Hỏi:
Phương
pháp “phản văn văn Tự tánh” có khác gì với Tổ sư thiền
không?
Đáp:
Ngài
Hư Vân nói “phản văn văn Tự tánh chính là tham Tổ sư thiền”.
Vì có âm thanh mới đặt tên nghe (văn), phản văn là
lìa âm thanh, vậy còn đặt tên nghe cho ai nữa? Người ta hiểu
lầm cho là không nghe âm thanh ở ngoài, nghe trở về Tự tánh.
Nếu dùng cái nghe thì không nghe động cũng nghe tịnh, không
nghe thiện cũng nghe ác, không nghe khen cũng nghe chê… tất
cả vẫn còn tương đối.
Bởi
vì, còn dùng cái nghe thì nằm trong tương đối, nên Bát Nhã
Tâm Kinh quét sạch là “vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý”.
Dùng chữ vô, vô là không có, không phải là không có, không
có thật; tức là đừng nghe, xem nữa… Vì không có thật,
không phải chấp giả; giả cũng không thật giả, chứ đừng
chấp cái giả là thật. Chấp chơn là thật thì bệnh dễ
trị, chấp giả là thật thì bệnh khó trị. Nên kinh Lăng
Nghiêm nói “chơn với vọng là hai thứ vọng”, vì đối
với vọng mà lập chơn thì chơn cũng là vọng.
Tôi
dịch kinh Lăng Nghiêm là phản văn bản tánh văn, bản tánh
văn là Tự tánh. Tự tánh là bất nhị, không có năng nghe
và sở nghe. Tự tánh không phải là sở nghe, nếu có năng
nghe để nghe Tự tánh là nhị. Phản văn là lìa âm thanh thì
cái nghe mất, âm thanh động và tịnh đều hết, mới đúng
nghĩa phản văn; tức là hiện bản tánh nghe, bản tánh này
là Tự tánh.
Tánh
thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc, tánh biết
đều là cái dụng trong Tâm linh không chết mất, tồn tại
vĩnh viễn. Bản tánh văn hiện ra thì Phật tánh làm chủ,
tất cả đều không dính dáng, nên được tự do tự tại.
Cuộc
sống hàng ngày là do bộ óc làm chủ, cái nào thích thì mình
siêng năng; cái nào không thích thì mình làm biếng, việc tu
hành cũng vậy. Vì tiền mà bỏ tu hành là việc đó thông
thường, vì tu hành mà bỏ tiền thì việc này rất ít có.
Như Bàn Uẩn vì tu hành mà bỏ tiền, nên cả gia đình đều
được kiến tánh.
Hỏi:
Con
muốn đến chùa để nghe Thầy giảng, nhưng chồng của con
muốn con ở nhà giữ cháu. Vậy con phải làm thế nào?
Đáp:
Đến
chùa là để tu học giải thoát, ở nhà giữ cháu có giải
thoát không? Tự mình suy nghĩ coi sao! Như bây giờ giữ cháu
có được một số tiền cũng không bằng tu, hay vì tình thương
mà giữ cháu. Mình soi kiến thấy mặt mũi của mình là chỉ
thấy ngoài da. Sự thật, thể xác này chỉ là chiếc xe chở
sinh mạng, không phải chủ nhân chở sinh mạng; sinh mạng là
Tâm linh.
Hỏi:
Mình
đi nghe giảng là tốt, nhưng chồng con nói là bỏ bổn phận.
Vậy phải làm thế nào?
Đáp:
Bổn
phận thì có phạm vi. Như tu sĩ làm Sa di có bổn phận làm
Sa di, Tỳ kheo có bổn phận Tỳ kheo, người tại gia làm chồng
có bổn phận làm chồng, làm vợ có bổn phận làm vợ, làm
cha mẹ có bổn phận làm cha mẹ, làm con cái có bổn phận
làm con cái.
Cháu
có cha mẹ phải không? Nếu vậy cháu sanh ra con là chắc, cứ
tiếp tục giữ hoài biết bao giờ hết được! Cha mẹ có
bổn phận với con, khi làm việc có thể gởi con ở nơi giữ
trẻ, lúc về nhận con về. Trong xã hội có chế độ như
vậy. Đi làm để kiếm tiền nuôi sống, nhưng mình không phải
bỏ nuôi sống. Một tuần lễ đi chùa có mấy tiếng đồng,
ngày chủ nhật thì cha mẹ của cháu đã rảnh rỗi. Tại sao
đổ trách nhiệm cho bà nội? Ông nội muốn thì ông nội giữ
cháu, bởi vì đã ngoài bổn phận.
Có
một bà ở Việt Nam ra lịnh cho con cháu, không ai dám cãi lại.
Khi qua Mỹ thì ngược lại, con cháu chỉ cho ăn ở. Nhưng bà
ấy tuy chưa đến tuổi, mà đăng ký trước vào nhà dưỡng
lão là muốn rời khỏi nhà con cháu, có nhiều người như
vậy. Như ở New york, một bà có con dâu, trước mặt bà tỏ
ra có hiếu, nhưng vắng bà thì con dâu không vừa ý. Khi bà
biết vậy, không thể ở chung được, phải ở nơi khác.
Hỏi:
Thế
nào là tham thiền?
Đáp:
Tham
thiền là dùng cái không biết để tu, chỉ cần không biết.
Ba
năm trước, tôi đi Canada có 10 Phật tử đi cùng, trong đó
có hai mẹ con, đứa con mới 3 tuổi cũng tham thiền, tham câu
“khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Đã tham mấy tháng.
Đến
thành phố lớn nhất của Canada là Toronto, vào Quán khoa học
có máy tính để coi hoạt động của bộ óc. Máy đó được
chia ra ba mươi mấy cấp, có cái bàn để cho tay đặt lên
thì đèn báo hiện. Những người tham thiền đề câu thoại
đầu và nhìn chỗ không biết, xem chỗ không biết là cái
gì, bộ óc hoạt động giảm bớt lại thì đèn xuống dần
rồi tắt luôn.
Bình
thường, tôi thuyết pháp là con nít 6, 7 tuổi mới tham thiền,
bà già 8, 9 chục tuổi cũng được tham thiền. Nhưng 3 tuổi
thì tôi không tin nổi, sẵn có cái máy thử coi; tôi ẵm nó
để trên đầu gối, lấy tay nó đặt trên máy thì đèn sáng
ở trên; tôi bảo nó tham thiền đi, đèn từ từ xuống rồi
tắt.
Mấy
người da trắng đứng một bên thấy vậy ngạc nhiên cho lạ
quá! Sao các người đều làm được, luôn cả thằng bé cũng
làm được? Tại sao chúng tôi làm không được? Tôi nói “phải
bớt suy nghĩ mới được”. Người ấy nói “tôi không suy
nghĩ, sao đèn không xuống?”
Họ
nói vậy, nhưng bộ óc không nghe lời, khó khống chế nên
không thể làm. Còn các Phật tử đều có tập tham thiền,
có người theo tôi tham thiền mười mấy năm rồi. 3 tuổi
cũng tham thiền, có máy đã chứng tỏ. Tại sao? Vì dùng cái
không biết, không biết sẵn, nên nó tham thiền được. Bé
còn dạy tham thiền cho các bé lớn hơn nó. Hỏi nó: sao không
dạy tham thiền cho bé bằng mày? Bé trả lời: mấy đứa đó
không biết.
Hỏi
“khi chưa có trời đất, ta là cái gì?” Cảm thấy không
biết; nhìn chỗ không biết, xem chỗ không biết đó là cái
gì? Vừa hỏi vừa nhìn, vừa nhìn vừa hỏi, nhìn với hỏi
một lượt. Nhìn đến biết được, gọi là kiến tánh. Mặc
dù, nhìn muốn biết, nhưng không cho suy nghĩ tìm hiểu để
biết, không cho giải thích để biết, cứ hỏi và nhìn hoài;
rất dễ, vì thằng bé 3 tuổi cũng làm được, mình là người
lớn sao không làm được? Giờ nào rảnh thì tham thiền, tham
cho đến được tự động, có khi quên tham nó cũng khởi lên.
Nếu
chỉ hỏi “ta là ai?” thì dễ có đáp án. Còn “khi chưa
có trời đất ta là cái gì?” thì không thể hiểu, phải
thật không hiểu mới được. Cần cái không biết và nhìn
chỗ không biết là cái gì? Muốn biết chỗ không biết là
cái gì, mà không biết nổi. Nếu một ngày kia thình lình biết
được là kiến tánh thành Phật, thì tất cả khổ đều chấm
dứt hết. Ngộ rồi biết khắp không gian thời gian, không
chỗ nào mà không biết, không lúc nào mà không biết.
Cái
biết của bộ óc thì ngủ mê không biết, chết giấc không
biết, chết rồi không biết; còn cái biết Phật tánh cùng
khắp thời gian thì ngủ mê cũng biết, chết giấc vẫn biết,
chết rồi cũng biết. Nếu chết rồi không biết thì có gián
đoạn, không phải cùng khắp thời gian. Biết khắp không gian
thì bao nhiêu tỷ chúng sanh nổi lên một niệm cũng biết,
nếu không biết thì còn thiếu sót, không phải cái biết của
Phật tánh.
Nhưng
bây giờ cái gì cũng không biết, tất cả không biết gom lại
một cái không biết; rồi nhìn chỗ không biết đó, xem chỗ
không biết đó là cái gì; không cho suy nghĩ, nếu suy nghĩ
là sai; chỉ giữ cái không biết, mà muốn biết chỗ không
biết.
Hỏi:
Vậy
tâm tánh mình cần sửa không?
Đáp:
Tham
thiền thì tâm tánh không cần sửa mà nó tự sửa, nếu không
tham thiền có muốn sửa cũng không được. Như người ta thích
xem hát, tham thiền một thời gian không thích xem hát; thích
đi nhà hàng ăn uống, tham thiền một thời gian không thích
đi nhà hàng ăn uống.
Hỏi:
Có
chuyện gì cần thiết để làm cho đúng không?
Đáp:
Không
có cần thiết hay không cần thiết, là tùy duyên, duyên đến
thì làm, duyên tan thì thôi, không để trong tâm. Tùy duyên
là không nghịch duyên, chứ không phải nên hay không nên. Nhưng
tùy duyên cũng có cái bất biến, bất biến là đường tu
của mình không bị ảnh hưởng. Nên mình cứ giữ nghi tình,
còn gặp các việc thì làm.
Hỏi:
Có
cần ngồi thiền không?
Đáp:
Tham
thiền khỏi cần ngồi, làm công việc đều tham thiền được,
không nhất định phải ngồi. Đông người cần có trật tự,
nên ở đây ngồi 40 phút đi 20 phút. Ở nhà tham thiền đi
khi nào mỏi lại ngồi, ngồi tê chân lại đi. Không phải
cần ngồi hay cần đi, việc ấy là để điều thân vì sức
khỏe của mình.
Pháp
môn khác chú trọng ngồi, tham thiền không chú trọng ngồi;
mới tập tham thiền lúc làm việc thì ngưng tham, tập trong
khi không làm việc; sau này tham thiền quen thuộc, khi làm việc
tự động khởi câu thoại và nghi tình.
Tham
thiền khỏi cần gắng sức, khỏi cần tập trung; cứ hỏi
và nhìn, nhìn chỗ không biết. Như hỏi “khi chưa có trời
đất ta là cái gì?” Cảm thấy không biết; nhìn chỗ không
biết, muốn xem chỗ không biết là cái gì, muốn biết chỗ
không biết. Vì không biết nên không có chỗ để nhìn, thành
ra mới khó. Nhưng khó cũng phải nhìn, dùng tâm để nhìn.
Không có chỗ thì nói nhìn không được, nhưng nhìn không được
là được rồi.
Hỏi:
Tại
sao có người chết trẻ và có người chết già?
Đáp:
Tùy
theo nghiệp của mỗi người, hết duyên chết sớm, còn duyên
ở lại chết sau. Các Tòng Lâm Trung Quốc của mười phương,
trụ trì do chính quyền địa phương mời. Như Tỉnh trưởng
có quyền mời trụ trì, có quyền thôi trụ trì. Biết vị
nào kiến tánh mời làm trụ trì, vị nào nhậm chức trụ
trì, Tỉnh trưởng không can thiệp việc Tòng Lâm.
Vị
trụ trì kiến tánh có nhân duyên gì không thích hợp với
Tỉnh trưởng, nên Tỉnh trưởng kiếm chuyện làm khó dễ.
Vị trụ trì biết mình ở cõi này được 6 năm, muốn tránh
khỏi ông Tỉnh trưởng, rồi gửi thư cho đệ tử là Quách
Công Thổ: “Tôi muốn đầu thai vào nhà ông, làm con ông được
không?” Ông ấy nhận thư và bằng lòng, chưa nói cho vợ
biết; nửa đêm hôm đó, người vợ nằm mơ lớn tiếng; người
chồng hỏi: làm gì la om sòm vậy?
Vợ
nói: Hồi nảy, thấy ông Tăng vô trong phòng, tôi nói chỗ
này vô không được.
Ông
chồng cười, lấy thư cho vợ coi; sau này sanh ra đứa con được
6 tuổi rồi chết. Đứa bé lúc lên 3 tuổi, có sư Trạch đến
thăm hỏi: mình chia tay bao lâu rồi?
Bé
trả lời: 4 năm rồi.
Người
kiến tánh được sanh tử tự do, còn người chưa kiến tánh
phải theo nghiệp lực mà đầu thai. Ngài Bá Trượng nói “người
không tu phải theo nghiệp, trước khi chết thích nhà lầu,
cái này cái kia… thích nhà lầu nhiều hơn thì sau khi chết
thấy nhà lầu đẹp, đi vô đi ra làm heo chó”.
Hỏi:
Tại
sao người không có tội lại chết sớm?
Đáp:
Thiền
sư Thủ Đoan được 48 tuổi mà chết, Thiền sư Hư Vân được
120 tuổi mà chết. Lúc ngộ rồi thấy không có sanh tử, tại
bây giờ mình chấp thật thân này thì cho sanh tử có thật.
Chết sớm chết trể đâu phải do thiện ác là nghiệp của
mỗi người.
Hỏi:
Mấy
người tự tử là sao?
Đáp:
Tự
tử theo giới luật nhà Phật cũng là tội sát sanh, nếu có
thọ giới.
Hỏi:
Tham
thiền chưa kiến tánh cũng theo nghiệp đi đầu thai phải không?
Đáp:
Phải
rồi! Gieo nhân thì được quả, tham thiền là gieo chánh nhân
sẽ được chánh quả. Tham thiền làm cho tâm lực mạnh. Như
mình thiếu nợ, chủ nợ có thế lực mạnh phải trả trước,
chủ nợ có thế lực yếu thì trả sau. Nhân quả cũng vậy,
tâm lực mạnh tạo nhân nên quả đến trước, dù trước
có làm ác, nhưng lúc đó tâm lực yếu nên kéo lại sau.
Bây
giờ, mình làm chánh nhân là tham thiền thì kiếp sau cũng gặp
duyên, tiếp tục tham đến kiến tánh.
Hỏi:
Thế
nào là giữ chánh niệm?
Đáp:
Pháp
Bảo Đàn nói “hữu niệm là niệm tà, vô niệm là niệm
chánh; tà chánh đều quét sạch, thanh tịnh đến cùng tột”.
Nếu bỏ tà niệm mà còn giữ chánh niệm cũng chưa được.
Tham thiền giữ được nghi tình là giữ được chánh niệm.
Vì nghĩa thoại đầu là chưa có khởi niệm lên, tức là vô
niệm. Nếu đã khởi niệm là thoại vỉ, chứ không phải
thoại đầu.
Hỏi:
Tại
sao Mật giáo dễ truyền qua Tây phương, Thiền tông khó truyền
qua Tây phương?
Đáp:
Vì
Mật giáo dễ có thần thông, do người ham thần thông. Nhưng
bây giờ Mật giáo giả nhiều hơn Mật giáo thật. Mật giáo
ở Việt Nam là giả, nhưng cũng có thần thông.
Mật
giáo là bí mật truyền thụ, tức một người truyền cho một
người, không cho người khác biết. Họ tập trung tinh thần
gọi là tam nghiệp gia trì. Tam nghiệp là thân, khẩu, ý. Thân
bắt ấn, khẩu niệm chú, ý quán tưởng, 3 thứ một lượt
thì không có vọng tưởng để suy nghĩ việc khác, nên mau
có thần thông. Người Tây Tạng coi thần thông không ra gì,
vì người nào cũng có; còn người Trung Quốc, Việt Nam cho
có thần thông là kiến tánh.
Thái
Hư Đại Sư cho 3 người đệ tử qua Tây Tạng học Mật giáo,
được mấy năm có thần thông về Thượng Hải; có thần
thông nên mọi người đến cúng dường nhiều tiền, do vì
có thần thông nên 3 người đều bị hại chết. Tại không
phá ngã chấp, dùng tiền để thỏa mãn dục vọng của mình,
phá giới chết hết.
Thầy
bên Thiền tông phát giác đệ tử có thần thông thì đuổi
liền. Nếu Thiền sư có hiện thần thông, sau đó liền tịch;
vì sợ người ta mê chấp thần thông, mà quên chánh pháp.
Hỏi:
Tại
sao có Thiền tông rồi mà lại có Mật tông?
Đáp:
Mật
tông ban đầu là ngoại đạo, do ngài Long Thọ sửa Mật tông
lại thành chánh pháp, sau khi Phật nhập Niết bàn mấy trăm
năm. Ngài Long Thọ là Tổ thứ 14 của Thiền tông, sửa pháp
ngoại đạo thành chánh pháp, ngài là Sơ tổ của 6 phái.
Hỏi:
Chỉ
quán, Pháp giới quán, Duy thức quán, đại khái như thế nào?
Đáp:
Chỉ
quán là Thiền quán của tông Thiên thai, tông này căn cứ kinh
Pháp Hoa, nên cũng gọi là Pháp Hoa tông. Cách tu của Pháp Hoa
tông có chỉ quán thiền, trong đó có tam chỉ tam quán. Tam
chỉ là: hệ duyên chỉ, tùy duyên chỉ, thể chơn chỉ; tam
quán là: giả quán, không quán, trung quán. Có 6 thiền quán
gọi là chỉ quán thiền (chỉ là ngưng suy nghĩ).
Pháp
giới quán thiền thuộc tông Hiền Thủ là căn cứ kinh Hoa
Nghiêm, cũng gọi là Hoa Nghiêm tông, có 4 pháp giới: Lý pháp
giới, Sự pháp giới, Lý sự vô ngại pháp giới, Sự sự
vô ngại pháp giới. Cách tu là pháp giới quán.
Tông
Duy thức là tu Duy thức quán, dựa vào luận: Thành Duy Thức
luận, Duy Thức Nhị Thập Tụng, Duy Thức Tam Tam Thập Tụng.
Như Tam Luận tông dựa vào luận, kinh Lăng Già là Duy thức,
mục đích phá chấp của ngoại đạo cũng có dựa thì đâu
có khác! Tất cả Phật pháp, lời nói có khác nhưng bản thể
không khác, bản thể chỉ là một Tâm linh.
Hỏi:
Sao
nói “thường, lạc, ngã, tịnh” là điên đảo của Nhị
thừa?
Đáp:
Vì
họ còn chấp pháp, có chấp gọi là điên đảo; cho là thật
hay giả đều là điên đảo; tức là điên đảo của Nhị
thừa chấp xuất thế gian, còn tập khí xuất thế gian. Điên
đảo của phàm phu là tập khí thế gian, điên đảo của bậc
thánh cũng là ngã chấp vi tế. Như phá được thân này là
không phải ta, thân này do ngũ uẩn, nhưng chấp Niết bàn là
ta chứng cũng là ngã; tức là bỏ ngũ uẩn ngã, rồi ôm Niết
bàn ngã. Cho nên vẫn là điên đảo.
Hỏi:
Thế
nào là bình thường tâm?
Đáp:
Bình
thường tâm là đã kiến tánh, chứ không phải cuộc sống
hàng ngày của mình. Đời sống hàng ngày của mình là điên
đảo. Bình thường tâm không dính mắc cái gì giống như hư
không, nếu tâm giống như hư không mới được bình thường.
Vì bom nguyên tử nổ làm tiêu tan hết, nhưng hư không vẫn
bình thường. Tâm của người chưa kiến tánh không được
bình thường.
Hỏi:
Thế
nào là Chánh pháp nhãn tạng?
Đáp:
Chánh
pháp nhãn tạng là Tâm linh của mọi chúng sanh, tức là Tự
tánh không có gì dính mắc nên gọi là chánh pháp. Như Bồ
đề, Niết bàn, Như lai, giải thoát, vô sanh, vô thỉ, vô trụ,
bình thường tâm, chủng trí… nhưng ý không khác nghĩa. Hiện
lượng có khác, cũng nói hiện ra số lượng. Tâm linh (bổn
tâm) không có số lượng, nên số lượng khác với bổn tâm,
mặc dù số lượng cao nhất cũng là khác.
Hỏi:
Người
đã chứng ngộ hiện được khắp không gian thời gian, cái
thật tướng là hiện lượng, cái dụng là hiện lượng kiến.
Xin Thầy khai thị?
Đáp:
Đây
là đối với tỷ lượng, phi lượng rồi nói hiện lượng.
cũng như đối với tương đối mà nói tuyệt đối thì có
hơi khác. Bát Nhã Tâm Kinh nói “vô trí diệc vô đắc”,
đã không có trí, nếu có hiện lượng trí không phải là
trí.
Hỏi:
Thế
nào là “đương thể tức không”?
Đáp:
Như
cái tách này có cái thể. Giáo môn nói “do nhân duyên hòa
hợp thành cái tách”. Nếu phân tích nhân duyên ra, vốn là
không có cái tách. Khi mình đang thấy cái tách vốn là không,
không phải tiêu diệt cái tách rồi thành không. Theo lý của
Nhị thừa phải diệt cái tách rồi thành không.
Hỏi:
Con
có vọng tưởng nhiều, nên chú ý tham thoại đầu để đuổi
vọng tưởng. Vậy có được không?
Đáp:
Không
cần đuổi vọng tưởng, không cần biết vọng tưởng; vì
nghi tình là không biết, nếu có vọng tưởng nổi lên cũng
mặc kệ; chỉ cần giữ nghi tình thì vọng tưởng tự tiêu
diệt. Do biết vọng nên vọng mới có, không biết vọng thì
vọng làm sao có!
Hỏi:
Lập
đi lập lại câu thoại đầu phải không?
Đáp:
Không
phải lập đi lập lại, mà hỏi liên tiếp và nhìn liên tiếp.
Như hỏi “khi chưa có trời đất, ta là cái gì?” Không biết.
Rồi nhìn chỗ không biết, xem chỗ không biết là cái gì;
chỗ không biết là thoại đầu, nếu phá được thoại đầu
(vô thỉ vô minh) thì tất cả đều biết; không còn một cái
gì mà không biết, cho nên cắt đứt gốc nghi. Tại không biết
nên có nghi, tất cả đều biết thì không có nghi.
Đề
câu thoại đầu, rồi nhìn chỗ không biết, xem chỗ không
biết là cái gì; nhưng không cho tìm hiểu, suy nghĩ, giải thích;
tức là muốn ngưng cái biết của bộ óc. Đến chừng kiến
tánh rồi biết, đó là ngộ chứ không phải cái biết của
bộ óc. Ngộ triệt để thì cái gì cũng biết, nếu thiếu
sót một cái gì chưa biết nên không phải triệt ngộ.
Hỏi:
Chủ
yếu của kinh Địa Tạng là thế nào?
Đáp:
Kinh
Địa Tạng là kinh bất liễu nghĩa, tức là có tư tưởng
chấp thật; còn kinh liễu nghĩa phá chấp thật. Kinh Di Đà,
Dược Sư… đều là bất liễu nghĩa.
Hỏi:
Bồ
tát là những vị đã chứng ngộ, rồi trở lại Ta Bà để
độ chúng sanh phải không?
Đáp:
Bồ
tát là tên gọi, phàm phu có thọ giới Bồ tát cũng gọi là
Bồ tát; nhưng chỉ học hạnh Bồ tát, do học hạnh Bồ tát
mà dần dần tiến lên quả vị Bồ tát. Quả Bồ tát bắt
đầu từ sơ quả, nhị quả, tam quả… có 10 cấp, tới Thập
địa Bồ tát, đến Đẳng giác là Bồ tát, Diệu giác mới
là quả Phật. Tất cả pháp môn gặp nhau ở Đẳng giác, từ
Đẳng giác tiến lên một bước nữa là quả Phật.
Hỏi:
Thời
khóa tụng thường có kinh bất liễu nghĩa, rồi sau có bài
Bát nhã. Xin Thầy giảng cho?
Đáp:
Sau
khi tụng bất liễu nghĩa xong, rồi tụng Bát nhã là để quét
sạch bất liễu nghĩa; tức luôn luôn diễn bất liễu nghĩa
đi tới liễu nghĩa, không phải đứng lại một chỗ. Cho nên,
mỗi thời kinh sau cùng đều có tụng bài Bát nhã.
Kinh
Bát nhã quét sạch tất cả hiểu biết: “vô ngũ uẩn, vô
lục căn, vô lục trần, vô lục thức, vô tứ diệu đế,
vô thập nhị nhân duyên, vô trí cũng vô đắc, cho đến xa
lìa điên đảo cứu cánh Niết bàn”. Không phải chấp thật
của ngoại đạo là thật vĩnh viễn. Vì vậy, mỗi lần tụng,
cuối cùng đều có phá.
Hỏi:
Tất
cả Tôn giáo đều có thiền, thiền của Phật giáo khác với
thiền của ngoại đạo như thế nào?
Đáp:
Ngoại
đạo đều có thiền, như Thiên chúa có tu viện; nhưng người
tu ở trong đó, không cho đi ra ngoài; họ cũng ngồi thiền
nhưng không bằng thiền Phật giáo. Phật giáo có điều thân
là ngồi và đi, từ Phật Thích Ca đến bây giờ.
Những
người ngồi mà không đi lâu ngày thành bệnh. Ban đầu có
bệnh, ngồi một thời gian hết bệnh; đến chừng ngồi lâu
thành bệnh thì không hết bệnh, mà trị không được. Đến
bác sĩ khám, không phát hiện ra bệnh. Theo tôi biết ở Việt
Nam, có những bệnh như vậy, đi Nhật đi Mỹ để trị. Nhưng
rồi trị không được, vì bác sĩ khám không thấy bệnh, tại
bệnh là do tâm sanh.
Những
người có bệnh là khổ công tu, phần nhiều ở phái Khất
sĩ. Một mình tu trong núi rừng có các kết quả như: ói máu,
phát điên, phá giới. Như có sư ở núi Tô Châu bị ói máu,
nhưng người ta bị ói máu thường bị chết; còn sư ấy bị
ói máu mà không chết. Sư tu trên núi có thần thông, người
ta ở Hà Tiên đem lương thực cúng dường thì sư biết trước.
Sư ấy mấy lần muốn gặp tôi nhưng không được, có lẽ
tôi với sư không có nhân duyên.
Sư
Ngọc được một thầy dạy tham thoại đầu, thời gian bị
ói máu, rồi đến thầy ấy giải quyết không được. Sau
này nghe tôi hoằng thiền, sư mới tìm đến tôi; tôi nói “tham
thiền phải cho đúng, có ngồi có đi”, qua một thời gian
hết bị ói máu.
Có
vị Khất sĩ tu trong rừng không muốn gặp ai, đến chỗ có
chim kêu tìm trái cây ăn để sống; nhưng thiếu muối, rồi
đốn củi để đổi; bằng cách bó củi để ngoài đường
và viết “ai lấy củi để lại một gói muối”, đêm sau
ra lấy. Qua mấy năm, không còn sư ấy nữa.
Vì
tụng chú, niệm Phật hay quán một cái gì, để nhiếp tâm
đè nén vọng tưởng. Nhưng chỉ đè nén mà không phá ngã
chấp, theo vật lý đè mạnh chừng nào thì phản lực mạnh
chừng nấy. Như đánh banh vào tường mạnh chừng nào thì
dội lại mạnh chừng nấy. Đè nén đến mức cao thường
có thần thông, nên tham sân si nổi lên; nhất là tâm tham nổi
lên không thể kiềm chế được, vì sức nó quá mạnh. Tu
mức thấp có thể đè nén được, tu đến mức cao thì đè
nén không nổi. Do đó có 3 kết quả: ói máu, phát điên, phá
giới. Người ta nói là tẩu hỏa nhập ma.
Hỏi:
Có
một vị tu giai đoạn đầu giống như cây khô. Xin Thầy khai
thị?
Đáp:
Công
án này muốn cho người ta biết là không có lý, mà lại sanh
ra nghĩa lý thuộc sản phẩm của bộ óc là không phải kiến
tánh. Ban đầu ông Tăng đó giải ngộ, ngộ được cái lý,
không phải thật chứng. Bà già sai con gái ôm chặt sư mà
nói “nói đi! Nói đi!”
Sư
tỏ tâm trạng nói: Cây khô dựa đá lạnh, cuối đông chẳng
hơi ấm. (khô mộc ỷ hàn nham, tam đông vô noãn khí).
Nghĩa
là cuối mùa đông trời rất lạnh, khiến cho cây, đá đều
lạnh; tức là cảm tình của sư không còn chút nào, dù con
gái ôm nhưng sư thấy không rung động. Tâm trạng đó thì
người thường rất khen ngợi, bà già đã kiến tánh biết
chưa kiến tánh rồi đuổi sư đi và đốt cái am.
Hỏi:
45
phút ngồi thiền, sau 15 phút điều thân là thế nào?
Đáp:
15
phút điều thân là thiền của Nhật Bản, đúng ra ngồi bao
lâu thì đi bao lâu, ngồi nửa tiếng thì đi nửa tiếng. Tôi
đến trung tâm thiền của Thái Lan là nguyên thủy Phật giáo,
họ ngồi bao lâu rồi đi bao lâu; tức là hình thức từ Phật
Thích Ca đến bây giờ họ không sửa đổi. Ở Trung Quốc
cũng vậy, thời xưa không có đồng hồ thì đốt cây nhang
để ngồi, hết cây nhang rồi đốt cây nhang khác để đi.
Thiền
của Nhật Bản theo tánh con người ham ngồi hơn đi, thành
ra họ chìu theo người ta là ngồi 45 phút đi 15 phút. Ban đầu
ở Việt Nam, tôi sửa lại là ngồi 40 phút đi 20 phút; vì
tánh người ta ham ngồi hơn đi. Sau này, người ta đã biết
được pháp môn này, tin được tự tâm; rồi sửa lại là
đi 30 phút đi 30 phút. Nhưng ở chỗ này vẫn còn ngồi 40 phút
đi 20 phút, vì đây là xã hội Hoa Kỳ.
Hỏi:
Sao
người chết có tuần thất thứ nhất cho đến tuần thất
thứ bảy?
Đáp:
Đó
là do thân trung ấm mới có, thường thường người chết
đi đầu thai liền; giờ chết và giờ sanh cùng một giây phút
đó.
Cho
nên, người Tây Tạng đi tìm Phật Sống đã chết, không biết
sinh ở đâu? Căn cứ vào ngày giờ chết của Phật Sống trước,
nên đi tìm con nít sanh ra đúng vào ngày giờ đó. Mấy năm
mới tìm được 5, 6 đứa bé, không biết bé nào trong số
đó là Phật Sống đầu thai? Vì vậy, đem các đồ của Phật
Sống trước để lộn chung với các đồ khác, rồi cho các
bé lấy ra. Bé nào lấy đồ ra nhiều nhất thì bé đó là
Phật Sống đầu thai.
Việc
này giống như hên xui, nếu bé nào được coi là Phật Sống
đầu thai thì cả gia đình của bé được vinh hoa phú quý.
Những
người ở trong Thiền tông kiến tánh, được sanh tử tự
do; muốn đầu thai chỗ nào cũng được, như đầu thai vào
con gái không có chồng: Có ông già trồng cây tùng xin Tứ
Tổ ấn chứng để kế thừa hoằng pháp.
Tứ
Tổ nói: ông già quá đâu có bao nhiêu thời gian để hoằng
pháp! Ông đi đầu thai, tôi sẽ đợi ông.