00
Mục Lục
|
01
Lời đầu sách của HT Thanh Từ
|
02
Đề Tựa của Tỳ Kheo Huệ Nguyên (1763)
|
03
Hành Trạng Thượng Sĩ
|
04
Đối Cơ (trả Lời Người Hỏi)
|
05
Tụng Cổ
|
06-1
Bài ca Tâm Phật
|
06-2
Bài ngâm phóng cuồng, Sống
chết nhàn mà thôi
|
06-3
Phàm Thánh không hai, Mê ngộ không khác, Ngậm bĩu môi
|
06-4
Bài văn Trứ Từ tự răn, Thời tiết an định, Dương
chân, Vào cát bụi
|
06-5
Muôn việc về như, Thói đời hư dối, Họa thơ quan
Huyện, Cảnh vật Tịnh Bang, Họa Thơ Hưng Trí Thượng Vị
Hầu
|
06-6
Tụng đạo học Trần Thánh Tông, Chăn trâu đất, Vui
thích giang hồ, Vật không tuỳ người, Viếng Đại Sư Tăng
Điền, Thăm bệnh Đại Sư Phước Đường
|
06-7
Lễ Thiền sư Tiêu Dao ở Phước Đường, Cảnh vật
Phước Đường, Tăng Pháp sư Thuần Nhất, Đùa Thiền Sư Trí
Viễn xem kinh giải nghĩa, Điệu Tiên Sư
Khuyên
đời vào đạo, Bảo chúng, Bảo chúng, Bảo học giả, Chợt
hứng
|
06-8
Cội tùng đáy khe, Xuất trần, Đạo lớn không khó,
Tâm vương, Thả trâu, Đề tịnh xá, Chợt hứng, Cây gậy,
Chiếu thân, Tự đề, Chợt tỉnh, Tự tại, Bảo học trò,
Bảo tu nghiệp Tây phương, Thoát đời, Vui thú giang hồ.
|
07
Lời Bạt
|
|
|
|
|
X
TUỆ TRUNG THƯỢNG
SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI
Biên
Soạn: Trúc Lâm Tổ Sư (Trần Nhân Tông)
Dịch
và Giảng: Hoà ThượngThích Thanh Từ
Ban
Văn Hoá Trung Ương GHPGVN Xuất Bản 1996
THI
CA (tt)
Dịch:
MUÔN
VIỆC VỀ NHƯ
Từ
không hiện có, có không thông
Có
có không không rốt cuộc đồng.
Phiền
não Bồ-đề vốn chẳng khác
Chân
như vọng niệm thảy đều không.
Thân
như cảnh huyễn, nghiệp như bóng
Tâm
tợ gió đưa, tánh tợ bồng.
Đừng
hỏi tử sanh, ma với Phật
Các
sao hướng bắc, nước về đông.
Giảng:
Muôn
việc về như là tất cả mọi sự mọi việc vốn dĩ là như
vậy, chẳng có gì phải nghĩ phải bàn.
“Từ
không hiện có, có không thông, có có không không rốt cuộc
đồng.” Tất cả mọi vật trên đời này từ cái không rồi
thành cái có, có một thời gian hoại đi thành không, có và
không nó thông nhau. Ví dụ cái nhà, trước đây là không,
sau do nhiều duyên hợp lại nên có cái nhà. Cái nhà có khoảng
năm bảy chục năm hư mục, không sửa chữa thì nó hoại mất
không còn, trở lại không. Vậy nên có không nó thông với
nhau, nó không riêng thật có và cũng không riêng thật không.
Từ không, duyên hợp thành có; từ có duyên ly tán thành không.
Con người cũng vậy, trước kia là không, do duyên cha mẹ gặp
nhau mà có thân này, thân này sống năm bảy mươi năm thì
gió lửa ly tán, hoại diệt thành không. Thế nên cái có hiện
giờ gốc từ cái không thuở trước. Và, cái có hiện giờ
một mai duyên ly tán cũng trở thành không. Cái có cái không
nó thông nhau, chớ không riêng không khác. Thấy dường như
hai, nhưng sự thật không hai. Vì trước không, sau có, có rồi
lại không. Có không không hai thể.
“Phiền
não Bồ-đề vốn chẳng khác, chân như vọng niệm thảy đều
không.” Đa số người tu đều sợ phiền não, thích Bồ-đề.
Bồ-đề là giác, phiền não là mê, nên thích giác sợ mê.
Nhưng sự thật mê không rời giác, giác không ngoài mê. Tại
sao? Vì giác là giác cái mê và mê là mê cái giác. Cũng như
trong cái nhà này, không có đèn, nói tối, mở đèn, hết tối,
nói sáng. Hết tối nói nhà sáng, hết sáng nói nhà tối. Sáng
tối đổi thay chớ không gian cái nhà không thay đổi. Sáng
không thêm gì cho cái nhà, tối không làm mất gì trong cái
nhà. Cũng vậy, tâm thể chân như không phải là Bồ-đề,
cũng không phải là phiền não. Do dấy nghiệp sanh phiền não,
hễ có phiền não thì che khuất Bồ-đề. Thế nên phải giác,
biết phiền não là nhân đau khổ cần phải xả bỏ. Giác
biết phiền não, gọi là Bồ- đề. Phiền não và giác biết
phiền não dường như hai. Nhưng thật sự thể nó không hai.
Từ tâm thể chân như dấy khởi phiền não và cũng từ tâm
thể chân như khởi giác phiền não, phiền não hết, giác (Bồ-đề)
cũng không còn, chỉ là tâm thể chân như không hai, không khác.
Tôi lấy ví dụ này cho dễ hiểu: Tâm chúng ta đang bình an,
thì không có nhẫn, nhưng lúc chúng ta nổi sân mới có nhẫn
để ức chế cơn sân cho lặng xuống, khi sân lặng rồi thì
nhẫn cũng hết. Như vậy sân và nhẫn không thật, nó khởi
lên từ tâm bình an rồi diệt mất. Thể nó không hai không
khác. Cũng vậy, chúng ta vì mê nên mới chạy theo ngũ dục
thế gian, bây giờ cần phải tỉnh giác để hết mê. Khi chúng
ta hết mê rồi thì không cần tỉnh giác nữa, lúc đó không
nói mê cũng không nói giác. Như vậy phiền não và Bồ-đề
không phải hai. Và, “chân như vọng niệm thảy đều không.”
Vọng niệm dấy khởi che khuất chân như. Khi vọng niệm dấy
khởi nói là động, muốn trở về cái tịnh là chân như.
Động và tịnh thấy như hai, vọng niệm là cái động lặng
rồi đâu còn muốn trở về với cái tịnh là chân như. Hết
động không nói tịnh (chân như) nữa, tự nó là như vậy
thôi. Vậy, vọng niệm, chân như, phiền não, Bồ-đề chỉ
là chuyện đối trị nhau thôi; đối trị rồi buông hết.
Đó mới là chỗ chân thật cứu kính.
“Thân
như cảnh huyễn, nghiệp như bóng.” Chúng ta mang thân này
thấy nó là thật là quí. Nhưng xét cho cùng thì nó chỉ là
cái thân tạm bợ giả dối. Nhìn lui về quá khứ, những người
xưa như tổ tiên ông bà chúng ta, cũng hoạt động, cũng sanh
sống, bây giờ còn đâu? Người kế đó cũng hoạt động
cũng làm đủ thứ, bây giờ còn đâu? Người gần nhất là
cha mẹ chúng ta cũng một thời làm ra tiền của, bây giờ
còn đâu? Giờ đến chúng ta cũng lăng xăng hoạt động tạo
tác, mai kia có còn không? Tất cả đều không còn. Như vậy
người xưa và người nay có thật không? Nếu thật thì không
mất. Bây giờ người trước mất, người kế mất, người
sau cũng mất. Vậy thì cái gì là thật? Thân này chỉ là huyễn
có, có không thật. Thân đã huyễn thì nghiệp cũng như bóng,
vì nghiệp phát xuất từ thân khẩu ý, mà thân khẩu ý tựa
nơi thân này. Thân không thật thì nghiệp cũng không thật,
cũng như bóng như hình. Như vậy chúng ta có sợ nghiệp không?
Đâu quí vị nói một câu chí lý nghe coi, sợ hay không?
Nếu
đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng thấy thân này như huyễn,
nghiệp như bóng thì có gì sợ! Còn nếu lúc nào cũng thấy
thân này thật thì có nghiệp thật nên phải sợ. Nhớ, phải
thấy hai chiều, đừng nhìn một chiều. Ở đây Thượng Sĩ
nói trong trường hợp của người tỉnh. Nếu chúng ta là người
còn mê chưa tỉnh thì phải sợ nghiệp. Vì tạo nghiệp dữ
thì đọa địa ngục, thọ quả báo khổ, tạo nghiệp lành
thì sanh lên thiên đường được sung sướng. Như vậy, nếu
còn thấy thân thật cảnh thật thì nghiệp cũng thật, nếu
thấy thân giả, cảnh giả thì nghiệp như bóng như vang. Phật
dạy rõ ràng như thế để chúng ta đừng lầm chấp. Người
không hiểu nghe đâu chấp đó làm những chuyện không hợp
đạo. Miệng nói thân không thật mà cứ tranh chấp quyền
lợi hơn thua đủ thứ. Hành động như vậy không hợp lý,
vì còn thấy thân thật.
“Tâm
tợ gió đưa tánh tợ bồng.” Ở đây Thượng Sĩ dùng chữ
tâm chữ tánh đúng ra nên dùng chữ chân tâm và vọng tưởng.
Chữ
tâm chỉ cho vọng tưởng, chữ tánh chỉ cho chân tâm. Cỏ
bồng khi khô, bông nó nhẹ, gió thổi bay bổng lên. Bông cỏ
bồng vốn không bay, vì gió thổi nó mới bay. Cũng vậy tâm
thể chân như vốn không động, nhưng vọng niệm dấy khởi
in tuồng như có động. Giống như bông cỏ bồng tự nó không
bay không động. Vì gió thổi đẩy nó bay lên; nó bay là do
gió. Tâm thể chân như vốn không động, do vọng niệm dấy
khởi in tuồng như động.
“Đừng
hỏi tử sanh ma với Phật, các sao hướng bắc, nước về
đông.” Tử, sanh, ma, Phật, tất cả những từ ngữ đó do
đối đãi giả lập, không thật có nên Thượng Sĩ bảo đừng
có hỏi, đừng có thắc mắc. Vì tất cả pháp trên thế gian
này từ tâm dấy khởi, rồi lặng về như. Ví như (ở Việt
Nam) sao trên trời đầu hôm thì thấy ở hướng đông, đến
khuya thì thấy ở hướng tây, vì trái đất xoay nên đêm nào
cũng như đêm nào đều thấy như thế không khác. Và, nước
ở sông đều chảy ra biển đông, chớ không chảy lên đồi
núi.
Bài
này Thượng Sĩ nói, tất cả muôn sự muôn vật trên thế
gian này tuy có sai biệt, nhưng đến chỗ rốt ráo chân thật
đều hướng về chỗ như như, chớ không chỗ nào khác, nên
Ngài đề tựa là “Muôn việc về như”.
Dịch:
THÓI
ĐỜI HƯ DỐI
Vân
cẩu đổi thay lắm vẻ mà
Mơ
màng gởi trọn giấc Nam Kha.
Sương
vừa rửa hạ, sen đang nụ
Gió
mới mời xuân, mai đã hoa.
Trăng
khuất núi tây, không còn bóng
Nước
trôi đông hải, sóng đã qua.
Anh
xem đàn én lầu Vương Tạ
Nay
đến làm thân với mọi nhà.
Giảng:
Thói
đời hư dối là thói đời không thật, vì luôn luôn đổi
thay, không cố định.
“Vân
cẩu đổi thay lắm vẻ mà.” Nhìn lên bầu trời chúng ta
thấy những cụm mây khi hiện hình này, khi hiện hình nọ,
có lúc như hình con chó, có lúc như hình con sấu, con cọp
v.v... thay hình đổi dạng liền liền. Tại sao nó đổi thay
như thế? Vì mây không cố định, tụ tan tạm bợ nên luôn
luôn thay đổi hình dạng sắc tướng. Thượng Sĩ mượn hình
ảnh mây để nói lên sự đổi dời của muôn vật.
“Mơ
màng gởi trọn giấc Nam Kha.” Giấc Nam Kha dẫn từ câu chuyện
Thuần Vu Phần nằm mộng thấy mình thi đỗ cao, được vua
gả công chúa cho làm Thái thú quận Nam Kha vô cùng vinh hiển.
Sau đó Vu Phần đi dẹp giặc bị thua trận, công chúa lâm
bệnh nặng rồi mất. Nhà vua đem lòng nghi kỵ, cho về quê.
Vu Phần chợt thức giấc thấy mình nằm dưới gốc cây hòe
bên ổ kiến. Vu Phần ngẫm nghĩ mọi việc trong cuộc đời
như ảo ảnh trong giấc mộng. Thượng Sĩ dẫn câu chuyện
này nói lên muôn sự muôn vật ở cõi đời đổi thay như
những cụm mây và cuộc sống mấy mươi năm của kiếp người
như một giấc mộng.
“Sương
vừa rửa hạ, sen đang nụ.” Về đêm sương rơi xuống rửa
sạch cái nóng bức của mùa hạ. Hết tiết hạ sang tiết
thu, nên hoa sen có nụ dưới hồ. “Gió mới mời xuân mai
đã hoa.” Gió đông báo hiệu đổi mùa, sắp sang xuân mai
cũng chuẩn bị nở hoa. Ở trước thất tôi chưa có gió đông
mà thấy cây mai bắt đầu chớm nụ. Như vậy chỉ cần thời
tiết thay đổi thì sự vật cũng theo đó đổi thay, nó luôn
chuyển biến không dừng. Đây là những hình ảnh rất đẹp
diễn tả mùa hạ vừa qua, mùa thu lại đến, mùa đông sắp
tàn và mùa xuân bước sang. Nhờ sương rửa hết nóng bức
của mùa hạ nên hoa sen nở, nhờ gió mới mời xuân về nên
hoa mai rộ nở đón xuân.
“Trăng
khuất núi tây, không còn bóng”: Trên hư không mặt trăng
vừa khuất núi thì không còn một bóng trăng nào hiện ra và
bầu trời tối mờ mịt. “Nước trôi đông hải sóng đã
qua”: Ở dưới biển nước chảy về đông tức là về biển,
thì các lượn sóng cũng tan. Như vậy trăng bị khuất núi
không còn bóng, nước chảy ra biển những lượn sóng cũng
mất theo. Đó là những hình ảnh diễn tả sự vật luôn luôn
chuyển biến đổi dời rồi theo đó mà tan mất.
“Anh
xem đàn én lầu Vương Tạ”: Họ Vương và họ Tạ là hai
nhà quí tộc đời Tống phong lưu phú quí không ai sánh bằng.
Khi đó có đàn chim én bay đến tụ tập trước lầu nhà họ
chơi giỡn. Lúc cha mẹ họ Vương họ Tạ mất, con cháu họ
nghèo khổ, đàn én bay tới nhà khác đậu. Cho nên thơ Đường
có hai câu: “Cựu thời Vương, Tạ đường tiền yến, khí
nhập tầm thường bách tính gia” tức là khi xưa trước nhà
họ Vương, họ Tạ có bầy chim én tới đậu, bây giờ nó
bay vào những nhà tầm thường của bá tánh. Thượng Sĩ dẫn
ý này để nói lên cái thói đời hư dối, khi giàu sang phú
quí thì biết bao người tìm đến làm thân, đến khi nghèo
khổ hết thời thì bị mọi người coi rẻ và xa lánh. Giống
như đàn chim én khi họ Vương họ Tạ giàu sang phú quí thì
nó tụ về, lúc nghèo hèn khổ sở thì nó bay đi. Thói đời
là như vậy, nên có câu “nghèo ở giữa chợ không ai hỏi,
giàu ở núi sâu lắm khách tầm” (Bần cư náo thị vô nhân
vấn, phú tại thâm sơn hữu viễn thân). Như vậy có cái gì
là thật vinh thật nhục? Gặp thời thì mọi sự đều tốt,
hết thời thì mọi sự đều xấu. Thói đời là đổi thay,
là không thật thì lấy cái gì làm chuẩn cho sự nhục vinh?
Bài
thơ này nói lên sự tạm bợ đổi thay của sự vật và của
lòng người. Hai câu đầu nói lên cái tạm bợ của sự vật
như mây nổi, như giấc mộng, không có gì thật. Bốn câu
giữa chứng minh sự tạm bợ đổi thay qua thời tiết, qua
ngoại cảnh trăng nước v.v... Hai câu cuối nói sự hư dối
của thói đời, diễn tả rõ ràng sự đổi trắng thay đen
của lòng người. Lúc phú quí thì kẻ đón người đưa, khi
nghèo hèn thì người người xa lánh, đó là lẽ thường của
thế gian.
Dịch:
HỌA
THƠ QUAN HUYỆN
Đã
từng nối gót Tứ Minh Cuồng
Ưa
mến Y Vương với Quỉ Vương.
Trong
chưa giác ngộ chân giác ngộ
Chỗ
khó nghĩ bàn khéo nghĩ bàn.
Căn
hèn muốn hỏi “trường sanh thuốc”
Tác
giả(1) đâu cần “bất tử phương”.
Cá
chẳng tìm mồi, nay nước lạnh
Đồng
thời nơm, lưới thảy đều quên.
Giảng:
“Đã
từng nối gót Tứ Minh Cuồng”: “Tứ Minh Cuồng” là biệt
hiệu của ông Hạ Tri Chương, ông là người Vĩnh Hưng làm
Thị Lang bộ Lễ đời vua Đường Huyền Tông, tánh ông phóng
đãng, lúc già xin về làm đạo sĩ ở Kinh Hồ lấy hiệu là
Tứ Minh Cuồng. Ngài dẫn câu chuyện này ý muốn nói nối
gót theo ông Hạ Tri Chương chán danh vọng từ quan để làm
đạo sĩ tự do phóng khoáng.
_________________________________________________________
(1)
Đáng lý là tác gia, chỉ cho người đạt đạo thì mới đúng
ý của bài thơ. Nhưng trong bản chữ Hán in là tác giả nên
chúng tôi vẫn để tác giả.
“Ưa
mến Y Vương với Quỉ Vương”: Y Vương là chỉ đức Phật,
Ngài được tôn xưng là Vô thượng Y Vương, tức là ông thầy
thuốc không ai cao hơn được. Đức Phật được tôn xưng
như vậy có xứng đáng không? Ở thế gian ông thầy thuốc
giỏi nhất thì cứu được người bệnh sắp chết sống thêm
năm, mười năm, gọi là thầy thuốc đại tài. Chúng ta sống
trong sanh tử tuổi thọ cao lắm chỉ bảy mươi, tám mươi
năm là chết. Ở đây đức Phật dạy chúng ta tu để không
còn bị chết chi phối, vậy Ngài không phải ông vua thầy
thuốc là gì? Ngài đưa chúng ta tới chỗ không còn sanh tử
tức là vô sanh, nghĩa là sống với cái sanh mạng không cùng
không dứt. Sanh mạng đó không phải là sanh mạng lăng xăng
lộn xộn này, mà là bản thể thanh tịnh sáng suốt hiện
có của chính mình. Nhận ra sống được với bản thể thì
muôn kiếp chúng ta không còn bị sanh tử chi phối nên nói
Phật là vị Y Vương. Lẽ ra chúng ta chỉ mến Y Vương chớ
không có ưa Quỉ Vương. Nhưng tại sao Ngài nói ưa Quỉ Vương?
Thật ra Quỉ Vương đáng sợ là khi nào chúng ta sợ nó, nếu
chúng ta không sợ nó thì nó không đáng sợ. Song vì người
ta có cái bệnh hay đổ thừa, chẳng hạn như một Thiền sinh
tăng thấy một cô thiếu nữ đẹp, tâm xao xuyến bất an,
ngồi thiền không yên, đổ thừa tại cô thiếu nữ mà hôm
nay tôi ngồi thiền không yên. Có phải tại cô thiếu nữ
đẹp nên Thiền sinh tăng ngồi thiền không yên không? Cô thiếu
nữ đẹp là do phước đời trước của cô nên cô đẹp,
đó là chuyện của cô, cô đi tới đi lui mặc kệ cô. Nếu
vị ấy thấy cô thì biết mình có cái hay thấy, thì đâu
có can hệ gì? Do thấy rồi khởi tâm phân biệt đẹp xấu
rồi ưa thích nên xao xuyến bất an, đó là tại vị ấy, chớ
đâu phải tại cô. Tại vị ấy mà vị ấy đổ thừa cho
người thật là vô lý. Nếu tâm vị ấy không ưa thích xao
xuyến bởi những hình sắc thì một trăm cô đi qua cũng không
dính dáng gì vị ấy. Thấy Phật tâm an nhiên, thấy cô thiếu
nữ tâm cũng an nhiên, thì Y Vương và Quỉ Vương đều thích
có gì là tai họa? Tai họa là do mình chớ không phải do người
làm cho mình họa, nhưng vì thiên hạ có cái bệnh đổ thừa,
hễ có chuyện dở xảy ra là cứ đổ thừa tại người này
người kia chớ không ai can đảm nhận cái xấu cái dở đó
là do mình. Bây giờ biết rõ tất cả cái dở từ tâm mê
nhiễm của mình mà ra, nếu hết mê hết nhiễm thì ngoại
cảnh tốt xấu cũng không có giá trị, không làm hại được
mình. Và, nhờ có Quỉ Vương nên chúng ta mới biết được
tâm mình còn ô nhiễm hay hết ô nhiễm. Gần Phật lạy Phật
tâm thanh tịnh chuyện đó là thường. Khi gặp duyên ô nhiễm
mà tâm vẫn thanh tịnh thì Quỉ Vương rất hiền và rất dễ
mến. Thế nên Thượng Sĩ nói:
“Trong
chưa giác ngộ chân giác ngộ, chỗ khó nghĩ bàn khéo nghĩ
bàn.” Trong chỗ chưa giác ngộ chúng ta phải thật giác ngộ,
không thể lôi thôi lơ là được. “Chỗ khó nghĩ bàn” là
từ ngữ nhà Thiền, tông Qui Ngưỡng có dùng câu: “Nan tư
lương xứ diệu tư lương” nghĩa là “chỗ khó nghĩ bàn
khéo nghĩ bàn”. Trong chỗ đó không cho chúng ta suy nghĩ, phân
biệt, mà chúng ta phải khéo suy nghĩ phân biệt, đó là điểm
đặc biệt của nhà Thiền. Chúng ta đọc qua đoạn đối đáp
giữa Lục Tổ và Thiền sư Huyền Giác sẽ rõ chỗ này.
Sư
Huyền Giác sau khi tham vấn Lục Tổ liền cáo từ ra về. Tổ
bảo:
-
Sao trở về quá nhanh!
Sư
thưa:
-
Vốn tự không động thì đâu có nhanh.
Tổ
bảo:
-
Cái gì biết không động?
Sư
thưa:
-
Ngài tự phân biệt.
Tổ
bảo:
-
Ngươi được ý vô sanh rất sâu!
Sư
thưa:
-
Vô sanh há có ý sao?
Tổ
bảo:
-
Không ý, cái gì biết phân biệt?
Sư
thưa:
-
Phân biệt cũng không phải ý.
Trong
cái vô sanh không phải là không phân biệt, nhưng phân biệt
mà không phải ý. Vậy ý là tư lương, tư lương mà không
phải ý, mới gọi là “Diệu tư lương”.
“Căn
hèn muốn hỏi trường sanh thuốc, tác giả đâu cần bất
tử phương.” Người căn cơ thấp vì còn yêu bản ngã nên
họ ưa sống lâu, do đó muốn xin thuốc trường sanh để uống
cho được trường sanh bất tử. Tác giả là chỉ cho những
bậc đã đạt đạo, những vị đó không cần những phương
thuốc bất tử. Tại sao? Vì khi đã giác ngộ thì sống với
cái thể bất sanh còn tìm cái vô sanh làm gì nữa.
Thượng
Sĩ nói, khi chúng ta chưa giác ngộ thì phải thật giác ngộ,
ngay trong cái khó nghĩ bàn khéo nghĩ bàn, nhưng cái nghĩ bàn
không phải thuộc ý, người căn cơ thấp thì muốn tìm thuốc
để được sống lâu, còn người đạt đạo không cầu sống
lâu. Tại sao? Vì đạo tức vô sanh, vô sanh thì cầu bất tử
làm gì? Để thấy, người tu chân thật phải làm được những
điều đó.
“Cá
chẳng tìm mồi, nay nước lạnh, đồng thời nơm, lưới thảy
đều quên.” Hai câu này rất đẹp, mùa đông nước đóng
băng, trời lạnh quá nên cá không đi tìm mồi. Khi cá không
đi tìm mồi thì phương tiện để bắt cá là nơm và lưới
cũng bỏ luôn. Đây nói lên cái ý khi chúng ta tu tới chỗ
tâm nhất như rồi thì giống như trời mùa đông lạnh, cá
không đi tìm mồi. Thông thường cá tìm mồi để nuôi sống.
Cũng vậy, vọng tưởng luôn luôn chạy theo sáu trần để
nuôi lớn phiền não vô minh. Nhưng khi công phu tu hành tới
chỗ tâm nhất như thì giống như con cá lặng lẽ nằm yên
không đi tìm mồi, nó không tìm mồi thì phương tiện để
bắt cá là nơm và lưới cũng bỏ luôn. Khi chúng ta tu tới
chỗ rốt ráo thì Bồ-đề Niết-bàn cũng không, phiền não
vọng tưởng cũng hết, nghĩa là năng sở đều quên. Năng
là con cá, sở là nơm lưới cả hai đều không còn.
Dịch:
CẢNH
VẬT TỊNH BANG
Trại
quê vừa dựng cảnh thanh tân
Đào
lý xanh tươi bốn tiết xuân.
Tiếng
sáo mục đồng, trăng gác lặng
Áo
tơi mấy mảnh, mây ướt choàng.
Đường
uốn ruột dê thông phố chợ
Khe
chia đuôi én dứt hồng trần.
|