00
Mục Lục
|
01
Lời đầu sách của HT Thanh Từ
|
02
Đề Tựa của Tỳ Kheo Huệ Nguyên (1763)
|
03
Hành Trạng Thượng Sĩ
|
04
Đối Cơ (trả Lời Người Hỏi)
|
05
Tụng Cổ
|
06-1
Bài ca Tâm Phật
|
06-2
Bài ngâm phóng cuồng, Sống
chết nhàn mà thôi
|
06-3
Phàm Thánh không hai, Mê ngộ không khác, Ngậm bĩu môi
|
06-4
Bài văn Trứ Từ tự răn, Thời tiết an định, Dương
chân, Vào cát bụi
|
06-5
Muôn việc về như, Thói đời hư dối, Họa thơ quan
Huyện, Cảnh vật Tịnh Bang, Họa Thơ Hưng Trí Thượng Vị
Hầu
|
06-6
Tụng đạo học Trần Thánh Tông, Chăn trâu đất, Vui
thích giang hồ, Vật không tuỳ người, Viếng Đại Sư Tăng
Điền, Thăm bệnh Đại Sư Phước Đường
|
06-7
Lễ Thiền sư Tiêu Dao ở Phước Đường, Cảnh vật
Phước Đường, Tăng Pháp sư Thuần Nhất, Đùa Thiền Sư Trí
Viễn xem kinh giải nghĩa, Điệu Tiên Sư
Khuyên
đời vào đạo, Bảo chúng, Bảo chúng, Bảo học giả, Chợt
hứng
|
06-8
Cội tùng đáy khe, Xuất trần, Đạo lớn không khó,
Tâm vương, Thả trâu, Đề tịnh xá, Chợt hứng, Cây gậy,
Chiếu thân, Tự đề, Chợt tỉnh, Tự tại, Bảo học trò,
Bảo tu nghiệp Tây phương, Thoát đời, Vui thú giang hồ.
|
07
Lời Bạt
|
|
|
|
|
X
TUỆ TRUNG THƯỢNG
SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI
Biên
Soạn: Trúc Lâm Tổ Sư (Trần Nhân Tông)
Dịch
và Giảng: Hoà ThượngThích Thanh Từ
Ban
Văn Hoá Trung Ương GHPGVN Xuất Bản 1996
THI
CA
Dịch:
BÀI
CA TÂM PHẬT
Phật!
Phật! Phật! Không thể thấy
Tâm!
Tâm! Tâm! Không thể nói.
Nếu
khi tâm sanh là Phật sanh
Nếu
khi Phật diệt là tâm diệt.
Diệt
tâm còn Phật chuyện không đâu
Diệt
Phật còn tâm khi nào hết?
Muốn
biết Phật tâm, sanh diệt tâm
Đợi
đến sau này Di-lặc quyết.
Xưa
không tâm, nay không Phật
Phàm,
Thánh, người, trời như điện chớp.
Tâm
thể không thị cũng không phi
Phật
tánh chẳng hư cũng chẳng thật.
Bỗng
dưng dấy, bỗng dưng dừng
Xưa
qua nay lại luống nghĩ bàn.
Đâu
chỉ chôn vùi thừa Tổ tông
Lại
khiến yêu ma nhà mình lộng.
Muốn
tìm tâm, đừng tìm ngoài
Bản
thể như nhiên tự rỗng lặng.
Niết-bàn
sanh tử buộc ràng suông
Phiền
não Bồ-đề đối địch rỗng.
Tâm
tức Phật, Phật tức tâm
Diệu
chỉ sáng ngời suốt cổ kim.
Xuân
đến, tự nhiên hoa xuân nở
Thu
về, hiện rõ nước thu sâu.
Bỏ
vọng tâm, giữ chân tánh
Như
người tìm bóng mà quên kính.
Đâu
biết bóng có từ nơi gương
Chẳng
rõ vọng từ trong chân hiện.
Vọng
đến không thật cũng không hư
Gương
nhận không cong cũng không thẳng.
Cũng
không tội, cũng không phước
Lầm
sánh ma-ni cùng bạch ngọc.
Ngọc
có vết chừ châu có tỳ
Tánh
vốn không hồng cũng không lục.
Cũng
không được, cũng không mất,
Bảy
lần bảy là bốn mươi chín.
Tam
độc cửu tình nhật trong không
Lục
độ vạn hạnh sóng trên biển.
Lặng,
lặng, lặng, chìm, chìm, chìm
Cái
tâm muôn pháp là tâm Phật.
Tâm
Phật lại cùng tâm ta hợp
Lẽ
ấy như nhiên suốt cổ kim.
Đi
cũng thiền, ngồi cũng thiền
Trong
lò lửa rực, một hoa sen.
Ý
khí mất thì thêm ý khí
Được
nơi an tiện hãy an tiện.
Chao!
Chao! Chao! Ối! Ối! Ối!
Bọt
trong biển cả nổi chìm rỗng.
Các
hạnh vô thường tất cả không
Linh
cốt Tiên sư chỗ nào thấy?
Tỉnh
tỉnh thức, thức tỉnh tỉnh
Bốn
góc đạp đất chớ chinh nghiêng.
Người
nào nơi đây tin được đến
Trên
đảnh Tỳ-lô cất bước đi
Hét!
Giảng:
Thiền
tông nói tâm tức Phật, Phật tức tâm. Nghĩa là Phật chính
là tâm, tâm chính là Phật. Theo con mắt nhà Thiền thì Phật
hay tâm có sẵn nơi mỗi người, không hai. Bây giờ quí vị
kiểm lại coi có người nào không có tâm không? - Ai cũng có
tâm Phật hết, vậy ai cũng là Phật, thế mà không ai chịu
nhận mình là Phật, cứ cho mình là chúng sanh! Trước khi giảng
Bài Ca Tâm Phật của Thượng Sĩ, tôi nói rộng về nghĩa này
để quí vị thấy được lẽ thật đó. Bây giờ chúng ta
phải hiểu từng chữ một; Tâm là gì? - Tâm là biết. Phật
là gì? - Phật là Giác. Vậy, nơi mỗi người chúng ta ai cũng
có tri giác, ai cũng có tâm Phật hết; tri là biết, giác là
tâm, tri giác là thấy biết đúng như thật. Vậy có giác nào
không tri và có tri nào không giác? Tri không rời giác, giác
không rời tri, dường như hai mà không phải hai. Nếu thấy
được lẽ thật đó, chúng ta mới hiểu được nghĩa tâm
tức Phật hay Phật tức tâm.
Bây
giờ tôi nói lẽ thật mà các Thiền sư chứng nghiệm. Ở
đoạn trước có nói Thiền sư Trí Thông trong hội ngài Qui
Tông. Một hôm, nửa đêm Trí Thông la lên: “Tôi ngộ rồi!
Tôi ngộ rồi!” Hôm sau ngài Qui Tông gọi lên hỏi: “Hôm
qua ông nói ông ngộ là ông ngộ cái gì?” Trí Thông đáp:
“Ni cô nguyên là cô gái.” Ngài Qui Tông gật đầu. Ngộ
gì lạ lùng vậy? Cô gái và Ni cô là một hay là hai? - Nói
một thì không được, vì vóc dáng Ni cô khác với cô gái;
lúc cô gái còn tóc sao không gọi Ni cô? Khi cạo tóc ở chùa
mới gọi Ni cô? Song, nói khác cũng không được, vì không
có cô gái thì không có Ni cô. Câu chuyện này nói lên ý nghĩa
ngộ lý “Phật tức là tâm”. Mới nghe qua thấy rất dễ,
nhưng kỳ thật rất thâm thúy.
Lại,
có một vị Tăng, một hôm cũng nói: “Tôi ngộ rồi! Tôi
ngộ rồi!” Ông thầy kêu hỏi: “Ông ngộ cái gì?” Tăng
đáp: “Nếu biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi!”
Nấu cơm cần lửa, có cây đèn để trên bàn Phật, mà không
nhớ, chạy xin lửa ở hàng xóm, quên lửa ở cây đèn trên
bàn Phật. Nếu nhớ lửa ở cây đèn trên bàn Phật thì đâu
có chạy đi xóm làng để xin lửa quá lâu. Nên nói: “Nếu
biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi!” Đó là ý nghĩa
“tức tâm tức Phật”. Như vậy chúng ta phải hiểu tâm
Phật không hai thứ. Nhưng hiện tại thì chúng ta thấy có
hai, vì khi nói tới tâm ai cũng nghĩ tới tâm phân biệt của
phàm phu mê loạn và nói tới Phật là nghĩ tới tâm giác ngộ
sáng suốt. Do nghĩ như thế mới thấy chúng sanh và Phật khác
nhau.
Tôi
xin đặt một câu hỏi để quí vị nghiệm lại chỗ này.
Muốn có tâm giác ngộ sáng suốt thì phải làm sao? Có phải
chuyển tâm phàm phu mê loạn thành tâm giác ngộ sáng suốt
không? Rời tâm mê loạn phàm phu đâu có tâm giác ngộ sáng
suốt. Hiểu như vậy quí vị mới nhận được ý nghĩa tức
tâm tức Phật. Tức là dừng ngay tâm động loạn phàm phu
thì tâm thanh tịnh sáng suốt hiện. Tâm thanh tịnh sáng suốt
là tâm giác, tâm Phật. Như vậy, tâm mê hay tâm giác cũng
là tâm, chỉ khác nhau ở chỗ mê và giác. Nói tâm mê hay tâm
giác là nói theo cái thấy phân biệt của phàm phu. Biết theo
mê loạn thì gọi là tâm phàm phu, biết theo giác ngộ thì
gọi là tâm Phật. Vậy, đặt Phật và tâm riêng có được
không? - Riêng có Phật ngoài tâm, riêng có tâm ngoài Phật
không thể được. Hiểu rõ chỗ này chúng ta học Bài Ca Tâm
Phật mới thấy cái đặc biệt của Thượng Sĩ.
Câu
đầu của bài ca là “Phật! Phật! Phật! Không thể thấy”.
Tại sao Ngài nói ba lần Phật như vậy? - Có hai trường hợp:
trường hợp thứ nhất là nhìn theo ý trước sau, Ngài dùng
ba chữ trùng điệp là nói mạnh, nhắc cho chúng ta thâm nhập
cho được ý nghĩa này, chớ không phải ba chữ Phật có ba
nghĩa khác nhau, ba chữ Phật điệp khúc ba lần, để cho chúng
ta nhớ sâu “Phật không thể thấy”. Phật thờ trên bàn
mỗi ngày chúng ta lễ lạy, sao nói Phật không thể thấy?
Phật ngồi trên bàn thờ và Phật tức tâm có khác nhau không?
- Phật ngồi trên bàn thờ là Phật tượng, Phật cốt, không
phải nghĩa Phật tức tâm. Phật tức tâm thì không thể thấy,
song chúng ta tu ai cũng đều có sở nguyện thành Phật, mà
Phật không thể thấy làm sao thành? Nếu chúng ta thấy Phật,
tức là thấy tâm giác ngộ, vậy thì tâm giác ngộ là ai và
ai thấy? Thấy tâm giác ngộ là người thấy và tâm giác ngộ
là cái bị thấy. Người thấy và cái bị thấy là hai, như
vậy, đâu phải là mình. Không phải là mình thì đâu có nghĩa
Phật tức tâm. Thế nên Thượng Sĩ nói không thấy Phật nếu
thấy là sai, vì thấy Phật bên ngoài, không phải Phật tức
tâm ở nơi mình. Phật tức tâm là chỉ Tánh giác ở nơi mình
thường lặng lẽ sáng suốt. Nếu mình thấy nó thì nó là
cái bị thấy, là cảnh không phải là mình. Chẳng hạn cái
hoa này là cái bị mắt tôi thấy, mắt tôi thấy và cái hoa
không phải là một; vì hoa là cái bị thấy là đối tượng
bên ngoài, mắt là cái hay thấy là cái bên trong. Nếu Phật
là tâm giác ngộ sáng suốt là cái bị thấy, thì Phật không
phải là tâm giác ngộ, cho nên nói: Phật! Phật! Phật! không
thể thấy.
“Tâm!
Tâm! Tâm! không thể nói.” Nãy giờ chúng ta nói rất nhiều
về tâm, sao nói tâm không thể nói? Quí vị thấy sao? Chúng
ta nói, chỉ là diễn tả bằng ngôn ngữ để cho người nghe
mường tượng hiểu. Thật ra tâm là cái không thể nói tới
được. Tại sao vậy? Khởi nói năng là tâm khởi, vì tâm
mới biết khởi. Nếu không tâm thì không khởi không nói.
Cái biết đó là động cơ sử dụng cái lưỡi phát ra ngôn
ngữ, nó là chủ, còn ngôn ngữ phát ra là cái bị sai khiến
là tớ. Chủ sai tớ chớ tớ không sai chủ được, chẳng
qua chỉ là ngôn ngữ tạm nói ra cho người hiểu thôi. Tâm
tự nó biết nói, chớ không phải cái nói biết tâm. Mới
nghe qua thì thấy rất khó hiểu. Nhưng đi sâu chúng ta mới
thấy cái kỳ đặc của lỗi diễn đạt này. Vậy, “Tâm,
tâm, tâm, không thể nói” là ngôn ngữ không thể nói về
tâm, vì tâm là chủ khởi ra tiếng nói, chớ không phải tiếng
nói biết nói về tâm. Đó là cái ý nghĩa chủ yếu mà Thượng
Sĩ dùng điệp ngữ chữ Phật và chữ tâm. Ngài dùng điệp
ngữ là nhắc chúng ta nhớ kỹ nhớ sâu, chớ không phải để
cho chúng ta cắt nghĩa. Nếu lấy đây cắt nghĩa thì ở dưới
có câu “lặng, lặng, lặng, chìm, chìm, chìm” cắt nghĩa
ra sao? Ba chữ Phật có thể cắt nghĩa là Phật pháp thân,
Phật hóa thân và Phật báo thân. Ba chữ tâm có thể giải
nghĩa A-lại-da thức là tâm chứa đựng, mạt-na thức là tâm
chấp ngã, năm thức trước là tâm phân biệt... Nhưng giải
nghĩa như thế là mất hết ý nghĩa của bài ca. Lệ thường
chúng ta gặp chữ là cứ giải nghĩa, dùng mọi cách để giải,
nhưng rốt cuộc rồi không nắm được tinh thần trọn bài.
Ở đây, những điệp ngữ này nhằm nhắc chúng ta nhớ sâu,
đánh mạnh khiến cho chúng ta thấy được tường tận ý chỉ
của bài.
“Nếu
khi tâm sanh là Phật sanh, nếu khi Phật diệt là tâm diệt.”
Tâm là Phật, nên tâm sanh tức là Phật sanh. Phật tức tâm,
nên Phật diệt tâm cũng diệt. Đó là ý nghĩa tức tâm tức
Phật. “Diệt tâm còn Phật chuyện không đâu, diệt Phật
còn tâm khi nào hết?” Người tu kềm cho tâm lặng lẽ mất
tri giác, mong có trí tuệ sáng suốt được không? Đó chỉ
là chuyện không đâu không thể nào được. Tại sao? Vì tâm
tức là Phật, nếu chúng ta đoạn cái nhân Phật thì làm sao
có được quả Phật? Đã diệt nhân Phật thì không có quả
Phật. Hiện giờ chúng ta tu có diệt nhân Phật không? Nếu
không, sao bảo bỏ hết vọng tưởng? Vọng tưởng là tâm
hay không phải tâm? Chúng ta phải nhìn cho thật kỹ, hiểu
cho thật sâu chỗ này kẻo lầm.
Tôi
xin hỏi: Tất cả vọng tưởng có vọng tưởng nào không biết
chăng? - Tuy là vọng tưởng, nhưng có biết; biết vọng động
sanh diệt. Tu là không theo cái biết vọng động sanh diệt,
mà hằng biết lặng lẽ thanh tịnh, không động. Cái hằng
biết không động là cái biết của nhân Phật, do tu hành thì
cái biết đó càng ngày càng sáng đến viên mãn gọi là quả
Phật. Cho nên bỏ cái tâm (cái biết) là nhân Phật mà được
quả Phật là chuyện không có. Đâu bây giờ quí vị kiểm
tra lại coi, nơi mình cái nào là cái biết nhân Phật bất
động? Chúng ta thử ngồi một phút, không khởi nghĩ, giả
sử có con muỗi chích vô da, quí vị có biết không? - Biết
rõ ràng. Như vậy da thịt chúng ta có cái biết hằng hiển
hiện, nên cái gì chạm tới là biết liền. Và nếu chúng
ta ngồi yên không khởi lên ý niệm nào, mắt có thấy, tai
có nghe không? - Vẫn thấy vẫn nghe. Vậy, mắt thấy, tai nghe,
thân có cảm giác... đó là hằng biết; hằng biết mà không
động. Còn khởi suy nghĩ là cái biết động. Thế nên tu là
lặng cái biết động, để còn thuần cái biết không động.
Cái
biết của thấy, của nghe, của cảm giác... tự nó không tốt
không xấu, không phải không quấy. Thấy thì cứ thấy, nói
đẹp nói xấu là do khởi nghĩ mới nói đẹp xấu. Ví dụ
tôi nhìn cái hoa thấy rõ ràng là cái hoa. Bây giờ tôi muốn
biết cái hoa này đẹp hay xấu, tôi nhớ lại quá khứ có
lần tôi thấy hoa hồng to, mới đem ra so sánh với cái hoa
này, rồi nói hoa này nhỏ hơn xấu hơn. Bây giờ tôi nói hoa
này xấu là do trước tôi đã thấy hoa kia đẹp hơn, nên mới
nói hoa này xấu. Nếu từ trước tôi chưa từng thấy cái
hoa, bây giờ mới thấy thì đâu có so sánh hoa đẹp hoa xấu.
Vậy, khi mở miệng nói đẹp xấu là có niệm so sánh hình
ảnh đã thấy trong ký ức với hình ảnh mới vừa thấy.
Nên khi khởi niệm nghĩ là đã sống với tâm phân biệt so
sánh; phân biệt so sánh là vọng động. Thế nên cả ngày
lúc nào chúng ta cũng biết, nhưng mà biết vọng động, gọi
là tâm sanh diệt, tâm tạo nghiệp. Khi chúng ta thấy đẹp
xấu liền khởi niệm yêu ghét, rồi tạo nghiệp, đã tạo
nghiệp là đi trong sanh tử. Vậy, nếu sống với tâm sanh diệt
thì chúng ta tạo nghiệp, đã tạo nghiệp rồi thì phải sanh
tử luân hồi. Bây giờ muốn không luân hồi sanh tử thì đừng
sống với tâm sanh diệt, tâm không sanh diệt thì không tạo
nghiệp, không có nghiệp thì cái gì dẫn đi luân hồi sanh
tử? Thế nên tu là Biết mà không được phân biệt. Mỗi
ngày ngồi thiền năm sáu tiếng đồng hồ, cốt để lặng
niệm phân biệt, tâm vô phân biệt hằng hữu hiện tiền là
thành Phật. Tu đơn giản như vậy chớ không có gì lạ, thế
mà chúng ta cứ đi tìm kiếm ông Phật đâu đâu, thật là
chuyện hoang đường vô ích.
Người
biết tu thì ngay nơi tâm phân biệt sanh diệt nhận ra tâm vô
phân biệt hằng giác tri là Phật ở nơi mình. Song, nếu tu
mà ngồi bất động vô tri như gỗ như đá không biết gì
hết là đã đoạn nhân Phật thì làm sao có được quả Phật,
nên nói “Diệt tâm còn Phật chuyện không đâu, diệt Phật
còn tâm khi nào hết?” Chúng ta ngồi thiền không phải diệt
cái biết (tâm hay Phật), mà là không theo niệm loạn động,
chỉ một bề theo cái biết thanh tịnh là nhân Phật. Chúng
ta huân tu lâu ngày thuần thục, nhân Phật tròn sáng, thấy
người thấy vật đúng như thật đó là giác ngộ thành tựu
quả Phật.
“Muốn
biết Phật tâm, sanh diệt tâm, đợi đến sau này Di-lặc quyết.”
Nếu muốn biết tâm Phật hay Phật tâm, mà căn cứ trên tướng
sanh diệt của tâm thì phải chờ đức Phật Di-lặc ra đời
Ngài giải quyết cho, chớ bây giờ không ai giải quyết được.
Nghĩa là tâm sanh diệt là cái chạy theo cảnh vật có sanh
có diệt. Tuy cũng là tâm, nhưng là tâm loạn động tạo nghiệp.
Vậy, nghe nói tâm tức Phật rồi cho rằng tâm tôi biết suy
nghĩ là Phật, như thế là sai, tu đến Phật Di-lặc ra đời
cũng chưa chắc được thành.
“Xưa
không tâm, nay không Phật, phàm, Thánh, người, trời như điện
chớp.” Cái biết hằng hữu nơi mỗi người là tâm là Phật.
Tại sao Thượng Sĩ nói “xưa không tâm nay không Phật”?
Tâm là một danh từ, chỉ là giả danh, chớ cái biết hằng
hữu thanh tịnh không có tên tâm nên không có tên Phật. Chúng
ta nhìn lại thời nguyên thủy nó chỉ là cái biết, không
có tên tâm thì tên Phật ngày nay cũng không có. Tóm lại do
cái biết phân biệt của con người gọi là tâm khi mê, gọi
là Phật khi giác. Đó là do người đặt ra tạm gọi, nó chỉ
là cái tên giả không thật. Vậy, tất cả tên Phàm, Thánh,
Người, Trời... do con người hư dối đặt ra, nên nói như
điện chớp, sao xẹt, tạm bợ không thật.
“Tâm
thể không thị cũng không phi, Phật tánh chẳng hư cũng chẳng
thật.” Đứng về Thể chân thật thì không sanh không diệt,
không phải không quấy. Nhưng lúc nào chúng ta mở miệng ra
cũng nói phải nói quấy, đó là chúng ta nói theo tâm phân
biệt vọng động. Người sống được với Thể chân thật
nghe nói phải nói quấy hơn thua thì không can dự vào, chỉ
cười thôi, vì biết đó là cái nhân sanh tử luân hồi. Thế
mà người đời ai cũng ưa cãi lý, cả ngày cứ hơn thua, cái
này phải cái kia quấy, không biết chán. Không ngờ, tu mà
cãi như thế là đã lạc đường rồi. Con đường mình đi
là đường giải thoát sanh tử, thế mà mình tranh chấp hơn
thua phải quấy, dù có thắng một trăm phần trăm cũng không
đạt được mục đích giải thoát.
“Tâm
thể không thị cũng không phi, Phật tánh chẳng hư cũng chẳng
thật.” Thị là phải, phi là quấy, hư là giả. Nói phải,
nói quấy, nói giả, nói thật là nói theo niệm phân biệt
đối đãi. Tâm thể tức Phật tánh không đối đãi làm gì
có phải có quấy có giả có thật? “Bỗng dưng dấy, bỗng
dưng dừng, xưa qua nay lại luống nghĩ bàn.” Chợt khởi nghĩ
liền lặng mất, cứ nghĩ suy, suy nghĩ chuyện xưa chuyện nay
lăng xăng hoài, không dừng nghỉ. Như vậy thì “đâu chỉ
chôn vùi thừa Tổ tông, lại khiến yêu ma nhà mình lộng”.
Nếu cứ dấy niệm lăng xăng hoài thì chẳng những chúng ta
làm mất tông chỉ nhà Thiền, lại còn khiến cho yêu ma chui
vào nhà làm não lộng nữa. Quí vị có thấy yêu ma chui vô
nhà quí vị làm não lộng không? Nếu có là do chủ nhà quá
hời hợt. Đã là chủ, cái gì chân chánh đứng đắn thì
cho vào, còn đồ yêu ma bất chánh không cho vào; không cho vào
thì đâu có loạn! Vậy mà ai cũng rộng rãi hời hợt, mở
cửa thoải mái cho yêu ma vào làm loạn trong nhà, rồi kêu
trời, than: Tôi khổ quá! Trời nào tới cứu được cái khổ
này? Chúng ta phải biết rõ niệm nghĩ bàn chợt hiện chợt
mất nó làm mất bản chất Thiền của mình. Yêu ma làm mất
bản chất Thiền tại sao không đuổi ra lại nuôi dưỡng trong
nhà, làm cho mình điên đảo? Tất cả chúng ta hiện giờ điên
đảo cũng vì yêu ma đó. Tu rất đơn giản, chúng ta chỉ làm
một việc là đừng để những ý niệm chợt khởi chợt mất
làm loạn động tâm, luôn luôn phải giữ cho bản thể thanh
tịnh sáng suốt hằng hiện nơi mình, thì không bao giờ yêu
ma có thể đột nhập, làm não loạn mình được. Đó là Thượng
Sĩ dạy cho chúng ta thấy rõ cách tu.
“Muốn
tìm tâm, đừng tìm ngoài, bản thể như nhiên tự rỗng lặng.”
Muốn tìm tâm thể chân thật đừng tìm đâu hết, nó là bản
thể tự rỗng lặng như nhiên có sẵn nơi mình, chớ không
có ở bên ngoài.
“Niết-bàn
sanh tử buộc ràng suông.” Niết-bàn là vô sanh; vô sanh và
sanh tử hai cái buộc ràng suông. Niết-bàn và sanh tử buộc
ràng như thế nào là buộc ràng suông? - Khi chúng ta mới vào
đạo, được quí thầy dạy “sanh tử là việc lớn, vô thường
nhanh chóng” để nhắc chúng ta nỗ lực tu hành; muốn dứt
sanh tử là phải dẹp sanh tử để đạt Niết-bàn. Một bên
sanh tử là khổ, một bên Niết-bàn là vui. Có ai tu mà chẳng
sợ sanh tử khổ, thích Niết-bàn vui không? Vì sợ khổ cầu
vui nên cố gắng tu, mong thoát khỏi sanh tử, để được cái
vui Niết-bàn. Đó là một lẽ thật mà người tu nào cũng
đang mơ ước. Nhưng tại sao ở đây Thượng Sĩ nói Niết-bàn
sanh tử buộc ràng suông? Sanh tử từ đâu có? Có phải từ
tâm mê lầm sanh diệt mà ra không? - Song, tâm mê lầm sanh diệt
không thật. Cái nhân sanh diệt không thật thì cái quả sanh
tử cũng không thật. Chúng ta đang ngồi đây là thật hay giả?
- Ai cũng nói thật một trăm phần trăm. Nếu không thật thì
sao có mình sống, mình đi, mình ăn, mình uống...? Tuy hiện
giờ chúng ta có sống, nhưng sống trong mê lầm, giống như
kẻ ngủ mộng.
Trong
giấc mộng có người làm việc tốt, có người làm việc
xấu, việc tốt việc xấu cũng đều là mộng. Còn đang ở
trong mộng thì việc tốt ra việc tốt, việc xấu ra việc
xấu, đang mộng thì thấy thật, ai nói giả là không chịu.
Nhưng khi thức rồi mới biết là mộng không thật. Lúc ngủ
mê giấc mộng dài nhất chừng nửa giờ, còn ngắn thì mười
phút năm phút. Giấc mộng dài nửa giờ sánh với cuộc sống
bảy tám mươi năm, chúng ta nói là thật. Nhưng nếu sánh với
cuộc sống trên những tầng trời dục giới thời gian một
ngày một đêm bằng năm trăm năm ở cõi người thì, các vị
tiên thấy cuộc sống con người như giấc mộng thôi. Còn
nếu sánh với những tầng trời sắc và vô sắc dài gấp
ba gấp bảy lần thì thấy kiếp người rõ là giấc mộng,
thế mà loài người chúng ta đâu chịu là mộng. Cũng giống
như con phù du, hay gần nhất là con chó, kiếp sống con chó
khoảng mười năm khá ngắn ngủi đối với kiếp người.
Nhưng nó thấy dài, vì cũng sanh ra, cũng trưởng thành, rồi
già chết. Có đủ tướng trạng của một kiếp sống như
con người. Như vậy, tùy theo nghiệp của mỗi chủng loại
chúng sanh mà có cái nhìn khác nhau. Chư thiên nhìn kiếp sống
con người thấy ngắn như giấc mộng, loài người nhìn thấy
kiếp sống của con phù du ngắn như giấc mộng, mới thấy
đó liền mất đó, không mộng là gì? Vậy, cuộc sống ngắn
so với cuộc sống dài thì cuộc sống dài là thật, cuộc
sống ngắn là mộng. Và nếu sánh với các cõi trời thì chúng
ta ở cõi này cũng là mộng. Đã là mộng thì sanh tử có thật
đâu? Sanh tử đã không thật thì dứt sanh tử (Niết-bàn)
cũng không thật. Vậy, sanh tử, Niết-bàn chỉ là những từ
ngữ, những khái niệm mà con người sợ và thích chớ không
có thật thể.
“Phiền
não Bồ-đề đối địch rỗng.” Tu cốt yếu là dứt phiền
não để được Bồ-đề. Song, đa số chúng ta đều sống
với tướng sanh diệt nên mới thấy có phiền não có Bồ-đề
đối đãi nhau, nếu tướng sanh diệt không còn thì phiền
não Bồ-đề chỉ đối địch rỗng mà thôi. Phiền não Bồ-đề
chỉ là những tướng rỗng thì, những chuyện được mất
phải quấy tốt xấu... càng rỗng hơn. Vậy mà cả ngày chúng
ta cứ bàn những chuyện rỗng như thế thì chúng ta đang sống
trong thế giới rỗng. Nếu biết tu mới thấy những thứ mà
thiên hạ gọi là phiền não và cái gọi là Bồ-đề cũng
không thật, chỉ là những danh từ rỗng. Vì mê chấp nên
thấy cái gì cũng thật, thấy mình thật, người thật, phiền
não thật, Bồ-đề thật... Hết mê chấp thì phiền não Bồ-đề
như hoa đốm không thật. Giả sử bây giờ có người nhìn
miệt khinh, nói lời sỉ vả quí vị, quí vị có phiền não
không? Nếu có phiền não, thì tôi xin hỏi tại sao lúc họ
chưa nhìn chưa nói, quí vị không phiền não, đợi họ nhìn
họ nói mới phiền não? Vậy phiền não đâu có thật. Nếu
phiền não thật thì đã có tự bao giờ, đâu đợi ánh mắt
khinh khi câu nói nặng nề phiền não mới khởi lên! Phiền
não không thật mà cứ chấp; nhớ ông A khinh tôi, ông B nói
nặng tôi, ông C ăn hiếp tôi... cứ nhớ những chuyện không
đâu, nên phiền não hoài. Ông A ổng ngó ngay thì con mắt ổng
tốt, ổng ngó xéo thì mắt ổng lé, có liên hệ gì tới mình
mà phiền não? Những gì người ta làm là người ta chịu,
mình không dính dáng gì cả. Thế mà cứ ôm ấp những chuyện
của người, rồi ôn tới ôn lui nên mới khổ, sống không
an ổn rồi than trời trách đất. Quí vị xét kỹ xem cái khổ
đó phát nguồn từ chỗ nào? Có phải từ chỗ chạy theo niệm
sanh diệt không? Do khổ nên sanh bệnh, bệnh hoài thì chết
yểu. Nếu chết mà còn ôm giận hờn thì khổ mãi từ kiếp
này sang kiếp kia, khổ không cùng.
Nếu
chúng ta thản nhiên nghe lời nói của người thấy như gió
thổi ngang tai thì đâu có phiền não. Giả sử có người gọi
mình là con chó; mình là người bình thường mà họ nói mình
là con chó, như vậy họ đã mất bình thường rồi, nên thấy
không đúng sự thật, giận họ làm chi? Nếu giận họ mình
cũng thành người mất bình thường như họ. Vậy là mọi
người cùng sống trong điên loạn như nhau, có ai tỉnh đâu?
Xét kỹ thì chúng ta là những người điên loạn đáng thương.
Người này muốn cho người kia điên, chỉ cần chỉ vào mặt
nói “anh là thằng ngu”. Nghe xong là chúng ta phát điên lên
liền, lòng bực tức, miệng nói lảm nhảm, tay chân múa may...
Cho nên mọi điên loạn gốc từ mê lầm mà ra. Vì vậy, chúng
ta phải biết sống, trước mọi thử thách thuận hoặc nghịch
tâm tỉnh sáng bình thản, thì không cái gì làm cho mình bất
an được. Đó mới là hạng người khôn thứ thiệt. Chớ
còn bị người xúi giục hay gài bẫy đánh lừa, chúng ta vui
theo người, buồn theo người là chúng ta sống trong quyền
sai sử của người khác. Đó là nỗi đau khổ mà lâu nay chúng
ta mắc phải. Qua những sự việc vừa nêu cho chúng ta thấy
phiền não không thật. Phiền não đã không thật thì Bồ-đề
đối với phiền não có thật đâu, chỉ là những danh từ
đối đãi suông.
“Tâm
tức Phật, Phật tức tâm, diệu chỉ sáng ngời suốt cổ
kim.” Diệu chỉ sáng ngời đó là tâm tức Phật hay Phật
tức tâm. Nếu nhận ra tâm tức Phật hay Phật tức tâm là
chúng ta đã nắm được diệu chỉ sáng ngời từ xưa tới
nay không đổi dời sai chạy.
“Xuân
đến, tự nhiên hoa xuân nở, thu về, hiện rõ nước thu sâu.”
Muôn sự muôn vật tùy theo thời tiết chuyển biến đổi thay,
mùa xuân đến thì hoa nở, mùa thu sang thì nước trong. Nước
trong hoa nở tùy theo thời tiết nhân duyên, mọi cái nó đã
sẵn vậy, không do tâm người nghĩ tưởng mới có, mà đúng
thời tiết đủ nhân duyên thì mọi cái nó có.
Nơi
mỗi người chúng ta ai sanh thân cũng muốn trẻ trung, sống
mãi. Nhưng đến lúc nào đó, đầu bạc răng rụng, lúc đó
muốn trẻ trung cũng không được, muốn sống mãi cũng không
xong, phải đi đến chỗ bại hoại. Vậy, chúng ta biết rõ
vô thường luôn luôn chi phối kiếp người, không ai tránh
khỏi thì, chúng ta có mừng khi sanh và có buồn khi già chết
không? Nếu mừng khi sanh thì buồn khi già chết. Biết rõ muôn
vật tùy duyên chuyển biến, khi duyên hợp cũng cười, khi
duyên tan cũng vui; ngoại cảnh đổi thay mình không chao đảo
khổ sở, đó là biết sống với đạo. Hồi còn nhỏ mình
vui với tuổi trẻ thơ, lớn lên vui với tuổi thiếu niên,
trung niên thì vui với tuổi trung niên, già rồi thì vui với
tuổi già và chết đi thì vui nhất. Ví dụ ở thế gian này
có xứ nào mà mình chưa biết, bây giờ có ai nói chỗ đó
anh chưa biết, tôi sẽ tạo điều kiện anh đến cho biết,
anh có thích không? Lâu nay chúng ta sống mà chưa biết chết
ra sao, bây giờ chết để biết là toại ý là vui chớ gì?
Vậy, kiếp sống hiện tại năm bảy mươi năm, cũ quá, quen
quá rồi; bây giờ đi tới chỗ mới thì vui có gì đâu mà
buồn. Vậy thì mai mốt sửa soạn tắt thở ra đi, quí vị
vui cười nghe, vì bắt đầu một chuyến du lịch vào cõi mới
lạ. Nếu hối tiếc cái cũ thì ra đi không vui sướng đâu!
Vậy,
cuộc sống nếu chúng ta biết tùy duyên thì cuộc sống vui,
không chướng ngại không khổ. Ví dụ chúng ta đang nói chuyện,
hồi lâu khô cổ, cần uống nước, mọi người có mặt ở
đây được mời mỗi người một ly nước cam, còn mình thì
được mời một ly nước lã. Chúng ta vì nhu cầu khát nước
uống ngon lành, không thắc mắc gì cả. Nhưng nếu so sánh
ly nước cam ngon hơn ly nước lã thì buồn uống không ngon.
Biết tùy duyên thì duyên gì đến mình cũng hoan hỉ, nếu
không tùy duyên khởi niệm so bì hơn thua thì buồn khổ. Sống
như thế là tu nhiều rồi đó. Đừng tưởng tụng kinh nhiều
ngồi thiền giỏi, làm việc gì cũng ưu hết mới là tu hay.
Trong những hạnh nhỏ hằng ngày chúng ta biết tùy duyên không
tạo nghiệp có lúc nào không vui, không tự tại? Đó mới
là đạo. Còn nếu mong ngồi thiền cho có hào quang, không được
hào quang thì buồn tự than tu mấy mươi năm mà không có kết
quả. Tu như thế thì khổ vì muốn mà không được. Chúng
ta biết tùy duyên thấy rõ lẽ thật, không mong cầu, không
sợ chê, thích khen, lòng không dính mắc với mọi việc bên
ngoài, như thế mới thật tu. Còn nếu mình tu hay mà bị
chê tu dở thì buồn, như thế là mình đã chứng minh mình
tu dở. Nếu mình tu hay, mà bị chê, hay được khen, vẫn dửng
dưng không buồn không vui, như thế mới hay thật. Quí vị
chớ để vấp cái dở này.
“Bỏ
vọng tâm, giữ chân tánh, như người tìm bóng mà quên kính.”
Chỗ này đa số chúng ta tu đều hiểu lầm và mắc kẹt. Quí
vị tu có bỏ vọng tâm giữ chân tánh không? Tôi có dạy quí
vị tu như thế không? Pháp tu tri vọng là thấy vọng tưởng
khởi không theo, vọng tưởng tự lặng. Vọng tưởng lặng
thì chân tánh hiện tiền. Đâu có bỏ đâu có giữ. Chúng
ta có cái bệnh hay kềm giữ. Chân tánh là cái hiện tại đang
thấy đang nghe, đang có cảm giác, đang biết vọng tưởng
khởi và đang biết không có vọng tưởng khởi. Thể sáng
suốt hiển hiện linh hoạt như vậy giữ cái gì? Chân tánh
chính là mình, mình là chân tánh. Nếu giữ thì mình là người
hay giữ, chân tánh là cái bị giữ đối đãi nhau. Vọng tưởng
khởi, biết là vọng tưởng, không theo, vọng tưởng tự lặng,
chính đó là chân tánh. Vọng tưởng đâu rời chân tánh, nếu
bỏ vọng tưởng giữ chân tánh chẳng khác nào tìm bóng mà
quên kính.
Chỗ
này tôi e một số người hiểu lầm tu sai. Quí vị hiện có
mặt đây có ai hiểu lầm tu sai không? Chắc là có! Thấy vọng
tưởng là thứ quấy nhiễu làm cho mình khổ đau, cần phải
bỏ, ráng giữ chân tánh của mình để được yên. Vọng tưởng
và chân tánh không phải hai, bỏ một giữ một sao được?
Tôi thường dụ vọng tưởng là sóng, chân tánh là mặt biển.
Sóng và mặt biển là một hay hai? Nói một cũng không được,
nói hai cũng không được, vì rời mặt biển không có sóng.
Sóng không dấy động thì toàn là mặt biển lặng yên, chớ
không phải đùa sóng đi chỗ khác bỏ, giữ lại mặt biển
yên lặng. Việc này có thể làm được không? Đâu hôm nào
quí vị xuống biển tắm, hễ có lượn sóng nào nổi lên
đùa đến chỗ khác bỏ, để giữ cho mặt biển phẳng lặng,
xem coi kết quả ra sao? Chắc chắn là làm không được. Sóng
từ mặt biển nổi lên, rồi sóng lặng về mặt biển; không
bỏ không giữ. Bỏ và giữ là hai mà sóng và mặt biển không
hai thì bỏ giữ sao được? Vậy nên chúng ta phải nhìn cho
thật kỹ thấy cho thật đúng thì sự tu của chúng ta mới
không chướng ngại. Nếu bỏ vọng tâm giữ chân tánh đó
là người ngu, “đâu biết bóng có từ nơi gương, chẳng
rõ vọng từ trong chân hiện”. Đâu có ai nghĩ rằng bóng
mà chúng ta thấy đó là từ nơi gương hiện ra. Cũng vậy,
vọng tưởng khởi lên là khởi từ chân tánh, cũng như sóng
khởi từ mặt biển; rời mặt biển làm gì có sóng, rời
chân tâm làm gì có vọng tưởng? Vậy, vọng tưởng đáng
sợ hay không đáng sợ? Nếu không đáng sợ thì cứ để nó
khởi liên tục phải không? Đây là điều quan trọng, mọi
người tu phải biết cho thật kỹ. Vọng tưởng là niệm hư
dối không đáng sợ, nhưng đừng theo. Nghe nói đừng theo nhẹ
quá! Dễ quá! Tuy vọng tưởng không đáng sợ, nhưng nếu theo
thì nguy. Vì vậy không sợ mà cũng không theo, nhớ kỹ là
chỉ làm chừng đó thôi, không thêm mà cũng không bớt.
“Vọng
đến không thật cũng không hư, gương nhận không cong cũng
không thẳng.” Vọng tưởng dấy khởi không phải thật không
phải hư, vì nó không có cái gì để xác chứng là thật hay
hư, chẳng qua nó chỉ là một chuyển hóa tạm bợ. Nếu là
thật thì phải hằng hữu, không mất, mà vọng tưởng như
bóng như mây, có đó rồi mất đó. Đây dụ tâm thể thanh
tịnh sáng suốt là cái gương không cong không thẳng, vọng
tưởng là bóng hiện trong gương thì thấy có cong có thẳng.
Cũng vậy, chúng ta tu tuy vọng tưởng có dấy lên, biết rõ
nó không theo, hằng sống với tâm hiện hữu nơi mình, không
chạy theo nó thì nó có thật có hư gì đâu? Thể nó là an
nhiên tự tại, sẵn vậy mà!
|