt đến Tuệ giác. Điều này cũng có
nghĩa là thực hành, là thực dụng. Đã có nhiều quyển sách
bao hàm về Phật giáo, trên lãnh vực Triết học và lý thuyết
về tu Thiền Phật giáo. Nếu vị nào có hứng thú về phạm
trù này, chúng tôi khuyến khích bạn nên đọc những cuốn
sách đó. Phần nhiều những quyển sách này được viết rất
xuất sắc. Còn quyển sách mà bạn đang cầm trên tay, diễn
giải cách thức “làm như thế nào”. Nó được viết cho
những ai thật sự muốn tu tập thiền, và đặc biệt nhất
là những người muốn bắt đầu ngay bây giờ. Thật ra ở
Hoa kỳ hiện nay có rất nhiều giáo thọ tốt, đang tu và dạy
tu thiền Phật giáo theo truyền thống. Ý định của chúng
tôi là cung cấp cho bạn những gì cần thiết để bắt đầu.
Những ai thực hành theo sự hướng dẫn trong quyển sách này,
mới có thể biết được là có kết quả hay không. Khi thật
sự tu tập một cách liên tục và siêng năng, người ấy mới
nhận ra cái kết quả mình đạt được. Không một quyển
sách nào khả dĩ có thể bao gồm hết tất cả mọi vấn đề
mà một người tu thiền gặp phải. Bạn rồi đây sẽ cần
phải gặp một người thầy có đủ năng lực để hướng
dẫn triệt để hơn. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện tại,
những điều cơ bản và sự hiểu biết rõ ràng những gì
diễn tả trong quyển sách này, cũng đủ giúp bạn đi một
đoạn đường rất xa.
Có
rất nhiều phương pháp tu thiền. Mỗi truyền thống tôn giáo
lớn đều có một vài phương pháp tu tập mà họ gọi là
sự trầm tư hay thiền định, và từ ngữ này thường hay
bị dùng một cách rất lỏng lẻo. Xin vui lòng hiểu rằng,
trong quyển sách này đề cập đến Thiền Minh Sát là phương
pháp tu tập theo truyền thống của Phật giáo ở miền Nam
và Đông Nam Á châu. Pháp tu này thường hay được gọi là
Thiền Tuệ, vì bởi mục đích của đường lối tu thiền
này là, giúp cho hành giả có được Tuệ giác về bản chất
của sự thật và sự hiểu biết xác thực về sự vận hành
của mọi hiện tượng.
Đạo
Phật trong cách nhìn tổng quát, thì rất ư là khác biệt so
với các tôn giáo thần học khác, mà người phương Tây đã
từng biết qua. Phật Giáo thì giống như là một cánh cửa
trực tiếp mở tới lãnh vực tâm linh hay thiêng liêng mà không
có sự liên đới hay trợ giúp của một vị thần linh nào
cả. Cái phong cách của đạo Phật thì rất là giản dị,
rõ ràng: chỉ là một quá trình xem xét liên tục không ngừng
về hiện thực; một sự khảo xát tỉ mỉ về tiến trình
nhận thức ngay trong hiện tại. Với mục đích là chỉ rõ
ra tính nguỵ tạo và sự thiếu hiểu biết trong cách nhìn
thế gian của chúng ta, để rồi lột trần ra bộ mặt thật
của sự thật rốt ráo. Thiền Minh Sát là một phương pháp
cổ xưa và hoàn hảo nhất cho mục đích này.
Trường
phái Phật giáo nguyên thủy trình bày cho chúng ta một đường
lối hữu hiệu dùng để khám phá đến tầng lớp sâu kín
của tâm, tận nơi gốc rễ cái bản chất của Ý thức. Nó
cũng cung cấp một hệ thống nghiêm chỉnh đúng mức về nghi
lễ. Truyền thống tốt đẹp này được nung kết theo lối
hòa nhập vào tập quán của từng địa phương trong suốt
2,500 năm ở miền Nam và Đông nam Á châu.
Trong
quyển sách này, chúng tôi sẽ cố gắng tách biệt phần cơ
bản chủ yếu và phần phụ thuộc, để hầu mong diễn đạt
thực chất của vấn đề một cách rõ ràng mà vẫn không
đánh mất đi tính trung thực của nó. Những đọc giả nào
có khuynh hướng về lễ nghi thì nên nghiên cứu phương pháp
tu tập Phật giáo nguyên thủy trong những quyển sách khác,
và họ sẽ tìm thấy ra một hệ thống nghi thức to lớn với
đầy nét phong tục tính, mà vẫn bảo tồn rõ nét truyền
thống bản xứ trong phong cách nghi lễ. Còn ở đây, với khuynh
hướng đơn giản để áp dụng những phương cách vào những
hoàn cảnh thay đổi của tư tưởng và cảm giác khi hành giả
cần. Thực hành là cứu cánh. Sự khác biệt giữa Thiền Minh
Sát và những pháp môn thiền khác thì rất ư là quan trọng
và cần phải được thấu hiểu rành rẽ. Đạo Phật chỉ
ra rõ hai hệ phái lớn của Thiền. Chúng có sự khác biệt
về khả năng tinh thần, sự vận hành hay tác động của Tư
tưởng. Theo Kinh Tạng Pali, chúng được gọi là “Thiền quán”
hay “Thiền Minh Sát Tuệ” và “Thiền Chỉ”.
“Thiền
Minh Sát” có thể phiên dịch là “Trí tuệ”, một sự tỉnh
giác rõ ràng và xác thực về những gì đang xảy ra trong lúc
này. “Thiền Chỉ” có thể chuyển dịch là “Tập trung”
hay “Tịch tĩnh”. Đó là một trạng thái mà tâm đã được
đưa vào cảnh giới Định, chỉ tập trung vào một đề mục
và không còn trôi dạt lang thang trong lúc đó. Khi đạt được
lãnh vực này, một sự tĩnh lặng xuyên suốt thấm nhập khắp
thân và tâm, một trạng thái tịch tĩnh cần phải được
kinh nghiệm và thông suốt rõ ràng. Phần lớn các dòng thiền
đều nhấn mạnh về bộ phận “Định” này. Hành giả nhiếp
tâm vào đề mục, chẳng hạn như lời cầu nguyện, một vật
thể nào đó, tụng một thời kinh, ngọn lửa của một cây
nến, một hình tượng của tôn giáo, và loại trừ tất
cả tư tưởng cùng khái niệm ra khỏi Ý thức. Kết quả
của buổi tọa thiền là một trạng thái hạnh phúc tuyệt
vời cho đến khi xuất thiền. Đây là một trạng thái rất
tốt đẹp, thú vị và quyến rũ, nhưng nó chỉ có tính cách
tạm thời thôi. Thiền quán thì đặt phần quan trọng vào
bộ phận khác, “Trí Tuệ.”
Hành
giả tu Thiền Minh Sát dùng sự tập trung của mình như là
loại dụng cụ, để cho sự chú tâm có thể đục bể từng
mảnh cái bức tường ảo tưởng; bức tường này đã từ
bấy lâu nay vẫn luôn che lấp ánh sáng sự thật về đời
sống. Quá trình này sẽ dần dần làm sự chú tâm mạnh dần
lên và đến gần thêm hơn với bản chất của sự thật.
Đây là một tiến trình cần rất nhiều thời gian, nhưng nếu
duy trì bền bỉ và liên tục thì một ngày nào đó, hành giả
có thể xuyên thấu cái bức tường kia và làm cho nó xụp
đổ dưới ánh sáng của phút giây hiện tại. Cái quá trình
biến đổi đến đây coi như là hoàn tất. Lãnh vực này còn
được gọi là “giải thoát”, và nó thì vĩnh hằng. Sự
giải thoát là mục đích tối hậu của mọi pháp tu trong bất
cứ pháp thừa nào của đạo Phật. Nhưng đường lối để
đạt đến cứu cánh thì thật là đa dạng.
Có
nhiều sự khác biệt to lớn giữa các tông phái trong Phật
giáo. Nhưng tựu trung được xếp loại vào hai Tông phái chính
— Đại thừa và Nguyên thuỷ. Đại thừa Phật pháp thì phổ
biến lan tràn qua các vùng Đông Á, tạo nên nền văn hóa của
Trung hoa, Hàn quốc, Nhật bản, Trung Á Nepal, Tây tạng và Việt
Nam. Nhánh được biết rộng rãi nhất trong Đại thừa là
Thiền Tông, dòng này được thực hành rộng rãi ở Nhật
bản, Hàn quốc, Việt nam và Hoa kỳ. Phật giáo Nguyên thủy
tồn tại về phía Nam và Đông Nam Á, lan tràn và phổ biến
ở những quốc gia như Miến điện, Thái lan, Lào, Miên. Trong
quyển sách này, chúng tôi phổ cập theo đường lối tu tập
của Phật giáo Nguyên thủy.
Tài
liệu về truyền thống Nguyên thủy đều diễn đạt cả hai
phương pháp về Thiền Chỉ (tập trung và tâm tĩnh lặng) và
Thiền Quán (Tuệ giác và Tỉnh giác). Có 40 đề mục được
dẫn giải trong tài liệu Pali. Chúng được đề nghị như
là những đối tượng tập trung và là đề tài cho sự xem
xét để dẫn đến Tuệ giác (kinh nghiệm trực giác). Nhưng
đây chỉ là sổ tay căn bản, và chúng tôi chỉ hạn chế
sự bàn luận về tầm mức quan trọng của những đề mục
này — Hơi thở. Quyển sách này là phần giới thiệu về
sự đạt được khả năng Chánh niệm qua sự chú ý vừa
phải, và hiểu biết rõ ràng về cả tiến trình của sự
thở. Dùng hơi thở như là điểm chú ý chính, thiền giả
áp dụng sự quan sát vào toàn bộ những gì đang vận hành
trong Tri giác. Hành giả học nhìn sự thay đổi đang xảy ra
trong tất cả kinh nghiệm sinh lý, cảm giác và quan niệm. Người
ấy học hoạt động của sự kiện tâm lý và lề lối biến
chuyển trong bản chất của Tri thức. Tất cả những thay đổi
này luôn luôn xảy ra liên tục không ngừng và hiện hữu trong
mỗi phút giây kinh nghiệm trong đời sống của chính mình.
Tu
thiền là một phương thức sống, một phương thức kinh nghiệm
tự nhiên (vốn có). Phương pháp này không thể nào được
dạy như là một môn học trong học đường. Cái tâm điểm
của phương pháp dạy phải xuất phát từ kinh nghiệm tự
thân của người thầy. Tuy nhiên, vẫn còn có cả một
khối giáo lý khổng lồ về đề tài này, nó vốn là sản
phẩm đã được để lại của bậc trí tuệ, toàn giác trong
lịch sử nhân loại. Những tài liệu này rất đáng giá cho
mọi người nghiên cứu. Điểm quan trọng nhất trong cuốn
sách này được trích dẫn ra từ Tam Tạng kinh điển (Tipitaka),
đây là ba Tạng kinh bao gồm những gì đức Phật đã dạy
khi ngài còn hoằng pháp độ sinh. Tam Tạng luận gồm có Luật
Tạng (Vinaya), nói lên những điều luật dành cho những tu
sĩ Phật giáo và phật tử; Kinh Tạng (Suttas), ghi lại những
bài giáo pháp của chính đức Phật dạy; và Luận Tạng, là
toàn bộ Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) bao gồm tất cả những Triết
lý và Tâm lý học Phật giáo.
Vào
thế kỷ thứ nhất, có một học giả Phật giáo nổi danh
là Ưu-bà-đế-tu (Upatissa) đã viết quyển “Con đường giải
thoát” (Vimuttimagga), mà trong đó tác giả đã tóm lược lời
dạy của đức Phật về pháp tu Thiền. Cho đến thế kỷ
thứ 5th, một học giả Phật giáo uyên thâm khác, ngài Phật
Âm (Buddhaghosa), cũng đã viết một luận thuyết về lãnh vực
này — Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) là quyển sách có tiêu
chuẩn cao về thiền định, giá trị cho mãi đến ngày nay.
Những vị thầy dạy tu thiền thời hiện đại, tùy thuộc
vào Tam Tạng kinh điển và vào những kinh nghiệm của chính
mình. Mục đích của chúng tôi ở đây là trình bày cho bạn
một đường lối rõ ràng, xúc tích về Thiền quán qua Anh
ngữ. Nhưng quyển sách này chỉ mời gọi bạn bước vào ngưỡng
cửa mà thôi. Phần còn lại là tùy thuộc vào bạn có chịu
cất những bước đầu tiên hay không, trên con đường khám
phá ra “bạn là ai” và tất cả những thứ đó có ý nghĩa
là gì. Đây là một cuộc hành trình xứng đáng cho chúng ta
vấn thân vào. Chúng tôi chúc bạn được thành công.
02-22-2008
04:36:23