Chương
2: Tu thiền không phải là
Thiền
định chỉ là một từ ngữ. Bạn đã từng nghe qua từ ngữ
này, nếu chưa thì bạn đã không nhặt lấy quyển sách này
để đọc làm gì. Quá trình hoạt động của tư duy có tính
cách liên kết, và không biết được đã có bao nhiêu hệ
tư tưởng, trường phái triết học, và tôn giáo đã sử dụng
đến từ ngữ “thiền định” này. Một số trong những
quan niệm này thì có phần nào đúng và phần còn lại thì
không dính dáng chút nào đến “thiền định” cả. Một
vài phương pháp của các tôn giáo khác thì không có liên hệ
hay đồng dạng gì đến tu tập “thiền quán”. Trước khi
đi xa hơn, chúng ta cần phải làm sáng tỏ một vài vấn đề
trong phạm vi này, để cho những người còn mới đối với
tu thiền có thể hiểu mà không bị trở ngại hay bị lầm
lẫn. Hãy bắt đầu với những vấn đề rõ ràng nhất.
Chúng
tôi sẽ không dạy bạn xem xét trong bụng mình có những gì
hay là tụng những mật ngữ khó hiểu nào cả. Bạn cũng không
phải chế ngự những loài yêu quái hay khai thác những năng
lượng vô hình nào cả. Không có những đảnh màu sẽ trao
tặng để biểu dương cho thành tích của bạn, và thiền sinh
không cần phải cạo nhẵn đầu mình hay đội những chiếc
khăn kiểu Hồi giáo. Bạn cũng không cần phải cho đi tất
cả những gì mình đang sở hữu và dọn vào cư trú trong tu
viện. Sự thật, ngoại trừ khi cuộc đời của bạn thật
là vô đạo đức và là một đống hỗn loạn, thì bạn có
thể bắt đầu ngay bây giờ và có được một chút tiến
bộ ngay. Nghe qua có vẻ thuyết phục lắm phải không?
Có
rất nhiều sách được viết về đề tài Thiền định. Phần
lớn những cuốn sách này, đã được viết theo quan điểm
của một tôn giáo hay trường phái triết học nào đó; và
nhiều tác giả không bận lòng nói rõ ràng lập trường quan
điểm của họ trong khi viết. Họ trình bày về thiền định
giống như là những quy luật chung, nhưng trên thật sự, người
viết đang muốn đưa ra một đường lối tu tập dành riêng
cho hệ thống tôn giáo của mình. Kết quả là mọi thứ trở
nên xáo trộn. Tệ hại hơn thế nữa, toàn bộ hệ tư tưởng
phức tạp và sự diễn dịch đang tồn tại, không còn ăn
khớp với nhau. Giờ thì tất cả trở nên một mớ hỗn độn
to lớn do những ý tưởng mâu thuẫn, cộng thêm vào đó rất
nhiều tài liệu rãi rác khắp nơi. Quyển sách này thì có
tính đặc thù riêng. Chúng ta đang áp dụng duy nhất pháp môn
Thiền quán hay Minh Sát Tuệ. Chúng tôi sẽ dẫn giải tới
bạn cách xem xét sự vận hành tâm của mình trong những trạng
thái khác nhau, lúc nó yên tĩnh, lúc nó buông xả, để bạn
có thể nhận biết xuyên suốt vào đường lối vận hành
của cái thực chất hiện thật bên trong.
Có
một số quan niệm sai lầm chung về thiền định. Những sai
lầm này xuất hiện ra lần này sang lần khác đối với những
thiền sinh mới, những câu hỏi giống nhau tiếp tục khởi
lên. Tốt nhất là chúng ta đối diện với những vấn đề
này lập tức, bởi vì chúng là những thành kiến che lấp
sự tiến bộ ngay từ lúc ban đầu. Chúng ta giải quyết từng
thành kiến một để phá vỡ chúng.
Quan
niệm sai lầm #1:
Thiền
định chỉ là một phương pháp thư giãn
Vấn
đề ở đây là từ ngữ “chỉ là.” Sự thư giãn là một
bộ phận của thiền định. Nhưng Thiền quán nhắm vào mục
tiêu cao cả hơn. Dù cho là như thế, mệnh đề ở trên lại
rất chính xác cho pháp tu thiền của những tôn giáo khác hơn.
Tất cả những phương pháp thiền đặt nặng về tập trung
tâm trí, đem tâm áp đặt vào một đề mục hay một lãnh
vực tư tưởng. Khi thực hiện được việc này một cách
vững chãi và thuần thục, hành giả sẽ đạt đến một trạng
thái nới lỏng thâm sâu và yên tĩnh được gọi là Thiền
Na. Đó là một trạng thái vô cùng tĩnh lặng trong đó có
mức hạnh phúc cao độ. Trạng thái hạnh phúc này ở một
cấp độ cao, vượt xa hẳn những kinh nghiệm sung sướng trong
tầm hoạt động của Ý thức. Phần lớn các phương pháp
tu tập này dừng lại ở đây. Đó là mục tiêu tối hậu
của pháp tu này. Và khi đã đạt được, thì bạn sẽ tiếp
tục tái thiết lập cái kinh nghiệm này nhiều lần cho đến
cuối cuộc đời. Thiền quán thì không phải là như thế.
Nó có mục tiêu khác hơn — Sự tỉnh giác. Sự tập trung
và thư giãn là những yếu tố cần thiết để phát huy sự
tỉnh giác. Chúng là những hiện tượng báo trước, một phương
tiện tốt, một loại sản phẩm phụ có ích lợi. Nhưng chúng
không phải là mục đích cứu cánh. Mục tiêu tối hậu của
thiền quán là “kinh nghiệm tự chứng”. Thiền quán là một
pháp tu uyên thâm không ngoài mục đích thanh lọc và chuyển
biến cuộc đời của người hành thiền. Chúng ta sẽ đi sâu
vào chi tiết về sự khác biệt giữa khả năng tập trung và
“trí tuệ tự chứng” trong Chương 14.
Quan
niệm sai lầm #2:
Thiền
định có nghĩa là đi vào trạng thái hôn mê
Một
lần nữa, mệnh đề này chỉ đúng cho vài hệ thống tu tập
khác, chứ không đúng cho Thiền quán. “Trí tuệ trực quán”
thì không tạo nên một dạng thôi miên nào cả. Không phải
là bạn đang cố gắng làm cho tâm của mình trống rỗng để
rơi vào trạng thái vô thức, hay là cố gắng biến mình thành
một loài thực vật vô tri. Nếu theo ý nghĩa này, thì trái
ngược lại sẽ đúng cho Thiền quán. Thiền sinh sẽ trở nên
thích nghi hơn với những thay đổi cảm xúc của mình. Bạn
sẽ học biết bản thân ở tầng mức chính xác và rõ ràng
hơn. Trong quá trình tu tập pháp môn này, vài cảnh giới có
thể xảy ra gần như hôn trầm cho thiền sinh, nhưng thật ra
thì không phải thế; trong những lúc buồn ngủ, đề mục
thường dễ bị lạc mất và tâm đi lang thang. Còn trong khi
có được sự tập trung cao độ, thiền giả rất ư là tỉnh
táo. Bề ngoài trông qua, hai tình huống thì giống nhau, nhưng
bên trong thì hoàn toàn khác hẳn, và những hiện tượng này
cũng không phải là điểm quan yếu của Thiền quán. Như chúng
tôi đã nhắc qua, trạng thái tập trung cao độ của Thiền
Na chỉ là dụng cụ hay là những nấc thang trên con đường
tu tập đi đến Tuệ giác. Thiền quán được định nghĩa
là vun trồng Chánh niệm hay Tỉnh giác. Nếu bạn thấy ra rằng,
mình đang bị lạc vào vô thức trong lúc công phu, thì bạn
không phải là đang hành thiền. Đó là dựa theo định nghĩa
của từ ngữ được dùng trong thiền quán. Đơn giản thế
thôi.
Quan
niệm sai lầm #3:
Thiền
định là một pháp tu huyền bí không thể nào hiểu được
Điều
này chỉ gần đúng mà thôi. Thiền định dùng để đối diện
với Ý thức nằm sâu trong Tư tưởng. Do đó, ngôn ngữ không
thể nào diễn đạt hết được những gì trong phạm vi này.
Tuy nói thế, nó không có nghĩa là chúng ta vĩnh viễn không
thể nào hiểu thấu. Có nhiều cách để hiểu biết vấn đề
một cách thâm sâu hơn là ngôn ngữ. Chúng ta hiểu cách đi,
đứng. Bạn có lẽ không thể nào diễn tả tuần tự chính
xác những cảm giác và những cơ bắp co rút trong tiến trình
bước đi. Nhưng bạn vẫn có thể làm được tốt. Thiền
định cần phải được thông hiểu theo cùng lề lối này,
bằng cách thực dụng nó. Nó không phải là những gì mà bạn
có thể học được theo khóa học trừu tượng. Nó phải được
học qua kinh nghiệm. Thiền định không phải là những công
thức vô tư duy, có thể cho ra những kết quả theo dự đoán
một cách tự động khi cho vào những ẩn số. Bạn không thể
nào đoán ra được những gì sẽ xảy ra trong một buổi tọa
thiền nào cả. Mỗi buổi tọa thiền là một khoảng thời
gian phiêu lưu để khảo cứu, kinh nghiệm. Thật ra, điều
này là sự thật, khi bạn đạt được khả năng phán xét
và tương quan trong sự tu tập của mình, từ đó bạn có thể
dùng nó như là một kim chỉ nam. Điều này chỉ ra rằng, bạn
thường hay bị lạc hướng trong khi tu tập sẽ tạo nên những
giai đoạn trì trệ. Hãy học nhìn vào mỗi giây phút như
là: nó chỉ là một giây phút duy nhất tồn tại trong vũ trụ
này, đây chính là điều tối quan yếu trong Thiền quán.
Quan
niệm sai lầm #4:
Thiền
định để thành người có công năng đặc dị
Không
phải thế! Mục đích của thiền định là phát triển Tỉnh
giác. Học cách đọc tâm mình không phải là điều tối hậu.
Mục tiêu rốt ráo không phải là khả năng bay bổng, đằng
vân, mà là “sự giải thoát.” Có mối liên quan giữa hiện
tượng tâm linh và thiền định, nhưng sự tương quan này rất
ư là phức tạp. Trong giai đoạn đầu của tu thiền, những
hiện tượng này có thể phát sinh. Vài thiền giả có thể
có được một số kinh nghiệm trực giác hay hiểu biết về
ký ức tiền kiếp mà những người khác thì không có thể.
Trong trường hợp này, chúng ta không thể xem đó là một tiến
bộ tâm linh hay là công năng cảm ứng. Không nên tặng cho
những hiện tượng này cái tầm nhìn quan trọng quá mức.
Những hiện tượng như thế, thật ra thì có hại đối với
những hành giả sơ cơ, bởi vì chúng rất ư là quyến rũ.
Đây là những cạm bẫy có thể lôi cuốn hành giả đi lệch
hướng. Sự khuyến cáo tốt nhất cho thiền sinh là đừng
chấp chặt nhiều vào những hiện tượng này. Nếu chúng khởi
sinh, thì ghi nhận từng hiện tượng một, chỉ thế thôi.
Còn bằng không thì cũng không sao cả. Thường thì chúng sẽ
không xảy ra. Ở vào giai đoạn nào đó trong quá trình tu tập,
hành giả có thể thực hành vài đề tài đặc biệt để
có năng lực tâm linh. Nhưng điều này chỉ xảy ra ở giai
đoạn sau này. Sau khi thiền giả đạt được những lãnh vực
sâu sắc của Thiền Na, người ấy mới có thể có khả năng
để xử dụng năng lực này mà không bị nó điều khiển
và huỷ diệt cuộc đời của mình. Hành giả sẽ phát triển
năng lực này chỉ vỏn vẹn dùng để phục vụ người khác
mà thôi. Giai đoạn này chỉ xảy ra sau rất nhiều năm tu tập,
đừng nên quá lo lắng về nó. Chỉ nên tận lực tập trung
phát triển khả năng tỉnh giác mà thôi. Nếu có những giọng
nói
và hình ảnh phát sinh, chỉ cần ghi nhận chúng rồi để cho
chúng tự phân hủy, đừng bận lòng chấp chặt hay theo đuổi
chúng.
Quan
niệm sai lầm #5:
Thiền
định thì nguy hiểm, người thận trọng nên tránh xa
Bất
cứ việc gì cũng có nguy hiểm tiềm ẩn trong đó. Băng ngang
qua một con đường, bạn có thể bị một xe buýt đụng phải.
Khi đang tắm bạn vẫn có thể bị trẹo cổ. Khi tu thiền,
bạn có thể nạo vét đi nhiều ý tưởng xấu xa trong quá
khứ. Những biến cố đã bị đè nén, vùi lấp trong tận
cùng sâu thẵm của tâm thức trong thời gian thật dài, có
thể trở nên rất đáng sợ, hoặc cũng có thể có nhiều
lợi ích. Không có một sinh hoạt nào hoàn toàn không có mầm
móng hiểm họa. Nhưng điều đó không có nghĩa là, chúng ta
nên gói cuộn thân mình trong một cái tổ an toàn nào đó.
Đó không phải là đời sống mà là trạng thái chờ chết.
Phương thức tốt nhất để đối diện với hiểm họa, là
biết được một chừng mức nào đó về nó: bao nhiêu, ở
đâu, và xử thế ra sao khi nó phát sinh. Đó cũng là một trong
những mục đích của quyển sách này. Thiền quán là công
trình xây dựng Tỉnh giác. Thực chất của quá trình thì không
có gì là nguy hiểm, mà còn có thể nói còn trái ngược lại
nữa. Tăng trưởng Tỉnh giác là biện pháp phòng vệ đối
với hiểm họa. Nếu hoàn tất đúng đắn, thì tu thiền là
một quá trình rất nhẹ nhàng và chậm rãi. Thực hành thật
chậm, từ từ, và phát triển sự tu tập của mình bằng cách
để cho nó xảy ra một cách tự nhiên. Không có gì là nên
gượng ép cả. Sau này, khi có được sự chỉ dẫn và khảo
sát của một vị thầy tốt, bạn có thể đi nhanh hơn để
trải qua những khóa thiền thâm sâu. Ở giai đoạn đầu, chỉ
nên thong thả. Thực hành một cách bình thản và mọi sự
việc sẽ đâu vào đó.
Quan
niệm sai lầm #6:
Thiền
định chỉ dành cho tu sĩ, không phải cho người thế gian
Bạn
sẽ thấy lối suy nghĩ này rất phổ biến ở Á châu, nơi
mà những tu sĩ và những người hành đạo rất được mọi
người trong xã hội tôn kính. Tình trạng này có tính tương
đồng với thái độ của người phương Tây dành cho những
tài tử điện ảnh và các nhà chơi thể thao nổi tiếng. Những
hạng người như thế đã được tạo dựng lên theo những
khuôn mẩu, đã được thổi phồng lên xa hơn so với giá trị
đời sống của chính bản thân họ, và đã được áp đặt
với mọi thứ đặc tính mà không có mấy người có thể
thực sự có được. Ngay cả trong thế giới Tây phương, chúng
ta cũng có lối suy nghĩ như thế đối với thiền định. Chúng
ta luôn kỳ vọng người hành thiền phải là những hình tượng
đặc biệt tôn kính đến mức độ, khi để miếng bơ vào
miệng thì miếng bơ kia cũng không dám tan ra. Chỉ cần gần
những vị này thôi là tất cả mọi ảo tưởng sẽ được
xua tan đi.
Những
thiền giả luôn luôn phải chứng thực nguồn năng lượng
to lớn và cảm hứng cao độ; họ sống bằng cuộc đời với
lời nói đầy sức mạnh. Dĩ nhiên, điều này thì có thể
đúng cho nhiều thiền sư, nhưng họ không phải tu thiền vì
bởi họ là tu sĩ. Mà là trái ngược lại, họ là tu sĩ
vì bởi họ tu thiền. Thiền định là quá trình đưa họ
đến đó (làm tu sĩ.) Và họ bắt đầu tu tập trước khi
họ trở nên thánh thiện. Đây là một điểm quan trọng. Một
số lớn thiền sinh chừng như nhận ra rằng, một người phải
trở nên hoàn toàn đạo đức rồi mới có thể bắt đầu
tu thiền. Sự hoạch định này không mang đến kết quả cho
sự tu tập được. Nền tảng đạo đức đòi hỏi một mức
độ tự chế tâm lý. Đó là một điều kiện tiên quyết.
Khi bạn không có sự tự chế nào cả, thì bạn không thể
thực hiện bất kỳ lời răn nào, và nếu tâm của bạn luôn
bị hổn loạn quay cuồng như trục quay của máy xoay sinh tố,
thì sự tự chế làm sao hiện hữu. Cho nên, thái độ tâm
lý bắt buộc phải có trước.
Có
ba bộ phận cấu thành phương pháp tu thiền Phật giáo —
Giới, Định, và Tuệ. Ba bộ phận này phát triển cùng nhau
trong quá trình tu tập của thiền sinh. Mỗi phần ảnh hưởng
hai phần kia, cho nên thiền sinh phải vun trồng cả ba cùng
một lúc, chớ không phải từng phần. Khi có được Trí tuệ
để hiểu một cách chân thật những hoàn cảnh, thì bạn
sẽ có lòng thương cảm hướng đến mọi loài một cách tự
phát. Lòng thương cảm có nghĩa là, thiền sinh tự động thu
thúc mình không để cho phát sinh ý tưởng, hành động và
lời nói, vì có thể thương tổn đến bản thân hay người
khác. Từ đó, phong cách cư xử của thiền sinh tự nhiên có
tính đạo đức cao. Chỉ khi nào không thể hiểu thấu sự
việc, thì bạn mới tạo ra vấn đề. Nếu bạn không thể
thấy ra cái hậu quả được cấu tạo ra từ hành động của
mình, thì bạn sẽ dễ bị lầm lẫn. Những ai muốn đợi
mãi cho đến lúc hoàn toàn thánh thiện thì mới tu thiền,
thì việc ấy sẽ không bao giờ xảy đến. Giống như câu
nói của một nhà thông thái cổ là: người này đang đợi
cho mặt nước đại dương phẵng lặng để cho hắn tắm.
Để hiểu sự liên hệ này rõ ràng hơn, hãy hình dung một
hệ thống đo lường nguyên tắc đạo đức. Mức thấp nhất
là tuân thủ những nguyên tắc và luật lệ đã được đặt
ra bởi một số người. Có thể là do những nhà tiên tri mà
bạn ưa thích. Hoặc là nhà lãnh đạo, người linh hướng
hay là cha mẹ của bạn. Không cần biết ai là người lập
ra những qui tắc, ở giai đoạn này, bạn chỉ cần biết chúng
và thi hành theo. Một người máy có thể làm được điều
này. Thậm chí một con tinh tinh Phi châu cũng có thể làm được
nếu những qui tắc kia đủ đơn giản và nó sẽ bị đánh
một roi mỗi khi nó phạm qui. Ở tầng mức này không cần
phải tu thiền gì cả. Chỉ cần một bảng qui tắc và một
người cầm cây roi.
Tầng
mức nguyên tắc đạo đức kế tiếp bao gồm: tuân thủ những
qui tắc nhưng không có một người cầm cây roi canh chừng.
Bạn tuân theo bởi vì đã bị những luật lệ này thấm nhập
vào tâm. Bạn sẽ tự khiển trách mình mỗi lần vi phạm.
Cấp bậc này thì đòi hỏi một ít tâm tự chủ. Nếu mô
hình tư duy của bạn lộn xộn thì phương cách cư xử cũng
sẽ lộn xộn theo. Trình độ văn hóa tâm lý sẽ làm giảm
bớt tráo trộn tâm lý.
Mức
độ thứ ba của nguyên tắc đạo đức thì nên gọi là “nền
tảng Đạo đức.” Ở mức độ này là tất cả số lượng
cần có trong toàn bộ đo lường nguyên tắc mà chúng ta đang
nói, đây là một hệ thống biến từ thật sự để đo lường.
Ở tầng mức cao nhất (Đạo đức), cá nhân đó không phải
tuân theo những qui tắc do một thẩm quyền nào đặt ra cả.
Người ấy chọn lấy phong cách hành xử cho chính mình, tùy
thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cần thiết. Cấp bực đạo
đức này đòi hỏi sự thông tuệ thật sự và khả năng phán
xét về tất cả mọi mặt của vấn đề, để có thể có
một giải pháp xử thế năng động, thích nghi cho từng hoàn
cảnh. Hơn nữa, mỗi cá nhân tự quyết định lấy những
gì cần thiết để thoát khỏi những tư kiến giới hạn của
mình. Người ấy phải nhìn thấy toàn bộ hoàn cảnh, từ
quan điểm khách quan, nhận xét vô tư đối với nhu cầu cá
nhân và người chung quanh. Nói cách khác, người ấy không
bị ràng buộc bởi tham lam, hờn ghét, ghen tỵ, và tất cả
những ích kỷ mà thường hay che khuất cái tầm nhìn của
mình so với quan điểm của người khác. Chỉ khi đó, người
đó mới chọn ra những hành động rõ ràng và phù hợp nhất
cho hoàn cảnh lúc ấy. Mức độ đạo đức này nhất định
đòi hỏi công phu tu thiền, ngoại trừ bạn bẩm sinh ra là
một thánh nhân. Không có một phương cách nào khác để có
được kỷ năng này. Hơn thế nữa, quá trình huấn luyện
như thế này rất ư là gian nan. Nếu bạn cố gắng xào nấu
những khía cạnh của vấn đề trong tâm thức, thì bạn chỉ
làm cho bản thân mình kiệt quệ mà thôi. Trí thông minh không
thể nào giữ cho nhiều trái banh trên không trung cùng một
lúc. Nó sẽ bị quá tải. May mắn là tầng sâu của Ý thức
có thể thực hiện quá trình này dễ dàng. Tu thiền có thể
hoàn thành giai đoạn này cho bạn. Nó là một cảm giác kỳ
bí.
Một
ngày kia, bạn gặp phải vấn đề — thí dụ như đối diện
với vụ ly dị của chú Herman. Rõ là không có một giải pháp
nào tốt và mớ lộn xộn to lớn của những “rút mắc”
tạo cho bạn những cảm giác bồn chồn. Ngày hôm sau, trong
khi bạn rữa chén, đồng thời đang nghĩ về một vấn đề
khác, nhưng bất chợt một giải pháp tốt phát sinh. Nó nhảy
ra từ trong tiềm thức và bạn nói “À há!”, và một vấn
đề đã được giải quyết thông suốt. Loại trực giác này
chỉ có thể xảy ra khi bạn vượt thoát vòng lẫn quẫn của
lý luận ra khỏi vấn đề, và để cho tiềm thức một cơ
hội để trù tính một giải pháp. Tâm nhận biết chỉ đứng
chắn trên lối đi làm sự kiện trở nên trì trệ và khó
khăn hơn. Tu thiền dạy bạn cách nào thoát khỏi vòng vận
hành của tư tưởng. Nó là một nghệ thuật tâm linh dùng
để giải quyết vấn đề, cũng là một kỷ năng hữu ích
trong đời sống hàng ngày. Tu thiền không nhất thiết là phải
dành riêng cho những người tu khổ hạnh và các ẩn sĩ. Nó
là một kỷ năng thực dụng có thể dùng trong những sự kiện
mỗi ngày và áp dụng tức thời trong đời sống của mọi
người. Thiền định không phải là của thế giới khác.
Thật
không may, sự thật này cấu thành vấn đề cho vài loại thiền
sinh. Họ tu tập để kỳ vọng nhận thức ra lập tức cái
thế giới phạm thiên. Những gì họ thường có được là
phương cách quét sạch phiền não và giải quyết khó khăn
trong cuộc sống. Họ thất vọng một cách không cần thiết.
Những cù cặn thì phải đến trước. Tiếng nói của thiên
thần thì phải mất rất nhiều thời gian.
Quan
niệm sai lầm #7:
Thiền
định là trốn tránh sự thật
Không
đúng! Tu thiền là thể nhập vào sự thật. Nó không cách
ly bạn ra khỏi khổ đau của đời sống, mà là giúp bạn
nghiên cứu sâu vào cuộc đời, cũng như mọi khía cạnh khác,
để bạn có thể xuyên thủng bức tường khổ đau, vượt
thoát niềm thống khổ. Thiền quán là pháp tu được thực
hiện theo lối quyết định rõ ràng để đối diện với sự
thật, kinh nghiệm đời sống như-nó-là, và đương đầu với
những gì bạn tìm thấy ra. Nó giúp bạn tống khứ đi những
ảo tưởng và vượt thoát tất cả sự tự lừa dối phù
phiếm đối với chính mình trong mọi thời. Những gì ở đó
thì ở đó. Bạn chính là bạn trong lúc hiện tại. Sự tự
dối lừa bản thân về những khuyết điểm, tự khích lệ
và bào chữa, chỉ càng tạo thêm bó buộc mình vào vòng ảo
tưởng mà thôi. Thiền quán thì không có ý định làm quên
đi bản thân hay che dấu những khó khăn của thiền sinh. Nó
chỉ dạy cho bạn thế nào để nhìn tự thân như-nó-là của
mình. Nhìn ra những gì hiện hữu và chấp nhận chúng một
cách toàn diện. Chỉ khi ấy bạn mới có thể thay đổi được
chúng.
Quan
niệm sai lầm #8:
Thiền
định là phương thức tốt để đi lên
A!
Đúng mà cũng không đúng. Tu thiền đôi khi có thể thâm nhập
vào trạng thái hạnh phúc tuyệt vời. Nhưng đó không phải
là mục đích rốt ráo và không luôn luôn xảy ra. Hơn nữa,
nếu bạn tu thiền với mục đích ấy trong đầu, thì cơ hội
cho những trạng thái này xảy ra lại càng thấp hơn, nếu
so với khi bạn tu thiền với mục tiêu đúng đắn, nghĩa là
phát triển Tỉnh giác. Trạng thái hạnh phúc là cái quả của
sự thư giãn; còn sự thư giản là cái quả của sự buông
bỏ căng thẳng. Tìm hạnh phúc từ tu thiền là đưa sự căng
thẳng vào quá trình, sẽ làm cho tất cả mọi điều kiện
liên quan đến nó cùng bị ảnh hưởng theo. Đó là một vấn
đề tiến thoái lưỡng nan. Bạn có thể có hạnh phúc chỉ
khi nào bạn không theo đuổi nó. So sánh với trạng thái lâng
lâng và cảm thấy tuyệt vời là những trạng thái mà bạn
muốn theo đuổi, thì có nhiều cách dễ dàng hơn để có được.
Chúng được cung cấp ở các lữ quán hay những góc nhá nhem
tối cuối con đường, khắp nơi trong phố. Trạng thái lâng
lâng thì không phải là mục đích của tu thiền. Nó là sản
phẩm phụ có thể xảy ra, một loại hiệu ứng phụ mê li
và trở nên kéo dài hơn khi bạn tu thiền lâu dài. Bạn sẽ
không nghe bất kỳ sự phủ nhận nào về vấn đề này từ
những thiền giả tu tập lâu năm.
Quan
niệm sai lầm #9:
Thiền
định là ích kỹ
Nhìn
bề ngoài thì có vẻ là như thế. Hành giả ngồi bất động
trên chiếc tọa cụ trong góc phòng kia như một tượng gỗ.
Người ấy đâu có đi hiến tặng máu? Không có! Người ấy
đang bận rộn để giúp đỡ những nạn nhân bị thiên tai?
Cũng không! Nhưng hãy xem xét về động lực của người đó.
Tại sao người ấy làm như thế? Ý định của người ấy
là thanh lọc cái tâm sân hận, thành kiến, và tàn ác của
chính mình. Người ấy tham gia một cách tích cực trong quá
trình loại bỏ tham lam, căng thẳng và lãnh đạm. Những trạng
thái tâm lý này đã và đang làm trở ngại lòng thương cảm
của bản thân hành giả đối với người khác. Ngoại trừ
khi nào những trạng thái này mất đi, bằng không, tất cả
những điều tốt gì hành giả đã, đang và sẽ làm, chỉ
là hình thức để vun bồi cho cái bản Ngã của mình mà thôi.
Vì tư kỷ, với danh nghĩa “giúp đỡ” là một danh phù phổ
biến nhất từ xưa cho đến nay. Người có quyền lực tối
cao chính là người lớn tiếng nhất về những hành vi cao
thượng. Những phiên tòa Hồi giáo đều được điều khiển
để mang lại phúc lợi cho đa số quần chúng. Khám xét đời
sống cá nhân của những thiền giả chân chính, thì bạn sẽ
thấy ra rằng, họ thường tham dự vào những hoạt động
từ thiện. Bạn sẽ ít thấy được họ hành động như những
người tham gia chiến dịch truyền giáo, sẵn sàng hy sinh bất
kỳ cá nhân nào cho mục đích sùng tín tôn giáo. Thật ra,
chính chúng ta mới đích thật là những kẻ ích kỷ hơn là
chúng ta đang nghĩ. Cái “Ta” có cách biến đổi những hành
động cao thượng trở thành bẩn thỉu nếu chúng ta tạo cơ
hội cho nó. Xuyên qua quá trình tu tập thiền, chúng ta trở
nên có chú tâm hơn về bản thân mình, đúng như là con người
thật của chính mình, bằng cách nhận diện ra mọi khía cạnh
tiềm ẩn mà chúng ta biểu lộ tính ích kỷ của mình ra ngoài.
Để rồi, chúng ta thật sự bắt đầu trở nên vô ngã một
cách thành thật. Thanh lọc sự ích kỷ của bản thân thì
không phải là hành động ích kỷ.
Quan
niệm sai lầm #10:
Khi
bạn tu thiền, bạn ngồi đó để suy nghĩ những tư tưởng
cao thượng
Không
đúng! Có một vài hệ thống nghiệm xét để làm công việc
này, nhưng không phải là thiền quán. Thiền quán là tu tập
Tỉnh giác. Tỉnh giác về những gì ở đây, dù cho nó là
sự thật cao thượng hay là những cặn bả tồi tệ nhất.
Bất cứ những gì đang ở đây trong hiện tại. Dĩ nhiên,
những tư tưởng tốt đẹp, cao thượng có thể phát sinh trong
khoảng thời gian đang tu tập. Chắc chắn là không thể tránh
và không cần phải tìm kiếm chúng. Chúng chỉ là những cảm
giác thiện phụ thuộc. Thiền quán là sự tu tập đơn giản;
nó bao gồm những kinh nghiệm trực giác về điều kiện của
đời sống mình, mà không có sự thiên vị hay những cảnh
giới áp đặt lên chúng. Tu Thiền quán là bạn đang nhìn
cuộc đời mình trôi qua trong từng phút giây mà không phê
phán. Những gì xuất hiện thì sẽ phơi bày như-nó-là.
Nó rất ư là đơn giản.
Quan
niệm sai lầm #11:
Chỉ
vài tuần lễ tu thiền thì tất cả vấn đề của tôi sẽ
biến mất
Thật
là đáng tiếc, thiền tập thì không phải là loại thần dược
trị bá bệnh. Bạn sẽ thấy thay đổi ngay, nhưng thật sự
cái hiệu quả thì phải mất rất nhiều năm mới có thể
thấy ra. Đó là lối vận hành của vũ trụ. Không có gì quí
giá mà có thể đạt được sau một đêm. Tu thiền thì càng
khó hơn trên vài phương diện. Nó đòi hỏi một quá trình
kỷ luật dài hạn và đôi khi rất ư là gian khổ. Trong mỗi
buổi tọa thiền bạn sẽ có được một chút, nhưng những
thành quả này thường là rất vi tế. Chúng xảy ra ở tầng
mức sâu thẵm trong tâm, và sẽ biểu lộ ra ở sau này. Nếu
bạn tọa thiền bền bỉ để tìm kiếm những thay đổi cấp
tốc, thì bạn sẽ bỏ qua cơ hội để thấy những biến đổi
nhỏ này. Bạn sẽ chán nản, bỏ cuộc và kết luận là những
thay đổi này sẽ không bao giờ xảy ra. Kiên nhẫn là chìa
khóa. Kiên nhẫn. Nếu bạn không học được gì từ tu thiền,
thì bạn sẽ học được lòng kiên nhẫn. Và đó là một bài
học quí giá nhất luôn luôn hiện hữu.