Hỏi:
Có
Bác sĩ người Pháp, trước khi chết nói “chết rồi không
còn cái gì, nếu còn cái gì tôi sẽ trở về báo cho con của
tôi biết”. Sau khi ông chết được 2 năm, một hôm cầu cơ,
người cầm cây bút chì tự động viết một bức thư, chữ
giống của Bác sĩ. Hiện tượng ấy như thế nào?
Đáp:
Người
đời cho cảnh giới đó là thật, nhưng theo lập trường nhà
Phật thì cho những cảnh giới đó là vọng, nó vẫn còn ở
trong chiêm bao, không phải ra ngoài chiêm bao. Các nhà khoa học
dùng tư tưởng chấp thật, đối với Phật pháp coi họ cũng
là vọng.
Hỏi:
Có
phải những người bộ lạc Cogy ngồi 9 năm không?
Đáp:
Không
phải nhất định họ ngồi 9 năm. Phái đoàn đài BBC là người
đời không biết Phật pháp, người bộ lạc không biết tiếng
Anh, người thông dịch ở gần đó lại ít tiếp xúc, nên
tôi biết lời nói không đủ để dịch. Bộ lạc ấy sống
theo thiên nhiên, mà Tâm linh thì ai dịch cho nổi! Vì ngũ giác
quan không thể tiếp xúc được, nếu có chỉ được khoảng
70% thôi.
Tổ
Đạt Ma ngồi 9 năm, ai cũng biết, cho là phải ngồi 9 năm
giống như tổ Đạt Ma! Sự thật không phải quy định như
vậy. Tổ đạt Ma ngồi 9 năm là đợi Huệ Khả, chứ không
phải là phải ngồi 9 năm, việc ngồi hay không ngồi chẳng
có liên quan gì cả.
Hỏi:
Tại
sao Bộ lạc không tiếp xúc bên ngoài?
Đáp:
Họ
không tiếp xúc bên ngoài là truyền thống của họ. Như Phật
ở trong kinh Pháp Hoa nói “Phật nào cũng đều thuyết kinh
Pháp Hoa”, chứ không phải chỉ một Phật Thích Ca thuyết
kinh Pháp Hoa. Ở vi trần thế giới, danh hiệu Phật Thích Ca
khác nhau, cũng đồng thời thuyết kinh Pháp Hoa ở vô lượng
vô biên thế giới, tức là không thể dùng tư tưởng người
thường để đoán mò việc của người ta.
Người
sống theo thiên nhiên không có gì bị trói buộc, tự nhiên
tự động và các vật chất cũng như vậy. Tất cả vật chất
đều do các nguyên tử hợp lại tổ chức thành, mỗi hạt
nguyên tử, chu vi có nhiều điện tử đang xoay. Như trái nho,
trái chuối, cái tách, cái bàn… đều như thế; hình thức
bề ngoài đủ thứ khác nhau, nhưng tổ chức không khác. Cho
nên gọi là Bản tâm bất nhị.
Lấy
ánh sáng để ví dụ: Trong nhà đốt 100 cây đèn, có đèn
lớn, đèn nhỏ; đèn lớn phát ra ánh sáng mạnh, đèn nhỏ
phát ra ánh sáng yếu; nhưng chỉ có một ánh sáng, chứ không
có hai ánh sáng, tự nhiên tương đối tự tiêu diệt. Nguồn
gốc của tương đối là hữu và vô. Phật pháp phá ngã chấp,
muốn thành lập ngã (hữu ngã), phá hết ngã chấp là vô ngã.
Hữu ngã và vô ngã là tương đối, khi cùng khắp không gian
thì tương đối tiêu diệt.
Tôi
thay mặt cây đèn này là ngã (ta), 100 cây đèn muốn thành
lập hữu ngã thì phải chỉ ra ánh sáng nào thuộc cây đèn
của ta? Chỉ ra được không? Không được. Ngược lại, muốn
thành lập vô ngã thì phải chỉ ra ánh sáng nào không phải
cây đèn của ta? Cũng chỉ không được. Nên hữu ngã và vô
ngã đều không thể thành lập. Vì hữu và vô là tương đối,
khi đã cùng khắp thì không còn tương đối.
Mặc
dù, không chỉ ra được, không phải là không có 100 cây đèn,
không bớt một cây nào; đèn lớn phát ra ánh sáng lớn, đèn
nhỏ phát ra ánh sáng yếu. Mỗi chúng sanh có trí tuệ, ngu
si, tuy khác biệt; nhưng mỗi chúng sanh đều cùng một Tâm
linh, không có thể hai.
Hỏi:
Vậy
có giống như đại ngã không?
Đáp:
Không
giống, vì đại ngã còn có đối đãi; như đại ngã của
một nước thì có nước khác để đối đãi, đại ngã của
nhân loại thì có chúng sanh để đối đãi, đại ngã chúng
sanh hữu tình thì có vô tình để đối đãi. Nói đại ngã
là đối với tiểu ngã mà có, tức là đại và tiểu là đối
đãi.
Tâm
linh siêu việt số lượng, chẳng có lớn nhỏ. Như “ma ha
Bát nhã”, nghĩa chữ ma ha là lớn, nhưng không phải đối
với nhỏ cho là lớn. Kim cang Bát nhã, tuy kim cang là cứng,
mà không phải đối với mềm cho là cứng. Hành thâm (sâu)
Bát nhã, cũng không phải sâu đối với cạn.
Cho
nên, kinh Kim Cang nói “vô thân là đại thân”. Không có thân
mới là lớn nhất, nếu có thân không thể nói lớn nhất,
ở trong này tôi nói là vô cực.
Theo
người đời nói “bằng như số 0” là không có gì hết,
nhưng con số 0 tùy theo đơn vị, đơn vị là 1 thì số 0 là
9, 1 thêm số 0 = 10; nếu đơn vị là 10 thì số 0 là 90 (10
+ 90 = 100); nếu đơn vị là 100 thì số 0 là 900 (100 + 900 =
1000). Nó phát triển lớn đến vô cực, không có hạn chế,
vì là con số.
Còn
rút nhỏ cũng vậy, như 1 đồng thêm 0, 1 thì chỉ còn 1 cắc,
thêm số 0 trước nữa thì còn 1 xu (0, 01), nó rút nhỏ đến
vô cực. Bài tựa quyển sách ấy, tôi nói là vô cực đó.
Nói
hiển tánh và ẩn tánh: không gian là hiển tánh, thời gian
là ẩn tánh. Vì ánh sáng trong không gian có thể chứng tỏ
tồn tại trong không gian, ánh sáng trong thời gian không thể
chứng tỏ tồn tại trong thời gian. Nhưng thời gian luôn luôn
ẩn trong không gian, không ai phủ nhận được, mà không thể
dùng ngũ giác quan để phát hiện; còn không gian thì ngũ giác
quan thấy rõ ràng trống rỗng.
Hỏi:
Vô
cực với thái cực khác nhau thế nào?
Đáp:
Thái
cực do Đạo giáo (Trang Tử) lập ra, họ cho thái cực là có
cực; nhưng sự thật không có cực, vì Đạo giáo có tư tưởng
chấp thật thì phải có cực. Thái cực sanh lưỡng nghi là
âm dương, tất cả vật chất đều có âm dương, như muốn
thành một quả trái cây thì phải có âm dương.
Vô
cực của Đạo giáo cũng là vô thỉ vô minh, họ cho là cùng
tột, nhưng chưa cùng tột. Phật giáo phá vô thỉ vô minh đạt
đến cùng tột, mà nói cùng tột là không có chỗ cùng tột,
vì vô thỉ là nghĩa vô sanh (không có sự bắt đầu), làm
sao có cùng tột? Phải có sanh khởi mới có cùng tột, tức
là có sanh rồi có diệt.
Kinh
Dịch là tư tưởng chấp thật, giáo lý nhà Phật phá tư tưởng
chấp thật; không có cái gì thật, không có cái gì để lập
chân lý. Nếu kiến lập chân lý là hai chân lý, cũng trên
đầu mọc thêm cái đầu. Phật giáo không kiến lập chân
lý là khác với các tôn giáo có kiến lập chân lý. Nhưng
các Pháp sư Phật giáo nói có chân lý, vì họ có sự kiến
lập.
Phật
đã nói là vô thỉ, người chứng quả là ngộ pháp vô sanh.
Vô sanh thì không có thỉ (không có bắt đầu), nếu có sanh
thì phải có bắt đầu, nên phải có chung (cuối cùng); có
sanh thì phải có diệt, đó là tương đối. Phật pháp không
phải vậy, nhưng không phủ định cái gì cả, nó vẫn y như
cũ; như nãi chuối vẫn là nãi chuối, chùm nho vẫn là chùm
nho; không thể đem ý mình thêm hay bớt vào một chỗ nào,
tất cả đều vô thỉ vô chung là Niết bàn sẵn sàng.
Có
nhà khoa học nước Anh phát minh tất cả vật chất có năng
lượng không sinh diệt, chỉ là chuyển biến. Như oxy hợp
lại hyro thành nước, phân tích ra thành oxy và hyro. Đối với
Phật pháp cũng vậy, tất cả đều do tâm tạo, nhắm mắt
chiêm bao và mở mắt chiêm bao đều là chiêm bao.
Phật
dạy mọi người ở trong mở mắt chiêm bao thức tỉnh, tức
là nhảy ra ngoài chiêm bao thì việc sinh tử được giải quyết
xong. Nếu không nhảy ra ngoài mở mắt chiêm bao thì cứ thay
đổi hoài, từ thân người chuyển thành thân heo, thân chó,
thân chuột… tùy theo nghiệp mà thay đổi.
Hỏi:
Bên
Kinh Dịch khuyên người ta trở về thái cực thì cũng giống
như Phật giáo, vậy thế nào?
Đáp:
Những
việc ấy là tư tưởng chấp thật mới có như vậy. Còn Phật
giáo dạy đừng đem ý mình thêm vô hay bớt ra, gọi là bất
tăng bất giảm, bất cấu bất tịnh, không có sự tương đối,
không chấp vào một bên. Phật có 84.000 pháp môn để phá
chấp vào một bên, mà phá chấp hết rồi, còn nói phá cái
không chấp cũng không được; tức còn nói không chấp là
chấp, chỗ nói không được thì phải ngộ.
Ngài
Nguyệt Khê có nói 4 giai đoạn: Duy tâm, Duy vật, Tâm vật
hợp một, Phi tâm phi vật. Cuốn sách này có thể nói đến
Tâm vật hợp một, muốn đến Phi tâm phi vật phải tu đến
ngộ mới biết, chứ không thể nói được.
Triết
học tây phương chỉ suy lý, không có kinh nghiệm trực tiếp;
Triết học đông phương có kinh nghiệm trực tiếp, nhưng kinh
nghiệm đó chấp thật. Chánh pháp phá chấp thật, tức là
bản thể như thế nào là như thế ấy thôi, y như cũ. Như
ban đầu núi sông, rồi tiến một bước chẳng phải núi sông,
cuối cùng núi sông vẫn là núi sông.
Cuối
cùng núi sông vẫn là núi sông thì khác xa với đầu tiên
núi sông. Đầu tiên núi sông là chấp thật núi sông, rồi
chẳng phải núi sông là phủ nhận núi sông, sau này không
còn chấp thật thì núi sông vẫn là núi sông; tức là bản
lai diện mục, không phải đầu tiên núi sông và cũng không
phải phủ nhận núi sông; nghĩa là không nhìn nhận và không
phủ nhận, nó như thế nào là y thế ấy, y như cũ, không
có ý mình vô cho là núi sông hay không phải núi sông. Cho nên,
nói núi sông vẫn là núi sông.
Nói
ra rất đơn giản, mà người ta khó thực hành; người ta gặp
cái gì cũng phải có ý mình cho là cái này hợp lý hay không
hợp lý, cái này đúng hay không đúng. Nhưng sự thật, không
phải đúng hay không đúng, có lý hay không có lý.
Như
cái “không” sẵn sàng không có nghĩa lý gì hết, tại thông
minh của con người lập ra đủ thứ nghĩa không rất có lý,
diễn ra rất hay. Nhưng nguồn gốc thì không có nghĩa lý. Cái
không có nghĩa lý thì không ai sữa đổi được, còn lập
ra nghĩa lý thì có sự tranh cải. Vì vậy, Thiền tông chỉ
hiện ra bổn lai diện mục. Bổn lai là không thêm, không bớt;
vì thêm hay bớt là tư tưởng chấp thật, gọi là vọng.
Chỗ
này, các Giảng sư, Pháp sư giảng kinh thuyết pháp Phật giáo,
những người còn có tư tưởng chấp thật thì không thể
đến chỗ này được. Vì họ chấp thật giáo lý có chân
lý, các chân lý đó ghi trong kinh điển. Nhưng tất cả kinh
điển Đại thừa liễu nghĩa không có kiến lập chân lý.
Kinh
như ngón tay để chỉ mặt trăng, nếu thấy mặt trăng thì
ngón tay là vô dụng; kinh Kim Cang ví dụ như chiếc bè qua sông,
qua đến bờ bên kia thì chiếc bè phải bỏ. Không chịu bỏ
chiếc bè, mà vác chiếc bè đi chơi làm sao được? Vì sợ
người ta chấp thật lời thuyết pháp của Phật, nên khi Phật
thuyết pháp xong liền phủ nhận. Như người ta cho là chân
lý mà Phật đã bỏ vào thùng rác rồi.
Nhà
khoa học tây phương chỉ biết có nhất nguyên, nhưng họ dùng
bộ óc suy cứu tìm hiểu, kết cuộc cũng hiện ra nhị nguyên,
vẫn còn trong tương đối. Nhà Phật thì nhất nguyên cũng
không được, người ta nói “không thể dùng ngôn truyền,
mà chỉ dùng ý hội”. Còn Thiền tông cũng không cho ý hội,
nếu dùng ý hội là “con chó đuổi theo cục xương”.
Hỏi:
Có
người ở Việt Nam tu khá cao, rồi sang bên nay vì đời sống
vật chất nhiều, nên người ấy không còn tu nữa. Vậy có
phải do nghiệp lực không?
Đáp:
Người
ấy bị hoàn cảnh lôi kéo, như con nít mới sanh ra có sẵn
tập khí kiếp trước, mà kiếp này chưa có, rồi nó lớn
lên từ từ nhiểm tập khí kiếp này, chơi các trò chơi bạo
động của điện tử, nếu sau này chúng nó nắm chính quyền
không biết ra sao? Bây giờ người ta bị giết là phần nhiều
do những người trẻ làm ra. Con nít chơi trò chơi bạo động
nguy hiểm, lâu ngày trở thành thói quen, vậy khó mà sửa được.
Hiện
nay, các đồ chơi điện tử bạo động nguy hiểm có bán khắp
thế giới, vì theo thị hiếu sở thích của con nít; những
người sản xuất đồ chơi ấy không cần biết hậu quả
ra sao, chỉ cần có tiền nhiều mà thôi. Sự ô nhiễm cũng
vậy, các nhà sản xuất chỉ biết có tiền, để lại biết
bao nhiêu ô nhiểm cho mọi người phải chịu.
Hỏi:
Khi
cùng cực cái khó, rồi sau này cũng hết cái khó phải không?
Đáp:
Theo
chu kỳ nó xoay, như điện tử xoay xung quanh nguyên tử; mặt
trăng xoay xung quanh quả đất, quả đất xoay xung quanh mặt
trời, mặt trời xoay xung quanh ngân hà. Bắn vệ tinh nó cũng
xoay quanh, đó là lý chung. Sức của tâm cũng vậy, không bao
giờ ngưng xoay. Vì vậy, Pháp Bảo Đàn nói “tất cả các
pháp không có tịnh”, tức là tất cả đều đang động.
Trực
chỉ nhân tâm là chỉ thẳng tất cả đều ở trong tâm mình,
phát hiện tâm mình là kiến tánh thành Phật. Cho nên, không
cần lý luận, mới gọi là giáo ngoại biệt truyền, nghĩa
là ở ngoài giáo lý đặc biệt truyền pháp môn này. Bất
lập văn tự là không qua văn tự lời nói, văn tự lời nói
còn không có, làm sao có lý luận? Tức chỉ tâm người là
Phật, nhưng người ta khó tin lắm.
Hỏi:
Giác
ngộ là gì?
Đáp:
Giác
ngộ nghĩa là Phật (tự giác, giác tha), cũng là nghĩa Bồ
tát, Bồ tát dịch ra là giác ngộ hữu tình chúng sanh. Ngày
xưa, có người hỏi Phật: Ngài là gì? Phật trả lời: Tôi
là là người giác ngộ. Giác ngộ tiếng Ấn Độ gọi là
Phật Đà, mà không gọi là người giác ngộ, rồi coi Phật
như một thần linh.
Như
lai, Niết bàn, giải thoát… đều là những danh từ không
có thực tế. Chư Phật chư Tổ là ngộ thực tế, thực tế
không thể dùng lời nói để nói, nên ông hỏi, tôi không
thể nói được, mà tôi chưa ngộ. Mặc dù, tôi có ngộ hay
Phật Thích Ca đã ngộ và bảy ngàn Tổ ghi ở trong Thiền
tông đã ngộ cũng không thể nói cho ông biết được. Phật
chỉ đường lối thực hành để cho mình đạt đến ngộ,
chứ không thể đem cái ngộ nói cho mình biết. Vì không thể
nói, nên cần phải ngộ mới được giải thoát.
Giác
ngộ là ở trong mở mắt chiêm bao thức tỉnh là rời khỏi
chiêm bao. Nếu chưa thức tỉnh thì ở trong chiêm bao luân hồi
mãi, có hiểu điều gì là hiểu theo bộ óc; ngộ là Tâm linh
tự hiện, Tâm linh tự hiểu; chứ không phải bộ óc là năng
hiểu, rồi có Phật tánh là sở hiểu để làm tương đối.
Tâm
linh hiện lên là không có năng hiểu sở hiểu, không có năng
biết và không có sở biết. Như chữ “kiến tánh”, nếu
giải theo mặt chữ thì không đúng; không có năng kiến để
kiến Phật tánh, nếu có năng kiến để kiến Phật tánh làm
sở kiến thì có năng sở đối đãi, nên không phải là kiến
tánh.
Không
thể nói được chỗ ngộ, nếu nói được thì không phải
ngộ; khi ngộ triệt để đồng như chưa ngộ. Tại sao? Tại
cái ngộ là do cái mê, có mê rồi mới có ngộ; đến chừng
ngộ thì hết mê, hết mê không còn ngộ. Cho nên, Thiền
tông nói “ngộ rồi đồng như chưa ngộ”, nếu còn ôm cái
ngộ thì Thiền tông gọi là tiểu ngộ, chưa phải triệt
ngộ, tức là còn đi giữa đường.
Cao
Phong Diệu ngộ nhưng chưa triệt để, gặp Thầy hỏi: Ban
ngày ồn ào làm chủ được không?
Cao
Phong Diệu đáp: được.
Thầy
hỏi: ban đêm ngủ, làm chủ được không?
Cao
Phong Diệu đáp: được.
Thầy
hỏi: ngủ mê không có chiêm bao, vậy chủ ở đâu?
Cao
Phong Diệu không trả lời được.
Thầy
nói: từ đây về sau, không cần làm gì, ông mệt thì ngủ,
đói thì ăn; khi ngủ thức dậy, rồi hỏi “hồi nảy, ngủ
quên không có chiêm bao, chủ ở đâu?”
Như
vậy, ông phải tham thêm 5 năm, cùng ngủ chung một phòng, nghe
tiếng gối cây rớt xuống đất, ông ngộ triệt để (mạt
hậu lao quan). Ngộ triệt để là cảnh giới ngộ trùng quan
tan rã, không còn ngộ nữa.
Hỏi:
“Chỗ
nào ông an thân lập mạng?” như thế nào?
Đáp:
Nếu
có chỗ an thân lập mạng là không phải. Cách tham thiền:
Có trời có đất, nên ông có ở đây thì ông biết, mà chưa
có trời đất vậy ông biết không? – Không biết. Không biết
là tham thiền được rồi. Hỏi câu câu thoại để kích thích
không hiểu không biết, nhìn xem chỗ không biết đó là gì,
muốn biết chỗ không biết mà biết không nổi, gọi là nghi
tình. Nhìn và hỏi đồng thời.
Hỏi:
Mọi
thứ đều là “không” thì như thế nào?
Đáp:
Con
số 0 không phải là không, tất cả dùng đều phải nhờ nó;
không phải như tư tưởng người ta là không có gì, nó muốn
lớn bao nhiêu hay rút nhỏ bao nhiêu đều được. Không phải
nghĩ cho chúng tôi chán đời yểm thế vào cửa “không”
là chẳng có gì. Sự thật, “không” là hiển bày cái dụng,
có dụng là không phải là tiêu cực.
Chính
Tâm linh của mình sẵn có cái “không” gọi là Tánh không,
Như lai, Niết bàn, Bát nhã… Bát nhã là dụng của “không”
này, tất cả đều phải nhờ “không” mà dùng. Không phải
dùng trí huệ của bộ óc để suy nghĩ, tìm hiểu rồi mới
dùng; còn trí huệ Bát nhã là tự động dùng.
Hỏi:
Trong
quyển sách này có nói về Thái cực quyền, vậy như thế
nào?
Đáp:
Không
nói rõ vế Thái cực quyền, nhưng cũng có ý trong đó. Vì
Thái cực quyền để trị bệnh giống như Khí công, nhưng
nó thấp hơn Khí công một chút. Vận động của Thái cực
quyền, như tay đưa lên đầu thì tâm hướng đến đó. Khí
công nói là khí, Thái cực quyền luyện đến cực thì cũng
được phát ra khí. Mặc dù, đi quyền rất chậm, nhưng hơi
rất mạnh có thể đẩy làm té người.
Đạo
giáo nói ”tinh, khí, thần”, tức là tinh hóa khí, khí hóa
thần. Tinh của Đạo giáo nói là tập trung ý chí của bộ
óc, luyện lâu rồi phát ra làn sóng tin tức có thể trị bệnh,
có thể biến đổi vật chất gọi là khí, khí tiến thêm
gọi là thần. Nhưng thần của họ giống như thần thông,
mà không bằng thần thông của A-la-hán. Thần thông của Đạo
giáo ở phạm vi rất nhỏ trong không gian thời gian.
Thần
thông của A-la-hán về không gian là 1 đại thiên thế giới,
về thời gian là 8 muôn kiếp trước và 8 muôn kiếp sau.
Thần
thông của Đạo giáo chỉ có 1 kiếp trước và 1 kiếp sau
về thời gian, về không gian thì ở trong phạm vi Nam Thiệm
Bộ Châu. Vì họ luyện tinh thần của bộ óc giữ được
sinh mạng được mấy ngàn năm, có thể đến 10.000 năm, rồi
cũng phải chết. Còn A-la-hán muốn giữ hoài không chết và
muốn chết cũng được, tại chết là thể xác chứ Tâm linh
không chết.
Hỏi:
Tâm
linh và Linh hồn là như thế nào?
Đáp:
Phật
giáo phủ nhận Linh hồn, vì Linh hồn tùy theo thể xác mà
biến đổi; như con nít chết, Linh hồn là con nít; người
lớn chết, Linh hồn là người lớn; người già chết, Linh
hồn là người già. Còn Tâm linh không phân biệt lớn nhỏ
già trẻ, tất cả đều là một. Mọi người chỉ biết danh
từ Tâm linh, mà bản thể Tâm linh không có hình tướng, số
lượng.
Tại
sao gọi là Phật tánh? Vì Tâm linh có tánh giác ngộ nên đặt
tên là Phật tánh. Tâm linh cùng khắp không gian, chẳng có
khứ lai nên gọi là Như lai. Tâm linh cùng khắp thời gian,
không có gián đoạn, không có sinh diệt gọi là Niết bàn.
Tất cả danh từ Bát nhã, vô sanh, bồ đề… đều là biệt
danh của Tâm linh, cũng là cái dụng của Tâm linh, chứ không
phải có nghĩa khác.
Tất
cả chúng sanh đều cùng một bản thể, tuy nói là một nhưng
không kiến lập một. Nếu có một thì phải có hai có ba,
như hư không không thể nói là một, vì ở ngoài hư không
không có hư không nữa, nên không thể nói là một. Thời gian
cũng vậy, như ánh sáng đèn thì cảm nhận được, nhưng Tâm
linh thì không cảm nhận.
Bây
giờ, ở trong chánh điện này đốt 100 cây đèn, mỗi cây
đèn khác nhau, đèn lớn phát ra ánh sáng mạnh, đèn nhỏ phát
ra ánh sáng yếu. Nhưng 100 cây đèn cùng chung một ánh sáng,
vì mình dùng lời nói là một ánh sáng, không thể hai ánh
sáng. Tại nó cùng khắp thì sự tương đối tự tiêu diệt.
Tương
đối là gì? Tương đối là hữu và vô. Tất cả xẩy ra phiền
não là do cái ngã, Phật giáo là phá ngã chấp. Chấp thân
này là hữu ngã, khi phá được gọi là vô ngã. Cùng khắp
thì hữu ngã vô ngã đều không thể thành lập.
Tại
sao? Như tôi thay mặt ánh sáng đèn này là của ta, 100 cây
đèn, mỗi mỗi đều phát ra ánh sáng. Nếu muốn thành lập
có ta (hữu ngã) thì chỉ ra ánh cây đèn nào của ta? Chỉ
ra không được. Vậy muốn thành lập hữu ngã không thể được.
Muốn
thành lập vô ngã phải chỉ ra chỗ nào không phải ánh sáng
đèn của ta? Chỉ ra không được. Theo khoa học, tất cả ánh
sáng đều cùng khắp không gian.
Năm
tôi đi Úc, có Phật tử nói “bây giờ chỉ không được,
nhưng sau này khoa học phát minh cái máy, sẽ phân tích ánh
sáng của mỗi cây đèn thì chỉ ra được”. Tôi nói không
được. Tại sao?
Như
100 cây đèn, tôi sắp số 1, 2, 3, 4… 100, bày ra 100 cái chén
không, cũng sắp 1, 2, 3, 4… 100, đem chén không số 1 sát bên
đèn số 1. Nói trong chén không của số 1 chỉ có ánh sáng
đèn số 1 được không? Không được. Vì nó đủ 100 ánh sáng
của 100 cây đèn, không thiếu một ánh sáng nào. Rồi đem
chén không số 1 đến gần chén không số 100, nói là chén
không số 1 không có ánh sáng đèn số 1 được không? Không
được. Nó cũng đủ 100 ánh sáng, không thiếu cái nào.
Đừng
nói 100 cây đèn ở trong nhà, mà đem chén không để trên mặt
trăng, vẫn là 100 ánh sáng của 100 cây đèn. Vì ánh sáng cùng
khắp không gian, mặt trăng ở trong không gian. Cho nên, bao nhiêu
cây đèn cùng một ánh sáng, chứ không có hai ánh sáng.
Tất
cả chúng sanh cùng một Tâm linh, chứ không có hai; vì Tâm
linh cùng khắp không gian thời gian, không thể chỉ ra, không
thành lập tương đối.
Nhưng
không phải không có 100 cây đèn, 100 cây đèn vẫn y như cũ;
đèn lớn phát ra ánh sáng mạnh, đèn nhỏ phát ra ánh sáng
yếu; chứ không có thay đổi, không bị mất đèn nào.
Tất
chúng sanh cũng vậy, mỗi mỗi chúng sanh thông minh ngu si, giàu
nghèo khác biệt; nhưng Tâm linh vẫn là một, không thể hai
được, vì nó cùng khắp.
Hỏi:
Thế
nào là tứ tướng?
Đáp:
Tứ
tướng phàm phu gồm có 4 loại: ngã tướng, nhân tướng, chúng
sanh tướng và thọ giả tướng.
Ngã
tướng là thân ngũ uẩn này, rồi hy sinh tiểu ngã (ngã tướng)
để hoàn thành đại ngã (nhân tướng) là toàn nhân loại.
Nhưng đại ngã của nhân loại chưa phải toàn chúng sanh, vì
mỗi chúng sanh đều có Tâm linh, tiến thêm một bước là
toàn chúng sanh (đại ngã chúng sanh hơn đại ngã nhân loại).
Nhưng vẫn còn cái ngã, vì ngã tướng, nhân tướng, chúng
sanh tướng đều còn ở trong thời gian, còn chấp thật thời
gian thì vẫn có ngã vi tế (thọ giả tướng).
Bốn
tướng của bậc Thánh đã chứng quả, cũng còn ngã tướng.
Ngã
tướng của bậc Thánh có năng chứng sở chứng. Tiến thêm
một bước là ngộ được năng chứng sở chứng không phải
thật, nhưng lại có năng ngộ sở ngộ là nhân tướng. Tiến
thêm một bước là liễu tri năng chứng sở chứng, năng ngộ
sở ngộ đều chẳng phải thật; nhưng còn có năng liễu tri
để liễu tri sở tri là năng chứng sở chứng, năng ngộ sở
ngộ đó, gọi là chúng sanh tướng. Rồi tiến thêm một bước
đến Niết bàn (Niết bàn của Tiểu thừa là tịch diệt),
nhưng còn có cảnh tịch diệt để mình chứng, vì Tiểu thừa
chấp pháp là có ta chứng Niết bàn, còn trụ nơi Niết bàn,
gọi là thọ mạng tướng, kinh Kim Cang gọi là thọ giả tướng.
Đó
là ngã tướng rất vi tế, nói đúng là bỏ ngũ uẩn ngã rồi
ôm ngã Niết bàn, vậy ngã Niết bàn cũng là ta. Quả Phật
thì không có ta chứng, không có năng chứng, không có sở chứng,
cuối cùng gọi là vô tu vô chứng, nên nói “ngộ rồi đồng
như chưa ngộ”.
Nếu
còn ôm cảnh giới ngộ thì chưa đến mạt hậu lao quan trong
Thiền tông, chưa đến cuối cùng vì còn có ngã vi tế, ngã
vi tế lớn hơn đại ngã. Bất cứ trụ nơi nào đều không
được, bởi vì bản thể là vô trụ. Lục Tổ nói “lấy
vô trụ làm gốc”, Duy Ma Cật nói “từ gốc vô trụ lập
tất cả pháp”. Gốc vô trụ là Tánh không của Tâm linh.
Hỏi:
Đến
vô ngã thì sao?
Đáp:
Nếu
không chấp ngã mà chấp vào vô ngã thì còn tương đối với
cái ngã. Vừa rồi tôi nói vô ngã cũng không thành lập được,
nếu trụ nơi vô ngã là có sở trụ. Vì đối với ngã nên
nói vô ngã. Cái ngã không thành lập được, làm sao vô ngã
được thành lập? Trong Phật pháp gọi là biên kiến (chấp
vào một bên).
Hỏi:
Theo
bản thể không có năng sở, nhưng chúng con là phàm phu dùng
phương tiện có năng sở, như trì chú có năng sở… Nếu
chúng con không dùng phương tiện, làm sao đi đến đạo được?
Đáp:
Phải
rồi! Cho nên, Phật Thích Ca thuyết ra 84.000 pháp môn để cho
người ta đi từ từ. Nhưng Phật Thích Ca nói ra sợ mọi người
chấp là chân lý, nên phủ nhận liền. Vì đó là phương tiện
tạm thời, mà bây giờ các Phật học viện, các Pháp sư đều
chấp vào lời nói của Phật Thích Ca. Đó là nghịch với
ý của Phật Thích Ca, vì vậy Phật chỉ nói là phương tiện.
Duy
Ma Cật nói “phương tiện và trí huệ phải đi song song”.
Nếu dùng phương tiện mà không có trí huệ thì bị phương
tiện trói buộc. Còn dùng trí huệ mà không có phương tiện
thì bị trí huệ trói buộc. Bởi vậy, muốn độ chúng sanh
phải có phương tiện, nhưng phương tiện và trí huệ đi song
song mới được. Tất cả kinh Đại thừa liễu nghĩa đều
như thế, chứ không phải chỉ có kinh Duy Ma Cật thôi.