00
Mục Lục
|
01
Lời đầu sách của HT Thanh Từ
|
02
Đề Tựa của Tỳ Kheo Huệ Nguyên (1763)
|
03
Hành Trạng Thượng Sĩ
|
04
Đối Cơ (trả Lời Người Hỏi)
|
05
Tụng Cổ
|
06-1
Bài ca Tâm Phật
|
06-2
Bài ngâm phóng cuồng, Sống
chết nhàn mà thôi
|
06-3
Phàm Thánh không hai, Mê ngộ không khác, Ngậm bĩu môi
|
06-4
Bài văn Trứ Từ tự răn, Thời tiết an định, Dương
chân, Vào cát bụi
|
06-5
Muôn việc về như, Thói đời hư dối, Họa thơ quan
Huyện, Cảnh vật Tịnh Bang, Họa Thơ Hưng Trí Thượng Vị
Hầu
|
06-6
Tụng đạo học Trần Thánh Tông, Chăn trâu đất, Vui
thích giang hồ, Vật không tuỳ người, Viếng Đại Sư Tăng
Điền, Thăm bệnh Đại Sư Phước Đường
|
06-7
Lễ Thiền sư Tiêu Dao ở Phước Đường, Cảnh vật
Phước Đường, Tăng Pháp sư Thuần Nhất, Đùa Thiền Sư Trí
Viễn xem kinh giải nghĩa, Điệu Tiên Sư
Khuyên
đời vào đạo, Bảo chúng, Bảo chúng, Bảo học giả, Chợt
hứng
|
06-8
Cội tùng đáy khe, Xuất trần, Đạo lớn không khó,
Tâm vương, Thả trâu, Đề tịnh xá, Chợt hứng, Cây gậy,
Chiếu thân, Tự đề, Chợt tỉnh, Tự tại, Bảo học trò,
Bảo tu nghiệp Tây phương, Thoát đời, Vui thú giang hồ.
|
07
Lời Bạt
|
|
|
|
|
X
TUỆ TRUNG THƯỢNG
SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI
Biên
Soạn: Trúc Lâm Tổ Sư (Trần Nhân Tông)
Dịch
và Giảng: Hoà ThượngThích Thanh Từ
Ban
Văn Hoá Trung Ương GHPGVN Xuất Bản 1996
THI
CA (tt)
Dịch:
TỤNG
ĐẠO HỌC
TRẦN
THÁNH TÔNG
Thánh
học cao minh tột cổ kim
Kho
rồng xâu suốt tận hoa tim.
Thích
phong đã được mở tay báu
Tổ
ý đâu không thấu kim chìm.
Trí
vượt cửa thiền thông Thiếu Thất
Tình
siêu biển giáo thấu Oai Âm.
Người
đời chỉ thấy ngàn non đẹp,
Ai
lắng hang sâu tiếng vượn trầm.
Giảng:
Trần
Thánh Tông là vị vua không xuất gia mà thấy được lý thật
qua kinh điển, qua ngữ lục của các Thiền sư. Nhà vua thấy
rất sâu, tột cùng lý đạo, nên Thượng Sĩ tán thán.
“Thánh
học cao minh tột cổ kim, kho rồng xâu suốt tận hoa tim.”
Về thánh điển thì nhà vua thông suốt cả sách vở xưa nay,
nhất là kinh Phật. “Kho rồng” dựa theo huyền sử kể rằng
Bồ-tát Long Thọ có một lần được Long vương mời xuống
Long cung thuyết pháp, Long vương mở kho tàng chứa kinh Phật
cho Ngài xem. Vì trên nhân gian bị giặc cướp thiêu đốt cho
nên kinh sách không còn đủ, Long vương đã thỉnh hết kinh
Phật đem về chứa vào kho ở Long cung. Sau khi xem, ngài Long
Thọ xin thỉnh những bộ kinh như Hoa Nghiêm, Niết-bàn v.v...
để đem về nhân gian dịch ra và truyền bá cho người sau
biết. Bốn bộ A-hàm của hệ Nguyên thủy không có những
kinh đó. Đứng về lịch sử thì kinh Hoa Nghiêm, Niết-bàn
v.v... ra đời sau khi Phật niết-bàn khoảng sáu trăm năm, tức
là nhằm vào thời ngài Long Thọ. Nên đây nói “kho rồng
xâu suốt tận hoa tim”. Nghĩa là kho kinh ở Long cung vua Trần
Thánh Tông thông suốt hết.
“Thích
phong đã được mở tay báu, Tổ ý đâu không thấu kim chìm.”
Hai câu này ý muốn nhắc đến hai sự tích:
1.
“Thích phong đã được mở tay báu” nghĩa là mở tay ra có
hòn ngọc quí trong đó. Một hôm Tổ Sư Tử đi hoằng hóa
đến nước Kế-tân có ông trưởng giả dẫn đứa con đến
yết kiến Ngài, thưa rằng:
-
Thằng con tôi tên là Tư-đa hai mươi tuổi, từ khi sanh ra đến
giờ bàn tay trái nó nắm chặt lại chưa từng mở ra. Xin Tôn
giả từ bi nói rõ nhân đời trước của nó cho tôi hiểu.
Tổ
nhìn thẳng vào mặt Tư-đa, rồi đưa tay bảo:
-
Trả hạt châu lại cho ta!
Tư-đa
liền xòe tay dâng hạt châu cho Tổ. Tổ giải thích:
-
“Đời trước, ta là một Tỳ-kheo thường được Long vương
thỉnh xuống Long cung tụng kinh. Một hôm sau khi tụng kinh xong,
Long vương cúng ta một hạt châu, ta nhận châu rồi trao cho
chú thị giả tên Bà-xá (tức là thân đời trước của Tư-đa)
giữ trong tay. Ta tịch, sanh nơi đây, vì nhân duyên thầy trò
chưa hết nên gặp lại nhau tại hội này.”
Trưởng
giả nghe được tiền duyên của con mình hoan hỉ cho Tư-đa
theo Ngài xuất gia. Tổ xét duyên xưa và nay, hợp hai tên đặt
là Bà-xá-tư-đa.
Ý
câu này Thượng Sĩ tán thán vua Trần Thánh Tông giống như
Bà-xá-tư-đa mở tay ra liền thấy hòn ngọc báu. Đó là cái
duyên thầy trò ngày xưa bây giờ gặp lại.
2.
“Tổ ý đâu không thấu kim chìm.” Ngài Ca- na-đề- bà là
Tổ thứ mười lăm đệ tử của Tổ Long Thọ. Khi Tổ Long
Thọ đến Nam Ấn, Ngài đến yết kiến. Tổ muốn thử Ngài,
nên sai đồ đệ múc một thau nước đầy để trước lối
vào. Ngài đi qua lấy một cây kim bỏ vào thau nước rồi thẳng
đến yết kiến Tổ. Tổ rất hoan hỉ, thầy trò đã hợp
duyên. Việc Long Thọ sai để thau nước không phải chỉ ngầm
ý cho ngài Đề-bà bỏ kim vào, mà còn muốn nói lên cái ý
khó tìm. Ở đời cái gì khó tìm thì người ta nói mò kim
đáy giếng. Kim rớt xuống đáy giếng tìm rất khó. Cũng vậy,
duyên thầy trò ngày xưa mà nay gặp lại không phải là chuyện
dễ, rất khó, khó như việc mò kim đáy giếng. Cái thau nước
tượng trưng cho cái giếng, cây kim bỏ trong thau chìm xuống
đáy, dụ như cây kim rớt chìm dưới đáy giếng tìm rất
khó khăn. Ý của Tổ Long Thọ ngài Ca-na- đề-bà hiểu thấu,
nên bỏ cây kim vào thau. Thượng Sĩ dẫn tích này để tán
thán vua Trần Thánh Tông thấu suốt lý Thiền, giống như ngài
Ca-na-đề-bà hội được ý Tổ Long Thọ nên bỏ kim vào thau.
“Trí
vượt cửa Thiền thông Thiếu Thất.” Trí tuệ của vua Trần
Thánh Tông vượt khỏi cửa Thiền và thông suốt được ý
nghĩa của Tổ Đạt-ma ở Thiếu Thất. “Tình siêu biển giáo
thấu Oai Âm.” Vua Trần Thánh Tông thấu suốt được giáo
lý của Phật Thích-ca trong đời hiện tại cho đến đức
Phật Oai Âm Vương ở đời quá khứ. Trong kinh có câu: “Oai
Âm Vương dĩ tiền vô Phật danh vô chúng sanh danh.” Nghĩa
là từ đức Phật Oai Âm Vương về trước không có tên Phật
và tên chúng sanh. Phật Oai Âm Vương là đức Phật đầu của
tất cảz chư Phật. Ý câu này tán thán vua Trần Thánh Tông
thấu suốt được giáo lý của chư Phật một cách tường
tận.
“Người
đời chỉ thấy ngàn non đẹp, ai lắng hang sâu tiếng vượn
trầm.” Nguời thế gian chỉ thích thấy những cảnh đẹp
của núi non mây nước, ít ai chịu lắng nghe tiếng con vượn
kêu trong hang sâu. Ở đời này có mấy người chịu ngồi
im lìm để lắng nghe tiếng khỉ vượn nhảy nhót kêu ở trong
lồng, mà đa số chỉ thích chạy tìm những thanh sắc tầm
thường ở bên ngoài. Nhưng tất cả cái bên ngoài là tướng
sanh diệt, thế mà người ta lại mê say đuổi theo. Rất ít
người chịu lắng lòng nhìn lại mình thật kỹ, để nhận
ra cái chân thật của mình. Tuy quí vị có lắng ở hang sâu
mà chưa nghe tiếng vượn, biết đâu hôm nào đó nghe rồi
bật cười và tất cả sương mù trên thế gian đều tan vỡ
hết. Chúng ta thấy những bài thơ của Thượng Sĩ, hai câu
kết thường nhắc đến việc quan trọng của người tu là
nhận cho ra cái chân thật của mình.
Dịch:
CHĂN
TRÂU ĐẤT
Một
con trâu đất, một mình chăn
Xỏ
mũi lôi về chẳng khó khăn.
Đem
đến Tào Khê buông thả quách
Mênh
mông nước chảy đánh cầu tròn.
Giảng:
Theo
chữ Hán con trâu và con bò viết cùng một chữ ngưu (
) nhưng chữ ngưu thường chỉ con bò, còn chữ thủy ngưu (
) thường chỉ con trâu. Còn bò thì màu vàng sừng ngắn, ở
trên khô không lội nước, con trâu màu đen sừng dài và cong
lội nước được, nên nói trâu nước.
Ở
đây Thượng Sĩ nói chăn con trâu đất. Vậy trâu đất là
trâu hay bò? Đúng ra là trâu chớ không phải bò. Vì ở Việt
Nam trâu hay nằm ở vũng bùn tẩm đất đầy mình nên gọi
là trâu đất, thay vì ở Trung Hoa gọi là trâu nước. Vậy
nói theo Việt Nam là chăn trâu chớ không phải chăn bò. Chúng
ta đừng hiểu lầm con trâu đất là con trâu làm bằng đất,
trâu bằng đất thì vô tri làm sao chăn? Như vậy con trâu đất
là con trâu dính bùn đầy mình, vì chữ Nê (
) là bùn chớ không phải đất.
“Một
con trâu đất một mình chăn.” Một con trâu đất một mình
chăn thì dễ quá, chăn con trâu của mình chớ không phải của
ai. Nhưng chăn bằng cách nào? “Xỏ mũi lôi về chẳng khó
khăn.” Xỏ mũi lôi đầu nó chuyện đó không khó. Như vậy
muốn con trâu thuần thục và qui thuận thì phải xỏ mũi lôi
đầu nó mới đi, chớ chăn mà không xỏ mũi thì không được.
Cũng vậy, những vọng tưởng của chúng ta nhà Thiền tạm
gọi con trâu, nó không có hình tướng chợt sanh chợt
diệt. Nếu chăn mà không có phương tiện thì làm sao chăn?
Vì vậy phải dùng phương tiện. Phương tiện ở đây dùng
cho người sơ cơ là quán hơi thở, người thuần thục thì
vọng tưởng khởi nhìn cho nó lặng xuống, không để nó tự
do hoạt động. Nếu chúng ta chăn thật kỹ thì con trâu dễ
điều phục. Con trâu chúng ta đang chăn có ai biết hình dáng
nó thế nào không? Nó có bốn chân hai sừng phải không? -
Thật ra, con trâu Thượng Sĩ nói không có hình dáng cụ thể,
chẳng qua do người xưa nương lời dạy của đức Phật trong
kinh Di Giáo về việc kềm chế năm căn không cho buông lung
chạy theo năm dục. Ví như người chăn trâu coi chừng trâu
không cho nó xâm phạm lúa mạ của người. Mượn hình ảnh
con trâu để soạn ra mười bức tranh với ý chỉ hàng phục
những vọng tưởng loạn động của mình gọi là chăn trâu.
“Đem
đến Tào Khê buông thả quách.” Thả quách là buông tay chớ
không còn nắm mũi, không còn kềm chế, nghĩa là để cho nó
tự do. Nhưng muốn thả thì phải chăn cho thuần thục rồi
mới thả. Chừng nào chúng ta được nhất hạnh tam-muội và
nhất tướng tam-muội, như lời Lục Tổ dạy trong kinh Pháp
Bảo Đàn thì mới thả cho con trâu tự do. Nhất tướng tam-muội
là đối với tất cả tướng dù đẹp dù xấu, dù lớn dù
nhỏ, chúng ta đều không dính mắc, tức là nhìn thấy tất
cả tướng tâm không dấy động, luôn luôn ở trong chánh định.
Nhất hạnh tam-muội là trong bốn oai nghi đi đứng ngồi nằm,
khi tiếp duyên xúc cảnh tâm vẫn an nhiên tự tại, không dính
không kẹt với sáu trần bên ngoài. Như vậy nếu người tu
hành đạt được hai tam-muội này thì không còn phải chăn
trâu, nên nói đem đến Tào Khê buông thả quách. “Mênh mông
nước chảy đánh cầu tròn.” Câu kết hơi khó. Ở trong dòng
nước chảy xiết mà đánh cầu. Để dễ hiểu tôi dẫn câu
chuyện mang ý này:
Có
vị Tăng đến hỏi ngài Triệu Châu: “Trẻ con mới sanh có
đủ sáu thức chăng?” Triệu Châu đáp: “Trên dòng nước
chảy xiết đá cầu.” Sau vị Tăng ấy đến hỏi ngài Đại
Đồng Đầu Tử: “Trên dòng nước chảy xiết đá cầu, ý
nghĩa thế nào?” Sư đáp: “Niệm niệm chẳng tạm dừng.”
Chúng
ta thường nghĩ người lớn có ý thức phân biệt thế này
thế kia, còn con nít thì ý thức nó còn non nớt nên không
phân biệt. Ở đây, vị Tăng này hỏi: “Con nít có đủ sáu
thức không?” Ngài Triệu Châu trả lời: “Trên dòng nước
chảy xiết đá cầu.” Nghe qua vị Tăng không hiểu mới đến
hỏi Thiền sư Đại Đồng, Ngài đáp: “Niệm niệm chẳng
tạm dừng.” Qua câu đáp của Thiền sư Đại Đồng chúng
ta mới hiểu câu trả lời của ngài Triệu Châu “trên dòng
nước chảy xiết đá cầu”. Ý nói sáu thức nơi con nít
đang trên dòng phát triển liên tục từ sơ sanh dần dần lớn
lên. Như khi còn bé chúng ta cũng thấy nghe mà chưa khởi phân
biệt đẹp xấu hay dở. Tuy nói chưa khởi phân biệt, chớ
đứa bé thấy cái gì có màu sắc nó cũng đưa tay chụp, cái
gì không thích thì nó giẫy nẩy không chịu, nghe tiếng nói
ngọt ngào nó cười vui vẻ, nghe tiếng nói nặng nề mắng
mỏ nó cũng biết tủi biết buồn. Như vậy tuy nó có cái
biết phân biệt nhưng rất sơ khai chưa rõ ràng. Từ từ lớn
lên cái thấy nghe hiểu biết nó càng rõ ràng hơn. Ngài Triệu
Châu nói đứa bé vẫn có đủ sáu thức, nhưng phát triển
dần dần từ sơ khai đến trưởng thành, liên tục như dòng
nước chảy xiết, hạt nước này tiếp nối hạt nước kia
chảy liên tục. Chúng ta thấy như một dòng nước nhưng thật
ra nó biến chuyển không dừng. Ngài Triệu Châu nói con nít
cũng có sáu thức, song nó biến chuyển dần và không dừng
như dòng nước chảy xiết. Còn đá cầu, nghĩa là sao? Chính
nhờ Thượng Sĩ mà chúng ta hiểu được ý này. Xin nhắc lại
hai câu “đem đến Tào Khê buông thả quách, mênh mông nước
chảy đánh cầu tròn”. Nếu chúng ta tu điều phục được
con trâu của mình rồi, nó không còn kéo lôi chống trả nữa,
lúc đó chúng ta được tự do. Như vậy là trong dòng biến
chuyển của sáu thức chúng ta được tự tại. Giống như
người đánh cầu trên dòng nước chảy xiết. Đánh cầu hay
đá cầu của ngài Triệu Châu, ý nói người tu Thiền thì
không bị sự biến chuyển của sáu thức lôi kéo nhận chìm.
Giống như người đứng trên dòng nước chảy xiết mà đánh
cầu một cách tự do, việc này ngoài sức tưởng tượng của
con người. Vì người thế gian luôn luôn bị sáu thức kéo
lôi nhận chìm. Hiểu được ý này chúng ta mới thấy giá
trị của bài thơ. Bài thơ chỉ có bốn câu mà Ngài nói lên
được tiến trình tu tập từ khi bắt đầu dụng tâm tu cho
đến khi đạt được kết quả.
Tôi
xin nhắc lại toàn bài để quí vị nắm cho vững: “Một
con trâu đất một mình chăn.” Mấy hôm rồi quí vị chăn
một mình hay có ai phụ không? “Xỏ mũi lôi về chẳng khó
khăn.” Quí vị xỏ mũi được chưa hay vẫn còn cay đắng
gian nan? Và, tuy đã xỏ mũi rồi có khi lôi nó không chịu
đi, vì sức mình yếu nên lắm lúc cũng bị nó lôi lại. Như
vậy đối với quí vị thì “xỏ mũi lôi về rất khó khăn”.
Nếu “chẳng khó khăn” thì sẽ “đem đến Tào Khê buông
thả quách”. Khi trâu thuần thục thì mình nằm ngủ khò chẳng
còn lo lắng gì nữa, bấy giờ thì “mênh mông nước chảy
đánh cầu tròn”. Tuy ở trong dòng sanh diệt mà chúng ta an
nhiên, không lo sợ không dính mắc gì cả. Chỉ tóm gọn trong
bốn câu thơ mà Ngài nói lên được tiến trình tu tập của
một hành giả từ khi bắt đầu cho đến khi viên mãn. Chúng
ta nên ghi nhớ để mà tu tập.
Dịch:
VUI
THÍCH GIANG HỒ
Tâm
xưa hồ hải chửa từng khuây
Ngày
tháng như tên dường tợ thoi.
Gió
mát trăng thanh sanh kế đủ
Non
xanh nước biếc nếp sống đầy.
Sáng
sớm giương buồm băng nước thẳm
Chiều
nâng sáo thổi cợt khói mây.
Tạ
Tam nay đã không tin tức
Để
chiếc thuyền trơ bãi cát này.
Giảng:
Bài
thơ này diễn tả cái thú giang hồ của những người có tinh
thần hào phóng, tâm hồn thích tự do rày đây mai đó.
“Tâm
xưa hồ hải chửa từng khuây.” Hồ hải chỉ cho ngũ hồ
tứ hải. Lúc nhỏ đã có tâm hào phóng, nay tuy già mà vẫn
còn thích đi đây đi kia chớ không chịu ở một nơi. “Ngày
tháng như tên dường tợ thoi.” Ngày tháng trôi qua nhanh như
tên bắn như thoi đưa, không chờ đợi ai cả. Hai câu này
ý nói tâm hồn của Thượng Sĩ lúc nào cũng muốn dạo chơi
hồ hải, nhưng bây giờ nhìn lại thì ngày tháng trôi qua nhanh
và tuổi đã già. Tuy nhiên:
“Gió
mát trăng thanh sanh kế đủ, non xanh nước biếc nếp sống
đầy.” Sanh kế của Thượng Sĩ là gió mát trăng thanh. Có
gió mát trăng thanh là đủ sống rồi, không cần phải ăn
ngon mặc đẹp. Nếp sống của Ngài là phải gần gũi thiên
nhiên, cho nên non xanh nước biếc làm cho đời sống của Thượng
Sĩ thêm đầy đủ. Đó là phong độ sống của Ngài. Chúng
ta bây giờ ở Thiền viện Trúc Lâm có đủ những điều kiện
về sanh kế như Ngài nói chưa? Ở đây cũng có rừng thông
xanh mướt, gió thổi vi vu, hồ nước Tuyền Lâm trong vắt,
mỗi đêm trăng sáng soi bóng xuống hồ... Chúng ta có đủ
cả, có thể nói là dư thừa. Vậy có ai là người có tâm
hồn giang hồ muốn tìm non xanh nước biếc gió mát trăng thanh
nữa không? Hay đã an lòng ở đây vừa tu vừa thưởng thức
cảnh đẹp?
“Sáng
sớm giương buồm băng nước thẳm, chiều nâng sáo thổi cợt
khói mây.” Sáng thả buồm rong chơi, chiều nâng sáo thổi
cợt đùa với mây gió. Thượng Sĩ là một cư sĩ thì sống
như thế được. Chúng ta là Thiền sinh thì phải sửa hai câu
này lại cho phù hợp: “Sáng sớm vác cuốc ra làm cỏ, chiều
ôm tọa cụ đến Thiền đường.”
“Tạ
Tam nay đã không tin tức, để chiếc thuyền trơ bãi cát này.”
Tạ Tam tức là Tạ Tam Lang, tên cũ của Thiền sư Huyền Sa
Sư Bị, lúc còn cư sĩ ông là một người thả thuyền câu
dưới sông, vui thú giang hồ nay đầu ghềnh mai cuối bãi,
lúc ba mươi tuổi ông đem thuyền lên bãi để rồi bỏ đi
tu, sau trở thành một Thiền sư nổi tiếng. Do đó nên Thượng
Sĩ so sánh Tạ Tam trước là một chú chèo thuyền câu cá,
bây giờ không còn nghe tin tức, mà chỉ thấy chiếc thuyền
nằm trơ trên bãi cát cạn. Ý muốn nói tuy tâm hồn hồ hải,
là tâm hồn của những người thích phóng khoáng tự do, nhưng
không phải chỉ thỏa mãn cái tâm yêu thích non xanh nước
biếc, gió mát trăng thanh của thi sĩ, hoặc của kẻ thường
tình hướng về cõi hồng trần để lụy thân, mà là tinh
thần tự do phóng khoáng của người hướng về với đạo.
Vì người ưa thích thiên nhiên tâm hồn phóng khoáng dễ phù
hợp với Thiền, nên Thượng Sĩ nói “Tạ Tam nay đã không
tin tức, để chiếc thuyền trơ bãi cát này”. Ai là chàng
Tạ Tam Lang bỏ thuyền trên bãi cát đi tu? Ai có tâm hồn hồ
hải thì hãy bắt chước Tạ Tam Lang!
Dịch:
VẬT
KHÔNG TÙY NGƯỜI
Ở
xứ lõa thân cởi áo đi
Phải
đâu bỏ lễ, chỉ tùy nghi.
Trâm
vàng mụ sói treo làm móc
Gương
báu lão mù lấy đậy ly.
Trâu
chẳng
thèm nghe đàn ngọc tháo
Hoa
trang anh lạc, voi biết gì.
Hỡi
ôi! Một khúc đàn huyền diệu
Nên
lấy vàng ròng đúc Tử Kỳ.
Giảng:
Đồ
vật nếu người dùng đúng nhu cầu thì vật đó có ích, ngược
lại tuy có vật quí trong tay mà dùng không đúng chỗ thì nó
trở thành vô nghĩa, nên vật không tùy người mà chính nhu
cầu người sử dụng vật. Vật trở thành quí là do người
cần dùng nó, rồi cho nó là quí, chớ nó không quí đối với
tất cả.
“Ở
xứ lõa thân cởi áo đi, phải đâu bỏ lễ chỉ tùy nghi.”
Nếu chúng ta đến nước lõa thể thì họ sao mình vậy, họ
ở trần thì chúng ta cũng phải cởi áo, như vậy mới hợp
với họ. Cởi áo để hòa hợp với họ chớ không phải bỏ
lễ phép, mà chỉ tùy nghi, sống ở đâu thì phải thích hợp
với phong tục tập quán ở đó. Cũng vậy, người tu muốn
làm lợi ích cho người thì phải biết thích ứng với thời
cơ. Chữ KINH TRONG NHÀ PHậT HÀM CHứA NGHĨA KHế LÝ VÀ khế
cơ. Người tu muốn đem giáo lý của Phật dạy cho người
khác tu thì phải có đủ hai điều kiện: một là đúng với
chân lý, hai là hợp với căn cơ người nghe. Dù lời nói của
chúng ta phù hợp với chân lý, mà không hợp với căn cơ người
nghe họ không lãnh hội được, thì lời nói của chúng ta
trở thành vô ích. Ngược lại hợp với căn cơ mà sai chân
lý thì cũng thành vô nghĩa. Ví dụ người thích tu bố thí
để cầu phước mà chúng ta đem lý Thiền nói với họ, họ
chẳng hiểu gì, hoặc người căn cơ thích hợp với pháp tu
Thiền mà chúng ta dạy họ pháp tu của ngoại đạo thì sai
với chân lý của Phật dạy. Thế nên chúng ta muốn làm lợi
ích cho người thì người đang ở trong hoàn cảnh nào, chúng
ta phải tùy theo hoàn cảnh nấy của họ mà giúp đỡ. Có
khi việc làm thấy như trái với nghi quỹ của người tu, nhưng
vì người nên chúng ta phải làm để người được lợi ích.
Đó là khế lý và khế cơ.
“Trâm
vàng mụ sói treo làm móc, gương báu lão mù lấy đậy ly.”
Người sói đầu có cây trâm vàng họ không biết làm gì,
nên gắn trên tường làm cái móc treo đồ. Với Ni cô thì
trâm vàng cũng treo làm móc luôn! Có tóc đâu mà cài? Và, cái
gương dù có quí báu, nhưng đối với người mù, gương xài
không được. Vì mù có thấy đâu mà soi gương, nên dùng cái
gương đậy ly. Ý Thượng Sĩ muốn nói, dù vật quí nhưng
với người không cần thì nó trở thành vô dụng.
“Trâu
chẳng thèm nghe đàn ngọc tháo, hoa trang anh lạc voi biết gì.”
Đối với trâu dù chúng ta có đem đàn bằng ngọc khảy lên
tiếng thanh tao bên tai nó cũng chẳng biết gì. Hoặc đem đồ
trang sức bằng anh lạc máng vô cổ con voi nó cũng không biết
quí. Những vật quí mà không thích hợp với con vật thì cũng
trở thành vô dụng. Ý Thượng Sĩ nói, phàm làm việc gì không
hợp thời, không thích nghi với hoàn cảnh, không đúng với
căn cơ của người thì dù có cố gắng làm cho nó đẹp cũng
trở thành vô nghĩa, và không có kết quả.
“Hỡi
ôi! Một khúc đàn huyền diệu, nên lấy vàng ròng đúc Tử
Kỳ.” Khúc đàn hay của Bá Nha nếu không có người tri kỷ
như Tử Kỳ nghe thì có ai biết thưởng thức? Cho nên có khúc
đàn hay thì phải có người tri kỷ biết nghe đàn thì khúc
đàn mới có giá trị. Vì có giá trị nên quí. Và “nên lấy
vàng ròng đúc Tử Kỳ”. Phải đúc tượng Tử Kỳ bằng
vàng mới xứng đáng, vì là người tri kỷ biết được khúc
đàn hay. Đó là Thượng Sĩ lấy việc thế gian để nói việc
trong đạo. Pháp của Phật rất là cao siêu, pháp tu Thiền
rất là đơn giản nhưng giúp người được giải thoát. Song,
không phải ai nghe cũng hiểu cũng thấm nhuần. Chỉ có người
đủ duyên nghe, mới biết được những điều Phật dạy là
cao siêu mầu nhiệm, đưa con người đến chỗ an vui giải
thoát. Người nhận được lý sâu xa của Thiền thì người
đó mới quí. Thượng Sĩ bảo Tử Kỳ nghe được khúc đàn
hay của Bá Nha, nếu Tử Kỳ chết nên lấy vàng đúc tượng
để thờ. Như vậy đứng trước người hiểu được Phật
pháp, nhận được lý Thiền, chúng ta nên trân trọng họ.
Đó là nói về ý nghĩa vật không tùy người.
Dịch:
VIẾNG
ĐẠI SƯ TĂNG ĐIỀN
Chẳng
cần cửa tía, chẳng cần rừng
Rốt
cuộc chỗ nào chẳng an tâm.
Thế
nhân trọn thấy ngàn non sáng
Mấy
kẻ lắng nghe tiếng vượn trầm.
Giảng:
Chữ
viếng khác chữ thăm, người Nam thì dùng chữ thăm, còn người
Bắc thì dùng chữ viếng. Nếu là người bình thường thì
người Bắc nói đi thăm, nếu là người lớn hơn hay quí hơn
thì nói đi viếng. Ví dụ như nói đi viếng đền Hùng chớ
không nói đi thăm.
“Chẳng
cần cửa tía chẳng cần rừng.” Cửa tía là chỉ cho những
nơi thành thị giàu sang, “chẳng cần rừng” là chẳng cần
vào nơi rừng rậm xa vắng. Vậy chỗ thành thị ồn náo và
nơi rừng vắng đều không cần. “Rốt cuộc chỗ nào chẳng
an tâm.” Nếu tâm chúng ta không động không rong ruổi theo
ngoại cảnh thì ở giữa thành thị hay trong rừng vắng đều
như nhau. Nếu tâm còn dính mắc với cảnh thì ở thành thị
thua ở rừng. Vậy Tăng Ni và Phật tử hiện có mặt cần
cái nào? Chẳng cần cửa tía chẳng cần rừng hay chẳng cần
cửa tía mà rất cần rừng? Vì ở ngoài cửa tía lộn xộn
quá bất an khó tu, ở rừng vắng vẻ dễ tu hơn. Người tu
nếu tâm nhất như thì không cần chọn cảnh tịnh hay cảnh
động, nếu chưa nhất như thì phải tránh chỗ động tìm
chỗ tịnh.
“Thế
nhân trọn thấy ngàn non sáng, mấy kẻ lắng nghe tiếng vượn
trầm.” Người đời chỉ thích nhìn cảnh trời mây non nước
đẹp đẽ, mà ít ai chịu lắng nghe tiếng vượn trầm. Ý
Ngài muốn nói người đời thích chạy theo ngoại cảnh mà
ít chịu quay về lắng nghe tiếng dấy động của nội tâm.
Tiếng con vượn là chỉ cho tâm viên ý mã của mình, ít ai
để ý nhìn lại nội tâm mình, nghe tiếng đang réo gọi trong
tầng sâu thẳm nhất, mà chỉ hướng ra ngoài khen cái này,
chê cái nọ v.v... Chỉ có những ai ngồi lặng yên gạt bỏ
sáu trần, mới nghe được tiếng con vượn của mình kêu,
nghe nó nói đủ thứ, nào chuyện của mình của người, chuyện
năm trước năm sau. Chuyện không ra gì nó cứ kể hoài không
chịu dừng.
Tóm
lại, Thượng Sĩ muốn nói rằng: Nếu người tu tâm thuần
thục rồi thì không cần tránh cảnh, ở chốn phồn hoa hay
nơi rừng vắng đều là chỗ an tâm. Đa số người thế tục
thì chỉ hướng ra ngoài chạy theo trần cảnh, mà không chịu
quay về nhìn kỹ mình để lắng nghe những dấy động của
nội tâm mình. Chỉ bốn câu thơ mà Thượng Sĩ diễn tả được
người tu thoát tục không vướng mắc và người thế tục
không tu nên luôn luôn bị vướng mắc với sáu trần.
|