00
Mục Lục
|
01
Lời đầu sách của HT Thanh Từ
|
02
Đề Tựa của Tỳ Kheo Huệ Nguyên (1763)
|
03
Hành Trạng Thượng Sĩ
|
04
Đối Cơ (trả Lời Người Hỏi)
|
05
Tụng Cổ
|
06-1
Bài ca Tâm Phật
|
06-2
Bài ngâm phóng cuồng, Sống
chết nhàn mà thôi
|
06-3
Phàm Thánh không hai, Mê ngộ không khác, Ngậm bĩu môi
|
06-4
Bài văn Trứ Từ tự răn, Thời tiết an định, Dương
chân, Vào cát bụi
|
06-5
Muôn việc về như, Thói đời hư dối, Họa thơ quan
Huyện, Cảnh vật Tịnh Bang, Họa Thơ Hưng Trí Thượng Vị
Hầu
|
06-6
Tụng đạo học Trần Thánh Tông, Chăn trâu đất, Vui
thích giang hồ, Vật không tuỳ người, Viếng Đại Sư Tăng
Điền, Thăm bệnh Đại Sư Phước Đường
|
06-7
Lễ Thiền sư Tiêu Dao ở Phước Đường, Cảnh vật
Phước Đường, Tăng Pháp sư Thuần Nhất, Đùa Thiền Sư Trí
Viễn xem kinh giải nghĩa, Điệu Tiên Sư
Khuyên
đời vào đạo, Bảo chúng, Bảo chúng, Bảo học giả, Chợt
hứng
|
06-8
Cội tùng đáy khe, Xuất trần, Đạo lớn không khó,
Tâm vương, Thả trâu, Đề tịnh xá, Chợt hứng, Cây gậy,
Chiếu thân, Tự đề, Chợt tỉnh, Tự tại, Bảo học trò,
Bảo tu nghiệp Tây phương, Thoát đời, Vui thú giang hồ.
|
07
Lời Bạt
|
|
|
|
|
X
TUỆ TRUNG THƯỢNG
SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI
Biên
Soạn: Trúc Lâm Tổ Sư (Trần Nhân Tông)
Dịch
và Giảng: Hoà ThượngThích Thanh Từ
Ban
Văn Hoá Trung Ương GHPGVN Xuất Bản 1996
THI
CA (tt)
Dịch:
CỘI
TÙNG ĐÁY KHE
Rất
thích tùng xanh trồng mấy niên
Chớ
than thế đất khiến tùng nghiêng.
Cột
rường chưa dụng người đừng lạ
Cỏ
nội hoa ngàn mắt hiện tiền.
Giảng:
“Rất
thích tùng xanh trồng mấy niên.” Thượng Sĩ vừa nói cây
tùng mà cũng vừa ám chỉ Ngài. Thượng Sĩ rất thích tùng
và trồng mấy năm rồi mới được một cây. “Chớ than thế
đất khiến tùng nghiêng.” Đừng buồn trách vì thế đất
nghiêng cho nên trồng tùng cũng nghiêng. Cây tùng là hiện thân
của Thượng Sĩ, thế đất chỉ cho hoàn cảnh xã hội Thượng
Sĩ đang sống. “Cột rường chưa dụng người đừng lạ.”
Thường thường cây tùng cây thông khi già, người ta cưa làm
gỗ hoặc làm rường làm cột. Nhưng cây tùng này chưa cưa
để làm cột làm kèo thì đừng thấy nó là vô ích. Vì sao?
Vì “cỏ nội hoa ngàn mắt hiện tiền”. Tuy cây tùng chưa
dùng được nhưng cỏ nội hoa ngàn đầy dẫy ở trước mắt.
Thượng Sĩ nói rằng, ở trong hoàn cảnh Ngài chưa thi thố
được tài năng để giúp đời, nhưng đối với Ngài, trước
mắt đều là cảnh chân thật hiện tiền. Ý nói đời Ngài
chẳng làm gì nhiều cho xã hội, đó là Thượng Sĩ khiêm nhường
thôi.
Dịch:
XUẤT
TRẦN
Đã
từng vật dục khiến lao đao
Buông
hết trần ai thoát khỏi nào.
Bên
ấy thõng tay siêu Phật, Tổ
Một
lần phủi giũ trắng phau phau.
Giảng:
Người
đời thường nói thế gian là cõi hồng trần. Xuất trần
là ra khỏi thế gian. Muốn ra khỏi phải làm sao? Mở đầu
Thượng Sĩ nói: “Đã từng vật dục khiến lao đao, buông
hết trần ai thoát khỏi nào.” Đã từng theo đuổi những
vật dục ở thế gian, nên khiến cho thân này phải nhọc nhằn
lận đận, tâm này phải bối rối khổ sở. Muốn hết khổ
Thượng Sĩ nói phải buông hết những vật dục để thoát
ra khỏi cõi trần. Và, “bên ấy thõng tay siêu Phật, Tổ,
một lần phủi giũ trắng phau phau”. Buông bỏ hết vật dục
thế gian, nhảy một nhảy là đến bờ giác ngộ, một lần
phủi là sạch thì trắng tinh. Tóm lại, Thượng Sĩ dạy chúng
ta sống ở thế gian vì theo đuổi vật dục, nên phải lao
thân khổ tâm. Bây giờ muốn hết khổ thì phải buông hết
để thoát ra. Khi buông hết rồi thì nhảy một nhảy lên bờ
Phật Tổ, tức là bờ giác. Và, bao nhiêu năm nhiễm nhơ phiền
não chỉ cần một lần phủi giũ là hết sạch. Quí vị phủi
một lần sạch chưa? Hay sạch rồi một lát lại dơ, phải
tốn công phủi nữa, phủi nhiều lần? Ý bài này Thượng
Sĩ nói đến sức mạnh của những người quyết tâm “chém
một đao không ngó lại”; khi đã quyết tâm thì phải làm
cho kỳ được. Khi buông là buông sạch, chớ không phải tay
buông tay nắm như chúng ta, nên nói một bước nhảy thẳng
vào đất Phật Tổ là vậy.
Dịch:
ĐẠO
LỚN KHÔNG KHÓ
Đạo
lớn không khó đừng bảo khó
Quay
đầu chuyển não càng mịt mờ.
Đem
tâm lại nhắm cầu tâm ấy,
Giống
hệt cá con nhảy ngọn tre.
Giảng:
“Đạo
lớn không khó” là lấy ý của câu “chí đạo vô nan”
trong bài Tín Tâm Minh của Tam tổ Tăng Xán. “Đạo lớn không
khó đừng bảo khó, quay đầu chuyển não càng mịt mờ.”
Nghĩa là đạo lớn không khó, vì lúc nào cũng hiện tiền
trước mắt, nếu chúng ta quay đầu tìm kiếm thì càng tìm
càng mờ mịt. Nói nghe thì đơn giản, nhưng ứng dụng tu thì
rất là khó khăn. Bởi vì ai nghe nói mình có tánh giác cũng
muốn tìm kiếm cho được. Nhưng càng tìm càng xa và càng muốn
thấy thì không thấy, như vậy có khó không? Như chúng ta có
con mắt sáng, muốn thấy được con mắt sáng của mình. Thấy
được không? Muốn biết mình có con mắt sáng thì đơn giản
quá, khi nhìn thấy người này vật kia là biết mình có con
mắt sáng. Như người mù không thấy gì cả nên mắt họ tối,
còn chúng ta thấy được cảnh vật nên biết mình có mắt
sáng, hết sức đơn giản không khó khăn chút nào hết. Nếu
không biết như vậy thì càng tìm càng xa và phăng tìm suốt
kiếp cũng không ra. Đó là cái lý đặc biệt, nên nói quay
đầu chuyển não càng mịt mờ. “Đem tâm lại nhắm cầu
tâm ấy, giống hệt cá con nhảy ngọn tre.” Đem tâm tìm tâm
làm sao tìm? Việc làm này giống như cá con muốn nhảy lên
đầu ngọn tre, không bao giờ nhảy nổi. Ý này Thượng Sĩ
nhắc chúng ta, tu phải khéo nhận ra thì thấy, nếu không nhận
ra thì càng tìm càng nhọc chớ không có ích gì cả.
Dịch:
TÂM
VƯƠNG
Tâm
vương không tướng cũng không hình
Mắt
tợ ly châu vẫn chẳng minh.
Muốn
biết loại này chân diện mục
Ha!
Ha! giữa ngọ là canh ba.
Giảng:
Tâm
vương là tâm vua, tâm vương này khác với tâm vương của
Duy thức học. Duy thức học chia tâm làm hai thứ là tâm vương
và tâm sở. Tâm vương có tám thứ, tâm sở có năm mươi mốt
thứ (muốn hiểu rõ hơn xin xem lại Duy thức học). Tâm vương
như chủ, tâm sở như những thuộc hạ. Ví dụ như con mắt
thấy sắc khởi niệm ưa thích gọi là tham tâm sở, tai nghe
tiếng trái ý sanh tâm giận ghét gọi là hận tâm sở v.v...
tùy trường hợp mà có tên riêng. Nhưng tâm vương này khác
với
tâm vương của Duy thức học.
“Tâm
vương không tướng cũng không hình, mắt tợ ly châu vẫn chẳng
minh.” Tâm vương này là tâm chúa không tướng không hình.
Lục tổ gọi là “Bản lai vô nhất vật” (xưa nay không
một vật) cho nên nói không tướng không hình. Dù cho người
có mắt sáng như hạt châu của con rồng vẫn không thể thấy
được tâm này. Nhưng “muốn biết loại này chân diện mục,
ha! ha! giữa ngọ là canh ba.” Muốn biết mặt thật của tâm
vương thì cười ha! ha! đúng lúc trưa là canh ba. Thật là
lạ lùng! Lâu nay chúng ta quen nhìn sự vật trên hình tướng,
nên cứ đuổi theo những cảnh sắc bên ngoài không bao giờ
dừng. Tâm vương Thượng Sĩ nói đây không có hình tướng
mắt không thể thấy, tay không thể sờ mó được. Là Thể
chân thật hằng hữu mà không tướng mạo, nên muốn
nhận ra thì phải quay ngược trở lại không kẹt nơi hình
tướng. Song, muốn xoay trở lại thì đang giữa ngọ là mười
hai giờ trưa mà thấy là mười hai giờ đêm, nghĩa là ngay
nơi cái sáng mà thấy được cái tối, ngay nơi cái có mà
đạt được lý không. Ý Thượng Sĩ nói rằng: chúng ta muốn
nhận ra tâm chân thật thì phải có khả năng nhìn ngược
lại, nên nói đang trưa mà thấy là canh ba. Bây giờ chúng
ta thấy ngược hay thấy xuôi? Thường thấy xuôi nên không
nhận ra Thể chân thật.
Dịch:
THẢ
TRÂU
Chợt
hứng non Qui được bạn thân
Đồng
hoang cam nhận kẻ mục đồng.
Quốc
vương ơn đức rộng như bể
Tùy
phận đôi phần nước cỏ xuân.
Giảng:
“Chợt
hứng non Qui được bạn thân, đồng hoang cam nhận kẻ mục
đồng.” Làm bạn thân với non Qui tức là làm bạn thân với
Thiền sư Đại An, để chăn trâu ngoài đồng hoang. Ý Thượng
Sĩ nói Ngài thích làm bạn với Thiền sư Đại An ở núi Qui
để chăn trâu. Vậy, bạn đó là một đại Thiền sư chớ
không phải bạn thường. Sử ghi rằng: Một hôm nhân buổi
thượng đường Thiền sư Đại An bảo chúng: “Sở dĩ, Đại
An này ở tại núi Qui ba mươi năm, ăn cơm núi Qui, đại tiện
núi Qui, mà không học Thiền núi Qui, chỉ coi chừng con trâu.
Nếu nó lạc đường hay vào trong cỏ, liền lôi nó lại. Nếu
nó ăn lúa mạ của người, liền đánh đập điều phục nó.
Đáng thương đã lâu chịu người rầy rà, hiện giờ nó đổi
thành con trâu trắng đứng trước mặt, trọn ngày hiện sờ
sờ đuổi cũng chẳng đi.” Thượng Sĩ tự nói mình là bạn
thân với ngài Đại An thì chắc rằng hai vị không thua không
kém nhau.
“Quốc
vương ân đức rộng như bể, tùy phận đôi phần nước cỏ
xuân.” Đất nước của quốc vương lớn rộng như biển,
nhưng trâu chỉ hưởng đôi phần đủ để nuôi sống thôi.
Ý Thượng Sĩ muốn nói rằng quốc vương đối với Ngài rất
mến mộ và ban ân huệ cho Ngài rất nhiều, nhưng Thượng
Sĩ chỉ nhận đôi phần đủ nuôi mạng sống, chớ không tham
lam thụ hưởng của cải vật chất nhiều. Thật là đúng
với tinh thần của người chăn trâu! Còn chúng ta bây giờ
chăn trâu mà nay thả đồng này mai thả đồng nọ, bao nhiêu
lúa mạ xanh mướt của người, chúng ta đều muốn lùa trâu
thả ăn hết. Như vậy, chúng ta chăn trâu mà tham lam quá! Thế
nên tôi chủ trương bắt ở một chỗ sống đạm bạc tức
là ăn ít ít, để lo chăn trâu thì rất phù hợp với tinh
thần của Thượng Sĩ dạy. Có như thế, chúng ta mới có cơ
hội chăn trâu kỹ, và trâu mới thuần. Hiểu rồi chúng ta
mới thấy giá trị của việc chăn trâu.
Dịch:
ĐỀ
TINH XÁ
Bước
đến cổng chùa chửa phút giây
Dọc
ngang kệ tụng viết xong ngay.
Năm
sang ngọn bút sao sắc lắm
Ba
cõi Như Lai chẳng thế này.
Giảng:
“Bước
đến cổng chùa chửa phút giây, dọc ngang kệ tụng viết
xong ngay.” Đây là ngày Tết, Thượng Sĩ đến Tinh xá Phước
Đường, mới tới cổng chưa bao lâu mà Ngài đã viết xong
bài thơ khai bút Tết, cho nên nói: “Năm sang ngọn bút sao
sắc lắm.” Sang năm mới, ngọn bút sao mà sắc quá, vừa
khởi niệm liền viết thành bài thơ. Nhưng “ba cõi Như Lai
chẳng thế này”. Ngài nói chư Phật không giống như vậy,
nghĩa là Phật ba đời không làm thơ làm kệ liên miên như
chúng ta, vì chư Phật không thích làm thơ. Bây giờ chúng ta
thích làm thơ làm kệ lắm, và cho mình lanh lẹ xuất khẩu
thành thơ v.v... Nhưng kỳ thật bị Phật Tổ quở. Có những
vị lóe sáng được chút ít, làm thơ làm kệ hết bài này
tới bài kia, đâu biết rằng đó là điều không thích hợp
với Phật Tổ.
Dịch:
CHỢT
HỨNG
Mộng
dậy cần nên xét kỹ xem
Gặp
thời chạm mắt chớ tối mèm.
Dầu
cho ngũ nhãn thông minh đấy
Chưa
khỏi gọi chuông là hũ xem.
Giảng:
Chợt
hứng là nơi tâm dấy lên niềm hứng khởi nên làm thơ. “Mộng
dậy cần nên xét kỹ xem, gặp thời chạm mắt chớ tối mèm.”
Mộng là mê thức là tỉnh, tỉnh rồi thì phải quán xét để
khi gặp duyên đối cảnh không còn tối nữa. Khi gặp duyên
cảnh dính mắc đó là mê, khi tỉnh gặp duyên cảnh không
dính mắc là không tối. “Dầu cho ngũ nhãn thông minh đấy,
chưa khỏi gọi chuông là hũ xem.” Ngũ nhãn là nhục nhãn,
thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn. Dù cho người
tu chứng được ngũ nhãn, mà không nhận ra Thể chân thật
của mình thì vẫn còn lầm mê, nên Thượng Sĩ dụ như người
gọi cái chuông là cái hũ.
Dịch:
CÂY
GẬY
Ngày
một trong tay nương gậy rong
Bỗng
dưng như cọp cũng như rồng.
Nắm
lên lại ngại núi sông nát
Quơ
gậy, e rằng trời, trăng mờ.
Ba
thước Song Lâm chỗ nào có
Sáu
khoen Địa Tạng ưa khó tầm.
Dù
cho thế đạo gai chông lắm
Chẳng
nệ từ xưa lão chập chùng.
Giảng:
“Ngày
một trong tay nương gậy rong, bỗng dưng như cọp cũng như
rồng.” Mỗi ngày mỗi ngày cầm cây gậy rong chơi, nhưng
cây gậy này nó có muôn ngàn diệu dụng không thể nghĩ lường
nên nói: “Nắm lên lại ngại núi sông nát, quơ gậy e rằng
trời trăng mờ.” Đây là diệu dụng của cây gậy hễ Ngài
nắm đưa lên thì núi sông tan nát, nếu quơ một cái e trời
đất trăng sao đều mờ. Đó là diệu dụng quá mức của
cây gậy. “Ba thước Song Lâm chỗ nào có, sáu khoen Địa
Tạng ưa khó tầm.” Song Lâm có người hiểu lầm là chỗ
của Phật nhập Niết- bàn, nhưng Song Lâm đây là chỉ cho
chỗ của ngài Phó Đại Sĩ ở Trung Hoa. Ngài Phó Đại Sĩ
tự là Huyền Phong hiệu là Thiện Huệ sanh năm 497 tịch năm
569 Dương lịch, quê ở Đông Dương huyện Ô Thương tỉnh
Chiết Giang. Ngài tự xưng là Thiện Huệ Đại Sĩ hay là Phó
Đại Sĩ hay Song Lâm Đại Sĩ (Song Lâm là chỗ Ngài ở). Năm
mười sáu tuổi lập gia đình với bà Lưu Diệu Quang. Sanh
được hai người con đặt tên Phổ Kiến và Phổ Thành. Đến
năm hai mươi bốn tuổi Ngài đi thả lưới ở sông Chiết
Giang, gặp một vị Tăng người Ấn hiệu là Đạt-ma hay Tung
Đầu-đà nhắc lại tiền kiếp của Ngài. Vị Tăng bảo: “Ngài
cùng tôi lúc xưa tu ở trên cung trời Đâu-suất, bây giờ
xuống đây Ngài quên rồi sao?” Nói rồi dẫn Ngài tới một
bờ hồ bảo Ngài nhìn xuống dòng nước thì thấy rõ hình
ảnh của Ngài là vị Tăng. Khi đó Ngài thức tỉnh xin xuất
gia tu hành. Rồi đến huyện Ô Thương ở Tùng Sơn dưới hai
cây tùng cất am tu nên để hiệu là Song Lâm am. Sau này thành
chùa cũng là Song Lâm. Ngài tu rất đắc lực và có nhiều
sự kỳ bí (xem trong Tục Cao Tăng truyện quyển thứ hai mươi
lăm, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển thứ hai mươi bảy-ba
mươi, Thánh Tăng Truyện quyển bốn kể lại sự tích đời
Ngài). Ngài có làm bài kệ đêm đêm ôm Phật ngủ. Sau đây
là bài kệ pháp thân của Ngài:
Không
thủ bả sừ đầu,
Bộ
hành kỵ thủy ngưu.
Nhân
tùng kiều thượng quá
Kiều
lưu thủy bất lưu.
Tạm
dịch:
Tay
không cầm cán cuốc
Đi
bộ cỡi lưng trâu.
Người
trên cầu đi lại
Cầu
trôi nước chẳng trôi.
Đây
là lối nói ngược: tay không lại cầm cán cuốc, đi bộ mà
cỡi lưng trâu, cầu trôi nước không trôi v.v.. toàn là chuyện
nói ngược, nghĩa là ai muốn nhận ra Pháp thân thì phải có
cái nhìn ngược lại. Chúng ta quen đuổi theo ngoại cảnh dính
mắc các duyên cho nên không nhận được cái chân thật của
mình. Bây giờ muốn nhận ra cái chân thật thì phải xoay trở
lại, đừng chạy ra ngoài. Đó là ý nghĩa của hai chữ Song
Lâm. Hơn nữa, Phó Đại Sĩ đi đâu cũng cầm cây gậy Song
Lâm ba thước (một thước bằng bốn tấc tây). Bây giờ muốn
thấy cái diệu dụng của Ngài qua cây gậy phải làm sao? “Sáu
khoen Địa Tạng ưa khó tầm.” Quí vị thấy tượng Bồ-tát
Địa Tạng cầm cây tích trượng, trên đầu tích trượng
có gắn sáu khoen tượng trưng cho Lục độ. Ngài Địa Tạng
cầm cây gậy sáu khoen chúng ta thích lắm, nhưng cũng khó tầm
ra.
“Dù
cho thế đạo chông gai lắm, chẳng nệ từ xưa lão chập chùng.”
Dù cho đường đời có gai chông, nhưng mà không ngại, vì
lão già đi chập chững đã có cây gậy tùy thân, nên vượt
qua hết, thật là diệu dụng của cây gậy khôn lường. Thượng
Sĩ nói rằng cây gậy là chỗ nương thân của người yếu
đuối. Cũng vậy người tu khi nhận ra THể CHÂN THậT, ĐÓ
MớI CHÍNH LÀ CHỗ CủA MÌNH NƯƠNG tựa. Nó có diệu dụng
khôn lường nên ở đây Thượng Sĩ dẫn cây gậy của ngài
Phó Đại Sĩ và cây tích trượng của Bồ-tát Địa Tạng,
ở đời ít ai có, hoặc có mà không nhận ra, nhưng nếu nhận
ra thì dù cho đường đời nhiều chông gai, dù cho thân này
già yếu cũng vẫn xông pha một cách nhẹ nhàng. Cho nên các
Thiền sư nói: “Ông không có cây gậy thì ta cướp cây gậy
của ông, còn ông có cây gậy thì ta sẽ cho ông cây gậy.”
Các Ngài nói nghe ngược đời, không có lấy gì mà cướp,
đã có rồi cho làm gì? Mới nghe dường như ngược, nhưng
mà đúng vậy, mình nhận mình có cây gậy thì cho mình mới
dùng, còn không nhận mình có cây gậy thì bỏ luôn đâu có
dùng. Cho nên nói không có thì cướp, mà có thì cho. Cây gậy
đó không phải là cây gậy tầm thường, mà là cây gậy để
chúng ta nương thân qua bờ bên kia; đó là chỉ Pháp thân của
mỗi người vậy.
Dịch:
CHIẾU
THÂN
Cháy
đầu dập trán mặc kim bào
Năm
bảy năm qua kiếp ngựa mao.
Ví
thực siêu quần cùng xuất chúng
Một
lần buông xuống một lần cao.
Giảng:
Chiếu
thân là soi lại thân mình, xét lại để thấy rõ cuộc sống
của đời mình như thế nào. Soi lại đời mình Thượng Sĩ
thấy “cháy đầu dập trán mặc kim bào, năm bảy năm qua
kiếp ngựa mao”. Kim bào là cái áo giáp của mấy ông quan
nhà tướng. Theo Thượng Sĩ, mặc áo giáp của mấy ông quan
nhà tướng, tức là làm tướng làm quan năm bảy năm, nhớ
lại như là kiếp trâu ngựa, đó là nỗi buồn của Ngài.
Nỗi buồn này không phải là nỗi buồn của một nhà Nho bị
thất sủng, rồi chán đời về ở nơi hoang dã hay chỗ điền
viên, làm thơ để chế giễu cuộc đời. Đối với Thượng
Sĩ thì khác; bao nhiêu năm làm quan tuy luôn luôn được hưởng
ân sủng của nhà vua, nhưng Ngài nhớ lại thấy chỉ là một
kiếp trâu ngựa không có gì quan trọng. “Ví thực siêu quần
cùng xuất chúng, một lần buông xuống một lần cao.” Qua
hai câu này chúng ta thấy Thượng Sĩ là người tu theo đạo
Phật có quan niệm khác hơn những nhà Nho. Nhà Nho khi mất
địa vị mất quyền lợi thì về vườn than thân trách phận
đủ thứ, còn ở đây Thượng Sĩ nhìn thấy giá trị của
quyền tước danh vọng không đáng kể, nó chỉ là một kiếp
tôi đòi. Thấy rõ như vậy nên buông quách nó và nhảy vọt
lên một bình diện cao hơn, chớ không phải buông ra rồi than
thân trách phận. Đó là điểm đặc biệt của Thượng Sĩ,
vì Ngài đã hiểu đạo và sống được với đạo. Quan niệm
của Ngài rất hợp với quan niệm của người xuất gia. Ở
trong pháp hội này cũng có những người có chút ít địa
vị và sự nghiệp trong xã hội, nhưng thức tỉnh nhớ lại
những thứ ấy thấy như bọt nước, như hoa đốm không bền
chắc rồi buông bỏ hết để đi tu. Tuy nhiên, chúng ta phải
học theo Thượng Sĩ là một lần buông là một lần nhảy
lên cao, chớ đừng nuối tiếc, buông rồi nắm lại, tuột
xuống chỗ thấp kém, như vậy không xứng đáng là người
xuất gia.
Dịch:
TỰ
ĐỀ
Ánh
thu có bút khó hình dung
Mắt
ngắm núi sông chốn chốn đồng.
Một
mạch Tào Khê lạnh ngăn ngắt
Ngàn
năm Hùng Nhĩ biêng biếc tùng.
Lồng
đèn đập phá Kim Cang khóa
Cột
cái nuốt ngon gai góc trong.
Muốn
biết trong đây ý đích thực
Tân
La đêm giữa mặt trời hồng.
Giảng:
“Ánh
thu có bút khó hình dung, mắt ngắm núi sông chốn chốn đồng.”
“Ánh thu” biểu trưng cho TÁNH giác có sẵn nơi mỗi người.
Tánh giác trong sáng như ánh sáng mùa thu, nó sáng trong mát
diệu, dù chúng ta có bút cũng không thể nào tả được, vì
nó không có tướng mạo nên không thể diễn tả, nên nói
khó hình dung. Nhưng nhờ ánh sáng của mùa thu mà chúng ta nhìn
khắp hết núi sông, nơi nơi đều nhìn thấy suốt một cách
rõ ràng không mờ tối. “Một mạch Tào Khê lạnh ngăn ngắt,
ngàn năm Hùng Nhĩ biêng biếc tùng.” Mạch Tào Khê tức là
dòng suối Tào Khê chỗ ở Lục Tổ nơi đó lạnh ngắt. Và,
những cây thông cây tùng trên núi Hùng Nhĩ sau lưng chùa Thiếu
Lâm trồng cả ngàn năm mà vẫn xanh biêng biếc. Nhờ có “ánh
thu” mà chúng ta cảm nhận được dòng nước Tào Khê lạnh
ngăn ngắt, nhờ có “ánh thu” chúng ta mới thấy được
màu xanh biêng biếc của những cây tùng ở núi Hùng Nhĩ. Ý
Thượng Sĩ nói rằng nếu nhận ra nơi chúng ta có tâm thể
không sanh không diệt thì sẽ nhận được ý chỉ của Tổ
Bồ-đề-đạt-ma và Lục Tổ ở Tào Khê.
“Lồng
đèn đập phá Kim Cang khóa, cột cái nuốt ngon gai góc trong.”
Cái khóa Kim Cang quá cứng mà lồng đèn đập phá làm cho nát
cái khóa đó. Cây cột cái lại nuốt hết những lùm gai góc.
Ở đây ý Thượng Sĩ muốn nói gì? Thiền sử có ghi ngài
Vân Môn khi thượng đường chỉ cây cột cái nói: “Cây cột
cái này với chư Phật tương quan.” Có khi chỉ cây cột cái
nói: “Sao không nói Thiền đi?” Thượng Sĩ dùng hình ảnh
lồng đèn đập khóa Kim Cang, cột cái nuốt hết gai góc là
muốn nói rằng: Thiền sư khi muốn chỉ cho người học đạo
nhận ra cái chân thật thì không cho suy gẫm phân biệt, vì
suy gẫm phân biệt là hư dối và còn nằm trong sự đối đãi.
Muốn nhận ra cái chân thật thì phải buông hết ý nghĩ suy
gẫm phân biệt, nên cái Ngài hay nói những câu vô lý như
“lồng đèn đập nát khóa Kim Cang”... để chúng ta không
còn suy nghĩ gì nữa. Cả ngày các Ngài nói mà không động
lưỡi, cả ngày nhai mà không nát hạt cơm, các Ngài nói đông
nói tây mà không có cái gì để chúng ta suy nghĩ hết. Đó
là cái thuật khéo của các Thiền sư. Bây giờ chúng ta chưa
có gì kỳ đặc nên nói ra thì phải phân tích để suy gẫm
đúng sai v.v... Còn các Ngài nói không cho suy gẫm, mà không
suy gẫm thì mới thấy được lý chân thật. Hai câu này ý
nói muốn nhận ra cái chân thật thì phải buông tất cả những
suy gẫm của ý và phân biệt của trí, hai cái đó buông hết
thì mới nhận ra “ánh thu” là tâm thể chân thật nơi mình.
“Muốn
biết trong đây ý đích thực, Tân La đêm giữa mặt trời
hồng.” Tân La là nước Triều Tiên. Nước Triều Tiên ở
về phía đông nước Trung Hoa, mỗi sáng mặt trời lên ở
phương đông, như vậy ở Tân La thấy mặt trời trước nhất.
Ở đây Thượng Sĩ lại nói rằng: “muốn biết trong đây
ý đích thực, Tân La đêm giữa mặt trời hồng” là muốn
biết ý đích thực thì phải thấy ngược lại là nửa đêm
mà thấy mặt trời mọc, thấy như vậy là không còn gì để
suy gẫm, nếu thấy mà còn suy gẫm để phân biệt thì chưa
thấy ý đích thực; tức là chưa hưởng được “ánh thu”
mà Ngài nói ở đây.
Dịch:
CHỢT
TỈNH
Đoán
rằng Không Hữu chẳng khác nhau
Sanh
tử vốn từ mạch sóng xao.
Trăng
sáng tối qua, nay trăng sáng
|