00
Mục Lục
|
01
Lời đầu sách của HT Thanh Từ
|
02
Đề Tựa của Tỳ Kheo Huệ Nguyên (1763)
|
03
Hành Trạng Thượng Sĩ
|
04
Đối Cơ (trả Lời Người Hỏi)
|
05
Tụng Cổ
|
06-1
Bài ca Tâm Phật
|
06-2
Bài ngâm phóng cuồng, Sống
chết nhàn mà thôi
|
06-3
Phàm Thánh không hai, Mê ngộ không khác, Ngậm bĩu môi
|
06-4
Bài văn Trứ Từ tự răn, Thời tiết an định, Dương
chân, Vào cát bụi
|
06-5
Muôn việc về như, Thói đời hư dối, Họa thơ quan
Huyện, Cảnh vật Tịnh Bang, Họa Thơ Hưng Trí Thượng Vị
Hầu
|
06-6
Tụng đạo học Trần Thánh Tông, Chăn trâu đất, Vui
thích giang hồ, Vật không tuỳ người, Viếng Đại Sư Tăng
Điền, Thăm bệnh Đại Sư Phước Đường
|
06-7
Lễ Thiền sư Tiêu Dao ở Phước Đường, Cảnh vật
Phước Đường, Tăng Pháp sư Thuần Nhất, Đùa Thiền Sư Trí
Viễn xem kinh giải nghĩa, Điệu Tiên Sư
Khuyên
đời vào đạo, Bảo chúng, Bảo chúng, Bảo học giả, Chợt
hứng
|
06-8
Cội tùng đáy khe, Xuất trần, Đạo lớn không khó,
Tâm vương, Thả trâu, Đề tịnh xá, Chợt hứng, Cây gậy,
Chiếu thân, Tự đề, Chợt tỉnh, Tự tại, Bảo học trò,
Bảo tu nghiệp Tây phương, Thoát đời, Vui thú giang hồ.
|
07
Lời Bạt
|
|
|
|
|
X
TUỆ TRUNG THƯỢNG
SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI
Biên
Soạn: Trúc Lâm Tổ Sư (Trần Nhân Tông)
Dịch
và Giảng: Hoà ThượngThích Thanh Từ
Ban
Văn Hoá Trung Ương GHPGVN Xuất Bản 1996
TRÚC
LÂM TỔ SƯ
TUỆ
TRUNG THƯỢNG SĨ
NGỮ
LỤC
Dịch:
(Trên hội Trúc Lâm núi Yên Tử, chùa Long Động, đồng tử
Tỳ-kheo Huệ Nguyên khắc bản lại và thắp hương kính cẩn
đề tựa.)
Chư Phật ba thuở, các vị Tổ sư nhiều đời, vì một đại
sự nhân duyên xuất hiện ra đời: Cốt chỉ cho chúng sanh
ngộ được Phật của chính mình, tròn đồng thái hư không
thiếu không dư, người người vốn đủ, mỗi mỗi viên thành.
Bởi vì chúng sanh không ngộ chân Phật của mình, nên bị
các Kinh Lục lừa gạt mất một đời, săn đuổi theo cái
thấy nghe, có lợi ích gì? Do chẳng rõ muôn pháp như hoa đốm
trong không, chỉ một tâm dựng lập. Kinh Kinh Lục Lục trùng
trùng điệp điệp, nhiều như lá trong rừng, số như cát biển,
giấy mực văn từ không thể kể hết. Dù nói tám muôn bốn
ngàn (84.000) pháp môn, mỗi môn trọn như người gỗ múa may,
tên tuy khác mà thể vẫn đồng.
Tên khác là, phương tiện khai (mở) giá (đóng) có muôn ức
Kinh Lục.
Thể đồng là, chỉ trở về chỗ gốc, một tánh thái hư.
Người học thấu rõ một thì muôn việc đều xong, đâu có
nhiều thứ văn tự bìm sắn, ngôn ngữ chương cú, đối đãi
cơ quan kỳ đặc ấy vậy. Nhưng Thượng tổ Đại đức Tiêu
Dao, duy chỉ một sự thật, chẳng dùng phương tiện quyền
xảo. Vừa đến nước ta, Ngài cởi trần không áo (thoát thể
vô y) cầm cần câu không lưỡi, đi vào kinh thành, dùng thần
cơ ăn xong đập bát. Ý này cốt tìm được người pháp khí,
để chỉ dạy Thiền tông, chữ bát ( ) đã
mở, hai tay trao cho.
Thế nào là trao cho? Nghĩa là “Bính Đinh đồng tử”. Lửa
đã khắp người, chẳng cần tìm bên ngoài, phải quan sát
lại tánh mình (phản quan tự tánh).
Phật Phật chỉ truyền tâm ấn, Tổ Tổ thầm trao tâm ấn,
đều khiến chúng sanh ngộ Phật của mình. Ví như trong cây
có lửa, lý này cũng vậy. Con người được nói có tánh,
tánh tức là Bồ-đề, vốn tự tròn đủ, chẳng từ nơi khác
mà được. Tin được chính mình là chữ bát (
) đã mở, hai tay trao cho rồi vậy. Lục này là Đại đức
Tiêu Dao nói cho Thượng Sĩ Tuệ Trung. Thượng Sĩ Tuệ Trung
nói cho Điều Ngự Giác Hoàng đệ nhất Tổ Trúc Lâm. Điều
Ngự Giác Hoàng nói cho Đại sư Pháp Loa đệ nhị Tổ Trúc
Lâm. Đại sư Pháp Loa nói cho tôn giả Huyền Quang đệ tam
Tổ Trúc Lâm. Tôn giả Huyền Quang nói cho tông phái Trúc Lâm
và Thiền tông khắp thiên hạ. Xưa qua, nay lại truyền trao
cho nhau.
Quyển Lục này là phương thuốc hay, khéo đối trị các bệnh,
nhanh chóng đốn ngộ thành Phật, thẳng suốt nguồn tâm, nhảy
vọt vào biển giác, giết chết vọng thức, phá sạch danh
tướng, là tông không không; siêu Tam thừa, vượt Phật thừa,
là yếu chỉ thượng thượng.
Song Tỳ-kheo Huệ Nguyên tôi một phen xem quyển Lục này, chữ
bát ( ) liền mở toang, nói nín đều quên, tam không thông
suốt. Tôi tịnh tọa tại sơn am, cầm sách lên tán tụng rằng:
Thiền
là tâm của Phật,
Giáo
là mắt của Phật,
Pháp
là thuốc của Phật.
Mắt
xem tâm ngộ,
BệNH
LÀNH THUốC Bỏ,
CởI
TRầN KHÔNG ÁO,
THÂN
AN Tự TạI.
Đã
được tự lợi,
RộNG
KHắP LợI THA,
CHÍ
BÁM NHấT TÂM,
LÀM
HƯNG THịNH TAM BảO.
Lý
không một vật,
Sự
CÓ MUÔN THứ,
TIếP
ÁNH SÁNG,
NốI
MÙI HƯƠNG,
SOI
SÁNG Kẻ TRƯớC,
PHấN
PHÁT NGƯờI SAU,
GÁNH
VÁC PHậT PHÁP,
LÀM
RƯờNG CộT NHÀ PHậT.
Nguyện
nắm vững ngọn đèn Tổ,
MặT
TRờI PHậT SÁNG NGờI.
Tôi khắc bản để lại, truyền lâu ức kiếp, gương xưa
mãi sáng, tiếp nối ánh sáng không cùng, khiến chúng sanh khắp
thế giới đại thiên, cùng rõ thấu pháp môn bất nhị, truyền
bá trong nước được muôn đời, đồng chứng Phật quả Nhất
thừa. Canh khuya giờ tốt, xin chúc tán rằng:
Nghiệp vua vĩnh cửu,
CÙNG
ĐỉNH LINH THứU VÒI VọI HằNG còn.
Đạo
Tổ miên trường,
ĐồNG
NGUồN YÊN Tử CHảY MÃI KHÔNG dứt.
Cung
kính đề tựa:
Đầu nẻo Trúc Lâm đưa đuốc tuệ
Trong nhà biển Thích thả thuyền từ.
Có duyên biết ngọc người Biện Hòa
Tâm nở giác hoa sanh Phật quả.
Niên hiệu Cảnh Hưng thứ hai mươi bốn (1763), năm Quí Mùi,
tiết đông, ngày tốt khắc bản in lại.
Giảng:
Quyển Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục nằm trong bộ “Trần
Triều Dật Tồn Phật Điển Lục”, đó là bộ Phật điển
còn sót của đời nhà Trần. Trong bộ này gồm có Tuệ Trung
Thượng Sĩ Ngữ Lục, Tam Tổ Thực Lục...
“Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục” do Điều Ngự Giác Hoàng
biên soạn, Thiền sư Pháp Loa khắc bản in. Tập sách này rất
quan yếu trong nhà Thiền, nhất là Thiền tông Việt Nam.
Chư Phật ba thuở, các vị Tổ sư nhiều đời, vì một đại
sự nhân duyên xuất hiện ra đời: Cốt chỉ cho chúng sanh
ngộ được Phật của chính mình, tròn đồng thái hư không
thiếu không dư, người người vốn đủ, mỗi mỗi viên thành.
Bởi vì chúng sanh không ngộ chân Phật của mình, nên bị
các Kinh Lục lừa gạt mất một đời, săn đuổi theo cái
thấy nghe, có lợi ích gì? Do chẳng rõ muôn pháp như hoa đốm
trong không, chỉ một tâm dựng lập. Kinh Kinh Lục Lục trùng
trùng điệp điệp, nhiều như lá trong rừng, số như cát biển,
giấy mực văn từ không thể kể hết. Dù nói tám muôn bốn
ngàn (84.000) pháp môn, mỗi môn trọn như người gỗ múa may,
tên tuy khác mà thể vẫn đồng.
Tên khác là, phương tiện khai (mở) giá (đóng) có muôn ức
Kinh Lục.
Thể đồng là, chỉ trở về chỗ gốc, một tánh thái hư.
Người học thấu rõ một thì muôn việc đều xong, đâu có
nhiều thứ văn tự bìm sắn, ngôn ngữ chương cú, đối đãi
cơ quan kỳ đặc ấy vậy. Nhưng Thượng tổ Đại đức Tiêu
Dao, duy chỉ một sự thật, chẳng dùng phương tiện quyền
xảo. Vừa đến nước ta, Ngài cởi trần không áo (thoát thể
vô y) cầm cần câu không lưỡi, đi vào kinh thành, dùng thần
cơ ăn xong đập bát. Ý này cốt tìm được người pháp khí,
để chỉ dạy Thiền tông, chữ bát ( ) đã
mở, hai tay trao cho.
Tỳ-kheo Huệ Nguyên là vị Thiền sư ở thời Hậu Lê, Ngài
đọc được bản ngữ lục này rồi phát nguyện in lại nên
viết lời tựa. Lời tựa chúng ta đang đọc đây không phải
của Tuệ Trung Thượng Sĩ, hay những vị đồng thời với
Ngài, mà là một vị Thiền sư sau này cách Ngài khoảng năm
trăm năm từ thế kỷ mười ba đến thế kỷ mười tám. Như
vậy lời tựa này có sau quyển Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ
Lục đã in ở đời Trần tới năm trăm năm. Nhưng tại sao
người đời sau lại thích quí bản Ngữ Lục này mà in tái
bản?
Đây, tôi trích từng đoạn để chỉ cho quí vị thấy rõ
ý của người sau khi lãnh hội được yếu chỉ:
- Đầu tiên Ngài dẫn: “Chư Phật ba thuở, các vị Tổ sư
nhiều đời, vì một đại sự nhân duyên xuất hiện ra đời.”
Ngài nói từ Phật cho tới Tổ, ra đời chỉ có một duyên
lớn là: “Cốt chỉ cho chúng sanh ngộ được Phật của chính
mình.” Nhân duyên lớn mà Phật Tổ ra đời là chỉ cho chúng
sanh nhận được Tánh Phật có sẵn nơi mình. Phật tánh đó
như thế nào?
- “Tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, người người
vốn đủ, mỗi mỗi viên thành.” Tánh Phật có sẵn nơi mỗi
người không thừa không thiếu, trùm khắp tất cả, ai ai cũng
đều có đủ, không phải riêng một cá nhân nào; đó là trọng
tâm như tôi đã nói. Phật và Bồ-tát thương chúng sanh phải
khô cổ đắng miệng chỉ dạy nhiều năm tháng, để cho mọi
người biết và nhận ra Tánh Phật nơi mình. Bởi mỗi người
chúng ta đã có sẵn Tánh Phật, nên tu thì thành Phật. Nếu
không có Tánh Phật thì dù có dụng công tu bao lâu cũng không
thể thành Phật. Cũng như trong đá trong gỗ, nếu không có
sẵn tánh lửa thì dù có cọ hay chọi cũng không ra lửa. Song,
vì nó có tánh lửa sẵn, nên cọ hay chọi liền sanh lửa.
Trong đá trong gỗ có sẵn tánh lửa, nếu không cọ không chọi,
để nguyên thì kiếp kiếp đời đời vẫn là đá là gỗ,
không có lửa, nhưng nếu khéo cọ khéo chọi thì đá gỗ liền
phát ra lửa. Cũng vậy ở tất cả mỗi người chúng ta có
sẵn Tánh Phật, nếu chúng ta khéo tu khéo thanh lọc gạn bỏ
vô minh vọng tưởng thì Tánh Phật sẽ hiển lộ.
Đức Phật, trước đó Ngài cũng là con người như chúng ta.
Song, Ngài khéo tu nên đã thành Phật. Chúng ta cũng là con người,
nếu chúng ta khéo tu thì sẽ thành Phật như Ngài. Đó là một
lẽ thật mà đức Phật đã kinh nghiệm qua, đã chứng được,
nên Ngài chỉ dạy cho đồ đệ sau này. Đồ đệ sau này là
chư Tổ, các ngài cũng đã kinh nghiệm qua, cũng đã chứng
được, tuy không bằng Phật, nhưng các ngài cũng tiếp tục
con đường đó để chỉ dạy cho người sau nữa. Vậy, người
tu Phật mục đích cuối cùng là thành Phật, không ai nói tôi
tu Phật để tôi thành Tiên, cũng không ai nói tôi tu Phật
để tôi được sanh lên cõi Trời. Trọng tâm tu Phật là để
thành Phật, vì đã có sẵn Tánh Phật, bây giờ tu để Tánh
Phật nơi mình hiển lộ sáng tỏ; khi Tánh Phật sáng tỏ hiển
lộ tròn đầy tạm gọi là thành Phật. Chúng sanh thì mê,
Phật thì giác. Chúng ta vì mê (vô minh) chạy theo vọng tưởng
điên đảo, nên làm chúng sanh, bây giờ chúng ta dừng không
chạy theo vọng tưởng điên đảo, hết mê, đó là chúng ta
trở về với Tánh Phật. Hai hướng rõ như ban ngày, không
có gì bí ẩn. Mục đích của Phật của Tổ ra đời giống
nhau không khác. Bây giờ chúng ta ngồi đây học để tu, mục
đích cũng không khác. Nhưng nghe nói tu thành Phật thì ngán,
vì thấy quá xa vời, không gần gũi với mình. Sự thật, bây
giờ chúng ta tu là để thành Phật, rồi sau chỉ dạy cho mọi
người tiến lên con đường đó. Thế nên trên đường tu
không có mục đích nào khác hơn là nhận ra Tánh Phật nơi
mình. Tánh Phật trùm khắp ai cũng có đầy đủ, không người
nào không có. Đó là hướng duy nhất của tất cả người
tu. Thế mà có những vị Tăng Ni được hỏi: “tu có hy vọng
thành Phật không”, họ trả lời: “Tu thì tu chớ biết khi
nào thành Phật!” Như vậy họ đủ lòng tin chưa? Họ có
tin rằng mình có sẵn Tánh Phật không? Chính câu trả lời
đó bộc lộ tâm tư của họ, tu mà không hy vọng thành Phật.
Không hy vọng thành Phật thì tu làm gì? Họ tu cầm chừng,
tu lấy có, tu gieo nhân, tới đâu hay tới đó. Đây là khuyết
điểm lớn của người tu. Chúng ta tu là phải khẳng định
tu để thành Phật. Nỗ lực tu, thành công viên mãn tùy điều
kiện đủ thì thành, chưa đủ thì chưa thành, chớ không có
lối nào khác hơn nữa.
“Bởi vì chúng sanh không ngộ chân Phật của mình, nên bị
các Kinh Lục lừa gạt mất một đời, săn đuổi theo cái
thấy nghe, có lợi ích gì?” Vì không nhận ra Tánh Phật (Chân
Phật) có sẵn nơi mình nên bị Kinh điển của Phật và Ngữ
lục của Tổ lừa gạt mất một đời. Quí vị có thấy Phật
Tổ lừa gạt quí vị không? Chúng ta thường nghe nói chư Phật
ba đời chưa từng nói dối, chẳng những ba đời mà vô số
đời cũng chưa từng nói dối, sao đây dám nói Phật, Tổ
(đệ tử Phật) lừa gạt mình? Tôi dẫn chứng cho quí vị
thấy:
Kinh Phật lừa gạt như thế nào? Đọc kinh Pháp Hoa, chúng
ta thấy những phẩm đầu Phật đề cao Tri kiến Phật, tới
phẩm Tùng Địa Dũng Xuất nói vô số Bồ-tát ở phương khác
đến lễ Phật bạch rằng: “Thế Tôn! Nếu bằng lòng cho
chúng con lúc sau khi Phật diệt độ ở tại cõi Ta-bà này
siêng tu tinh tấn, giữ gìn, đọc tụng, biên chép, cúng dường
kinh điển này, thời chúng con sẽ ở trong cõi đây mà rộng
nói đó.” Phật bảo: “Thiện nam tử! Thôi đi, chẳng cần
các ông hộ trì kinh này. Vì sao? Vì cõi Ta-bà của ta tự có
chúng đại Bồ-tát đông như cát sông Hằng và quyến thuộc
cũng vô số, những vị đó có thể sau khi ta diệt độ hộ
trì đọc tụng rộng nói kinh này.” Lúc Phật nói lời đó,
cõi Ta-bà trong tam thiên đại thiên cõi nước, đất đều
rúng nứt, trong đó có vô lượng nghìn muôn ức vị đại
Bồ-tát đồng thời vọt ra... Chúng ta hiểu sao về câu chuyện
này? - Quá huyền bí khó hiểu! Bồ-tát đâu ở dưới đất
vọt lên đông quá vậy? Có phải Phật kỳ thị Bồ-tát ở
phương khác, nên nói: “thôi đi, chẳng cần các ông hộ trì
kinh này”, mà cho các Bồ-tát cõi Ta-bà từ đất vọt lên
trì tụng kinh Pháp Hoa? Nếu chúng ta không thông hiểu lý kinh,
đọc chuyện này thấy quá huyền bí không tin là chuyện thật.
Như vậy là bị kinh gạt. Theo lý mà hiểu thì Bồ-tát là
giác, mà giác là trí tuệ; Bồ-tát từ phương khác đến là
trí tuệ ngoài mình, trí tuệ ngoài mình tức là sự hiểu
biết học ở thầy bạn hay sách vở, nhà Phật gọi là trí
hữu sư, trí này nhận từ bên ngoài vào, nó không thể bảo
hộ được Tri kiến Phật, nên chư Bồ-tát phương khác tới
xin bảo hộ kinh Pháp Hoa Phật không chấp nhận. Vô sư trí
là cái biết do tu, tâm thanh tịnh, sáng ra mới bảo hộ được
kinh Pháp Hoa, vì nó chính là tâm thể của mỗi người nên
Phật hứa khả. Hiểu như thế thì không bị kinh gạt, còn
nếu hiểu theo hình tướng thì bị kinh gạt. Như vậy, nếu
người nào tu mà cứ mong nhờ bên ngoài thì không bao giờ
ngộ được ông Phật nơi mình, mà phải thắp sáng tự tâm
thì mới ngộ được ông Phật nơi mình. Cho nên nói: Tại
không ngộ được chân Phật mới bị kinh lừa.
Ngữ lục của Tổ lừa gạt như thế nào? Đọc Thiền SƯ
TRUNG HOA CHÚNG TA THấY CHU KIM CANG (ĐứC SƠN Tuyên Giám) khi
chưa là Thiền sư, Ngài là Giảng sư chuyên giảng kinh Kim Cang.
Ngài họ Chu nên gọi là Chu Kim Cang. Khi Ngài đầu phục Thiền
sư Long Đàm hết lòng hầu hạ. Một đêm tối trời, Ngài
đứng hầu thầy trong thất cho tới khuya. Thiền sư Long Đàm
bảo:
- Đêm đã khuya sao chẳng xuống?
Ngài kính chào bước ra, lại trở vào, thưa:
- Bên ngoài tối đen.
Thiền sư Long Đàm thắp đèn cầy đưa Ngài. Ngài toan tiếp
lấy, Thiền sư Long Đàm liền thổi tắt. Ngay đó Ngài đại
ngộ
liền lễ bái. Thiền sư Long Đàm hỏi:
- Ngươi thấy cái gì?
Ngài thưa:
- Từ nay về sau chẳng còn nghi lời nói chư lão Hòa thượng
trong thiên hạ.
Đầu lưỡi của các vị Hòa thượng lừa là Hòa thượng
nào? - Là các vị Thiền sư. Chu Kim Cang đã thấy được lẽ
thật, không còn bị các Thiền sư lừa nữa, nên được truyền
tâm ấn và đổi hiệu là Đức Sơn. Thường thường trong
nhà Thiền, Thiền tăng hỏi đông, thì Thiền sư đáp tây,
Thiền tăng hỏi nam thì Thiền sư đáp bắc, hỏi bên này đáp
bên kia, đó là cái thuật khai ngộ của các Thiền sư, các
ngài rất thường dùng nên Thiền tăng Thiền khách bị lừa
rất nhiều. Ngài Đức Sơn ngay đây không còn bị lừa nữa.
Đó là ý nghĩa Kinh Lục lừa gạt mất một đời.
“Săn đuổi theo cái thấy nghe có lợi ích gì?” Chạy theo
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không có lợi ích. Tại sao?
Vì sáu trần là tướng vô thường sanh diệt, đuổi bắt cái
vô thường sanh diệt thử hỏi cuối cùng có lợi ích gì?
Ai đó tuy được thỏa mãn những ngoại trần mà họ khao khát,
nhưng tới bảy tám mươi tuổi thì tất cả những cái họ
được đó cũng đều bại hoại, cho nên nói là vô ích. Còn
cái chân thật của chính mình hiện có đây thì không biết.
Như vậy cuộc đời là vô thường, chính bản thân mình vô
thường, vạn vật cũng vô thường; những cái ưa thích mà
mình được thọ hưởng hợp lại cũng thành một khối vô
thường. Ngay nơi cái thân vô thường này có chân Phật là
cái không vô thường mà chúng ta không thức tỉnh nhận ra
thì uổng đi một kiếp người. Thế nên, tu cốt nhận cho
ra cái thật ở ngay nơi cái giả. Ngay trong cái giả có cái
thật, thế mà chúng ta chỉ đuổi theo cái giả quên đi cái
thật, cho nên bao nhiêu năm tháng chìm trong mê muội. Nay chúng
ta thức tỉnh mới thấy cái thật quí giá vô cùng. Nhận được
cái thật thì sống không vô ích, nếu không thì cuộc đời
trở thành vô nghĩa.
“Do chẳng rõ muôn pháp như hoa đốm trong không, chỉ một
tâm dựng lập.” Chữ “Pháp” là chỉ cho vạn vật ở cõi
đời này, nó giống như hoa đốm trong hư không; khi trời nắng
gắt nhìn ra ngoài trời, mắt chấp chóa chúng ta dụi mắt,
mở ra nhìn thấy hoa đốm nhảy nhót lăng xăng. Hoa đốm lăng
xăng từ đâu có? Có thật không? - Vì nắng gắt khiến mắt
lòa nên thấy có hoa đốm nhảy nhót lăng xăng. Cũng như muôn
pháp muôn vật hiện có trước mắt chúng ta là do tâm mê mà
thấy có.
“Kinh Kinh Lục Lục trùng trùng điệp điệp, nhiều như lá
trong rừng, số như cát biển, giấy mực văn từ không thể
kể hết.” Tổng số kinh trong Đại Tạng có trên năm ngàn
quyển, còn Ngữ lục cũng mấy trăm quyển, rất nhiều, bây
giờ nếu ngồi học cho hết thì chừng nào mới hết? Già
khụ cũng chưa xong. Chúng ta học chỉ nắm được phần căn
bản để tu hành, trở về cái chân thật thì không mắc kẹt
ở Kinh Lục, ở văn tự nhiều như cát biển đó.
“Dù nói tám muôn bốn ngàn pháp môn, mỗi môn trọn như người
gỗ múa may, tên tuy khác mà thể vẫn đồng.” Hồi xưa thì
nói người gỗ múa, bây giờ nói “rôbô” (người máy) múa,
nó lăng xăng chạy nhảy. Tuy lăng xăng làm những công tác
khác nhau, nhưng chung qui đều do bộ máy bên trong phát ra điều
khiển. Cũng vậy mỗi pháp môn tuy thực hành khác nhau nhưng
mục đích chỉ có một.
“Tên khác là, phương tiện khai giá có muôn ức Kinh Lục.”
Phương tiện khai là mở, giá là ngăn đóng. Đồng là kinh
của Phật nói, song, có kinh Phật nói trắng ra gọi là khai,
có kinh nói ẩn gọi là giá. Thí dụ kinh Kim Cang không chỉ
thẳng thể chân thật, mà chỉ phá chấp gọi là giá. Còn
kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm chỉ thẳng thể chân thật gọi
là khai. Vì vậy nói kinh Phật có khai giá khác nhau. Ngữ lục
cũng vậy, có Tổ chỉ thẳng cho người ngay đó trực nhận,
có Tổ thì nói ẩn để cho người tìm.
“Thể đồng là, chỉ trở về chỗ gốc, một tánh thái hư.”
Dù cho muôn ngàn cách nói khác nhau, nhưng cũng trở về một
gốc là chỉ cho mọi người nhận ra tánh giác thênh thang như
thái hư nơi mình. Như bây giờ ở Việt Nam Phật giáo phát
triển rõ nhất là Tịnh độ và Thiền. Đứng về mặt truyền
bá thì khác nhau. Tịnh độ chuyên về niệm Phật, niệm cho
đến nhất tâm bất loạn từ một đến bảy ngày thì Phật
A-di-đà hiện tiền. Còn Thiền Nguyên thủy thì tu quán Tứ
niệm xứ, tu từ một đến bảy ngày mà tâm không rời pháp
quán, người đó sẽ chứng từ Tu-đà-hoàn cho tới A-la-hán.
Còn Thiền tông thì chư Tổ thường có lời khẳng định rằng
căn không đuổi theo ngoại cảnh từ một đến bảy ngày thì
kiến tánh. Như vậy, lời nói, phương tiện tuy có sai khác,
nhưng kết quả không khác, đó là tâm thanh tịnh trí tuệ
sáng, nhận ra Tánh Phật nơi mình, nên nói “thể đồng là,
chỉ trở về chỗ gốc, một tánh thái hư.”
“Người học thấu rõ một thì muôn việc đều xong, đâu
có nhiều thứ văn tự bìm sắn, ngôn ngữ chương cú đối
đãi cơ quan kỳ đặc ấy vậy.” Người tu nếu ngộ được
Một Tâm là thấu đáo tất cả, tức là thông suốt hết những
phương tiện tu của những tông phái khác, không phải mất
thì giờ nghiên cứu. Không còn quan trọng những sự lạ lùng
kỳ đặc, cho nên thấu một thì tất cả đều thấu. Ở đây
không hướng dẫn quí vị học cho nhiều mà chỉ hướng dẫn
quí vị đi sâu vào việc chuyên tu, một mình chuyên tu tới
nơi tới chốn về sau sẽ biết được tất cả phái khác.
“Nhưng Thượng tổ Đại đức Tiêu Dao, duy chỉ một sự
thật, chẳng dùng phương tiện quyền xảo.” Đây nói về
thầy của Thượng Sĩ là Thiền sư Tiêu Dao(1). Trong luật dùng
chữ Đại đức để chỉ cho vị Tăng đức cao lớn hơn hết.
Chẳng hạn như Đại đức Nàrada là một vị CAO TĂNG của
Phật giáo Tích Lan. Đức cao lớn hơn hết được gọi là
Đại đức, chớ không phải Hòa thượng. Đại đức là danh
từ chỉ cho những vị đức lớn. Ngày nay chúng ta lại dùng
chỉ cho những vị Tỳ-kheo mới thọ đại giới vài ba năm,
còn những vị thọ đại giới trên hai mươi năm gọi là Thượng
tọa, trên bốn mươi năm gọi là Hòa thượng. Như vậy Thượng
tọa lớn hơn Đại đức, nhỏ hơn Hòa thượng. Đó là lối
sắp xếp theo từ ngữ tạm chớ không có lẽ thật. Thế mà,
nếu mình được gọi là Thượng tọa, Hòa thượng, có ai
kêu là Đại đức thì
(1)
Thiền sư Tiêu Dao, Thiền sư Nhất Tông, Thiền sư Giới Minh,
Thiền sư Giới Viên ngang với cư sĩ Ứng Thuận đệ tử Thiền
sư Tức Lự (Theo Thiền Uyển Tập Anh). Song theo bản đồ phái
Thiền Trúc Lâm Yên Tử thì Thiền sư Tiêu Dao là đệ tử
cư sĩ Ứng Thuận, trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nguyễn
Lang cũng nhận như thế. Như vậy khẳng định Thiền sư Tiêu
Dao là người Việt Nam. Thiền sư Huệ Nguyên lầm Thiền sư
Tiêu Dao là người Trung Hoa. Dưới đây tôi giảng theo lời
tựa của Thiền sư Huệ Nguyên.
không
chịu, buồn lắm! Điều đó cho chúng ta thấy chúng ta hiểu
Phật pháp rất là nông cạn. Ngài Huệ Nguyên nhấn mạnh Thiền
sư Tiêu Dao làm có một việc là chỉ thẳng sự thật không
dùng phương tiện.
“Vừa đến nước ta Ngài cởi trần không áo, cầm cần câu
không lưỡi, đi vào kinh thành, dùng thần cơ ăn xong đập
bát.” Mấy từ này nghe trái với lối dùng chữ của Việt
Nam. Thường thường ở Việt Nam ai là kẻ phản bội thì bị
gọi “con người ăn xong đá bát”. Tại sao Thiền sư Tiêu
Dao là bậc đạo cao đức trọng mà ngài Huệ Nguyên dám nói
“dùng thần cơ ăn xong đập bát”? Nói như vậy có vô lễ
có phản bội tiền bối không? Đây tôi giải thích cho quí
vị hiểu, vì Ngài mới đến nước ta Ngài cởi trần không
áo (thoát thể vô y). Thiền tông nói đến Thể chân thật
là chỗ không còn che đậy, nếu còn che đậy thì chưa bày
THể chân thật. Cởi trần không áo là hiện bày Thể chân
thật, nếu còn mặc áo là còn che đậy, Thể chân thật chưa
hiện bày. “Cầm cần câu không lưỡi.” Cầm cần câu là
để câu cá, nhưng cần câu không lưỡi mắc mồi vào đâu
và câu cái gì? Thiền sư nói pháp cốt chỉ cho người nhận
ra THể chân thật, không để cho người dính mắc một cái
gì hết. Giống như câu mồi nhử cá, cá đớp mồi ăn mà
không bị mắc lưỡi câu. Ngài hướng dẫn người tu theo Ngài,
mà không cho người dính kẹt một pháp nào, nên nói cầm cần
câu không lưỡi. “Đi vào kinh thành” là vào xứ Việt Nam.
“Dùng thần cơ ăn xong đập bát.” Con người chúng ta có
cái bệnh là làm việc gì cũng muốn lưu lại dấu vết, giống
như người ăn cơm xong rửa bát cất kín trong tủ. Ngài là
người làm xong việc không để lại dấu vết. Nghĩa là hướng
dẫn cho người tu xong rồi thôi, không để lại một cái gì
làm cho người ta dính mắc với pháp đã dạy.
“Ý này cốt tìm được người pháp khí, để chỉ dạy Thiền
tông.” Cái ý chỉ ra Thể chân thật mà không dính không kẹt,
cốt là tìm người có khả năng thừa nhận chánh pháp. Nhà
Thiền gọi người đó là Pháp khí; pháp là chánh pháp, khí
là món đồ; món đồ đựng chánh pháp. Tìm được người
này mới chỉ dạy Thiền tông.
“Chữ bát ( ) đã mở hai tay trao cho.” Nhà Thiền
dụ hai chân mày là chữ bát. Con người ai cũng thấy cái mũi
của kẻ khác, mà không thấy cái mũi của mình; nó ở sờ
sờ trước mặt mà không thấy. Cái mũi biểu trưng cho chân
Phật của mỗi người, lúc nào cũng sờ sờ đó mà người
không nhận ra. Giống như cái mũi là cái thiết yếu cho sự
sống, nằm ngay trên mặt người mà người không thấy nó.
Hai chân mày ở hai bên trên mũi; hai chân mày nằm dang ra, sờ
xuống là đụng mũi. Hình ảnh này nói lên ý nghĩa người
tu nương lời nói ý chỉ của Tổ, nhận ra THể CHÂN thật
nơi mình, đó là chữ bát đã mở. “Hai tay trao cho” tức
là trao truyền tâm ấn. Nhưng trao tâm ấn là trao cái gì? Chẳng
có gì để trao, chẳng qua là trò nhận ra THể CHÂN thật như
thầy đã nhận, nên thầy ấn chứng cho trò, gọi đó là trao
truyền.
Thế nào là trao cho? Nghĩa là “Bính Đinh đồng tử”. Lửa
đã khắp người, chẳng cầu tìm bên ngoài, phải quan sát
lại tánh mình (phản quan tự tánh).
|