00
Mục Lục
|
01
Lời đầu sách của HT Thanh Từ
|
02
Đề Tựa của Tỳ Kheo Huệ Nguyên (1763)
|
03
Hành Trạng Thượng Sĩ
|
04
Đối Cơ (trả Lời Người Hỏi)
|
05
Tụng Cổ
|
06-1
Bài ca Tâm Phật
|
06-2
Bài ngâm phóng cuồng, Sống
chết nhàn mà thôi
|
06-3
Phàm Thánh không hai, Mê ngộ không khác, Ngậm bĩu môi
|
06-4
Bài văn Trứ Từ tự răn, Thời tiết an định, Dương
chân, Vào cát bụi
|
06-5
Muôn việc về như, Thói đời hư dối, Họa thơ quan
Huyện, Cảnh vật Tịnh Bang, Họa Thơ Hưng Trí Thượng Vị
Hầu
|
06-6
Tụng đạo học Trần Thánh Tông, Chăn trâu đất, Vui
thích giang hồ, Vật không tuỳ người, Viếng Đại Sư Tăng
Điền, Thăm bệnh Đại Sư Phước Đường
|
06-7
Lễ Thiền sư Tiêu Dao ở Phước Đường, Cảnh vật
Phước Đường, Tăng Pháp sư Thuần Nhất, Đùa Thiền Sư Trí
Viễn xem kinh giải nghĩa, Điệu Tiên Sư
Khuyên
đời vào đạo, Bảo chúng, Bảo chúng, Bảo học giả, Chợt
hứng
|
06-8
Cội tùng đáy khe, Xuất trần, Đạo lớn không khó,
Tâm vương, Thả trâu, Đề tịnh xá, Chợt hứng, Cây gậy,
Chiếu thân, Tự đề, Chợt tỉnh, Tự tại, Bảo học trò,
Bảo tu nghiệp Tây phương, Thoát đời, Vui thú giang hồ.
|
07
Lời Bạt
|
|
|
|
|
X
TUỆ TRUNG THƯỢNG
SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI
Biên
Soạn: Trúc Lâm Tổ Sư (Trần Nhân Tông)
Dịch
và Giảng: Hoà ThượngThích Thanh Từ
Ban
Văn Hoá Trung Ương GHPGVN Xuất Bản 1996
HÀNH
TRẠNG THƯỢNG SĨ
(TRẦN
TUNG: 1230 - 1291)
Dịch:
Thượng Sĩ là con đầu của Khâm Minh Từ Thiện Thái Vương
(Trần Liễu), là anh cả của Hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên
Cảm. Khi Đại vương mất, hoàng đế Thái Tông cảm nghĩa
phong cho Thượng Sĩ tước Hưng Ninh Vương.
Lúc nhỏ, Thượng Sĩ nổi tiếng bẩm chất cao sáng thuần
hậu. Được cử trấn giữ quân dân đất Hồng Lộ, hai phen
giặc Bắc xâm lăng, Ngài chống ngăn có công với nước, lần
lượt thăng chức Tiết độ sứ giữ cửa biển Thái Bình.
Đó là Ngài vì người vậy.
Thượng Sĩ khí lượng uyên thâm, phong thần nhàn nhã. Tuổi
còn để chỏm, Ngài đã mến mộ cửa Không. Sau Ngài đến
tham vấn Thiền sư Tiêu Dao ở Tinh xá Phước Đường. Ngài
lãnh hội được yếu chỉ, dốc lòng thờ làm thầy. Hằng
ngày, Ngài lấy Thiền duyệt làm vui, không lấy công danh làm
sở thích. Ngài lui về ở phong ấp Tịnh Bang, đổi tên là
làng Vạn Niên. Hòa ánh sáng lẫn với thế tục (hòa quang
đồng trần), Ngài cùng mọi người chưa từng chống trái,
nên hay làm hưng thịnh hạt giống chánh pháp, dạy dỗ được
hàng sơ cơ, người đến hỏi han, Ngài đều chỉ dạy cương
yếu, khiến họ trụ tâm, tánh tùy phương tiện khi hiện khi
ẩn, trọn không có tên thật.
Vua Thánh Tông nghe danh Ngài đã lâu, bèn sai sứ mời vào cửa
khuyết. Ngài đối đáp với vua đều là những lời siêu thoát
thế tục. Nhân đó, vua Thánh Tông tôn Ngài làm sư huynh, tặng
hiệu là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ngài vào cung thăm, Thái hậu
mở tiệc thịnh soạn tiếp đãi. Dự tiệc, Ngài gặp thịt
cứ ăn. Thái hậu lấy làm lạ hỏi: “Anh tu thiền mà ăn
thịt, đâu được thành Phật?”
Thượng Sĩ cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng
cần làm Phật, Phật chẳng cần làm anh. Thái hậu không nghe
cổ đức nói: ‘Văn-thù là Văn-thù, Giải thoát là Giải
thoát’ đó sao?”
Thái hậu qua đời, nhà vua làm lễ trai tăng ở cung cấm. Nhân
lễ khai đường, vua thỉnh những vị danh đức các nơi, theo
thứ lớp mỗi vị thuật bài kệ ngắn để trình kiến giải.
Kết quả thảy đều quến sình ủng nước, chưa có chỗ tỏ
ngộ. Nhà vua lấy quyển tập đưa Thượng Sĩ. Thượng Sĩ
viết một mạch bài tụng tự thuật rằng:
Kiến giải trình kiến giải
Tợ ấn mắt làm quái
Ấn mắt làm quái rồi
Rõ ràng thường tự tại.
Nhà vua đọc xong, liền phê tiếp theo sau:
Rõ ràng thường tự tại
Cũng ấn mắt làm quái
Thấy quái chẳng thấy quái
Quái ấy ắt tự hoại.
Thượng Sĩ đọc, thầm nhận đó.
Sau vua kém vui, Thượng Sĩ viết thơ hỏi thăm bệnh. Vua đọc
thơ, trả lời bằng bài kệ:
Hơi nóng hừng hực toát mồ hôi
Chiếc khố mẹ sanh chưa thấm ướt.
Thượng Sĩ đọc kệ than thở giây lâu. Đến khi vua bệnh
nặng, Thượng Sĩ khấp khểnh về kinh thăm, nhưng đến nơi
vua đã qui tiên rồi.
Riêng tôi (Sơ tổ Trúc Lâm) nay cũng nhờ ơn Thượng Sĩ dạy
dỗ. Lúc tôi chưa xuất gia, gặp tuần tang của Đinh Nguyên
Thánh mẫu hậu, nhân thỉnh Thượng Sĩ. Thượng Sĩ trao cho
tôi hai quyển lục Tuyết Đậu và Dã Hiên. Tôi thấy lời
nói thế tục quá sanh nghi ngờ, bèn khởi tâm trẻ con trộm
hỏi rằng:
“Chúng sanh do nghiệp uống rượu ăn thịt, làm sao thoát khỏi
tội báo?”
Thượng Sĩ bảo cho biết rõ ràng:
“Giả sử có người đứng xây lưng lại, chợt có vua đi
qua sau lưng người kia thình lình hoặc cầm vật gì ném trúng
vua, người ấy có sợ không? Vua có giận chăng? Như thế nên
biết, hai việc này không liên hệ gì nhau.” Thượng Sĩ liền
đọc hai bài kệ để dạy:
Vô thường các pháp hạnh
Tâm nghi tội liền sanh
Xưa nay không một vật
Chẳng giống cũng chẳng mầm.
*
Ngày ngày khi đối cảnh
Cảnh cảnh từ tâm sanh.
Tâm cảnh xưa nay không
Chốn chốn ba-la-mật.
Tôi lãnh hội ý chỉ hai bài tụng, giây lâu hỏi: “Tuy nhiên
như thế, vấn đề tội phước đâu đã rõ ràng.”
Thượng Sĩ lại dùng kệ để giải rõ:
Ăn rau cùng ăn thịt
Chúng sanh mỗi sở thuộc.
Xuân về trăm cỏ sanh
Chỗ nào thấy tội phước?
Tôi thưa: “Chỉ như gìn giữ giới hạnh trong sạch, không
chút xao lãng lại thế nào?”
Thượng Sĩ cười không đáp. Tôi lại thỉnh cầu. Ngài lại
nói hai bài kệ để ấn định đó:
Giữ giới cùng nhẫn nhục
Chuốc tội chẳng chuốc phước.
Muốn biết không tội phước
Chẳng giữ giới nhẫn nhục.
*
Như khi người leo cây
Trong an tự cầu nguy.
Như người không leo cây
Trăng gió có làm gì?
Ngài lại dặn nhỏ tôi: “Chớ bảo cho người không ra gì
biết.” Tôi biết môn phong của Thượng Sĩ cao vót. Một hôm
tôi xin hỏi Ngài về “bổn phận tông chỉ”, Thượng Sĩ
đáp: “Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ
nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất
tùng tha đắc.) Nghe xong, tôi thông suốt được đường vào,
bèn vén áo thờ Ngài làm thầy.
Ôi! Tinh thần sắc vận của Thượng Sĩ thật trang nghiêm,
cử chỉ thẳng thắn uy đức. Ngài bàn huyền nói diệu, trong
lúc gió mát trăng thanh, những hàng thạc đức đương thời
đều bảo Thượng Sĩ tin sâu hiểu rõ, thuận hạnh nghịch
hạnh thật khó lường được.
Sau Ngài bệnh ở Dưỡng Chân Trang, chẳng ở trong phòng thất.
Kê một chiếc giường gỗ ở giữa nhà trống, Ngài nằm theo
thế kiết tường, nhắm mắt mà tịch. Các người hầu và
thê thiếp trong nhà khóc rống lên. Thượng Sĩ mở mắt ngồi
dậy, đòi nước súc miệng rửa tay, rồi quở nhẹ rằng:
“Sống chết là lẽ thường, đâu nên buồn thảm luyến tiếc,
làm nhiễu động chân tánh ta.” Nói xong, Ngài an nhiên
thị tịch, thọ sáu mươi hai tuổi. Bấy giờ là ngày mùng
một tháng tư năm Tân Mẹo, nhằm niên hiệu Trùng Hưng thứ
bảy (1291) đời vua Trần Nhân Tông.
Tôi hân hạnh được làm đệ tử gần gũi của Ngài, có làm
bài tụng “Thắp Hương Đền Ơn”, không chép lại đây.
Sau khi tôi được truyền nối pháp, mỗi khi khai đường thuyết
pháp, tự nhớ đến tứ trọng ân, nhất là ân pháp nhũ khó
đền. Tôi sai họa sĩ vẽ chân dung của Ngài, để được
cúng dường, tự thuật bài tụng để tán thán. Đề rằng:
Lão cổ chùy này
Người khó diễn tả
Thước nách Lương Hoàng
Chuông xe Thái Đế.
Hay vuông hay tròn
Hay dày hay mỏng
Biển pháp một mắt
Rừng thiền ba góc.
CÁC
HÀNG MÔN ĐỆ TÁN TỤNG
- Đệ tử nối pháp Trúc Lâm Đại Đầu-đà tán:
Trông đó càng cao
Dùi đó càng cứng.
Bỗng dưng ở sau
Nhìn đó ở trước.
Đây mới gọi là
Thiền của Thượng Sĩ.
- Trúc Lâm đàn cháu nối pháp đệ tử Pháp Loa cúi đầu kính
cẩn tán:
Á!
Gang ròng nhồi lại
Sắt sống đúc thành.
Thước trời tấc đất
Gió mát trăng thanh.
Chao!
- Trúc Lâm đàn cháu nối pháp đệ tử Bảo Phác cúi đầu
kính cẩn tán:
Linh Sơn tự nắm tay
|