CHƯƠNG
1
BẠN
KHÔNG PHẢI LÀ TÂM TRÍ CỦA BẠN
Chướng
ngại lớn nhất đối với sự giác ngộ
Giác
ngộ là gì?
Một
người hành khất ngồi bên lề đường đã hơn 30 năm. Một
hôm gặp khách lạ đi qua, người hành khất như cái máy chìa
chiếc nón cũ ra, miệng lẩm bẩm:
- Xin
ông cho tôi chút tiền lẻ.
Khách
bộ hành dừng lại nói:
- Tôi
chẳng có gì cho ông. Nhưng ông đang ngồi trên cái gì vậy?
-
Chẳng có gì. Chỉ là cái thùng cũ rích thôi. Tôi ngồi trên
thùng này đã lâu lắm rồi.
-
Ông đã từng xem có gì bên trong chưa?
-
Chưa. Nhưng chẳng có gì đâu.
Khách
bộ hành cứ khăng khăng yêu cầu nên xem thử. Khi ấy người
hành khất mới cố cạy cái nắp thùng cũ kỹ ra. Ông ta ngạc
nhiên, không tin vào mắt mình nữa, rồi vô cùng sung sướng.
Thì ra trong thùng chứa đầy vàng.
Tôi
là khách lạ đó, tuy chẳng có gì hiến tặng bạn nhưng đang
bảo bạn hãy nhìn vào bên trong. Không phải bên trong cái thùng
nào đó như trong chuyện ngụ ngôn, mà trong chỗ gần gũi hơn
nữa: bên trong chính con người bạn.
Có
thể bạn sẽ nói: “ Nhưng tôi không phải là kẻ ăn mày
mà”.
Những
người không tìm thấy của cái chân chính của mình, nghĩa
là niềm vui rực rỡ của Bản thế hiện tiền cùng với sự
thanh thản sâu thẳm không gì lay chuyển nổi đều là kẻ
ăn mày, cho dù họ rất giàu sang về vật chất. Họ đang tìm
kiếm những khoảnh khắc lạc thú hay muốn được công nhận
giá trị của mình, tìm kiếm sự an ổn hay tình yêu bên ngoài,
trong khi họ lại sẵn có một kho tàng bên trong, không những
bao gồm mọi thứ họ đang tìm kiếm mà còn lớn lao hơn mọi
thứ khác trên đời.
Thuật
ngữ giác ngộ hay tỏ ngộ gợi lên khái niệm về sự thành
tựu của một siêu nhân nào đó, và tự ngã hay cái tôi thích
lưu giữ một khái niệm kiểu ấy. Nhưng nó đơn giản có
nghĩa là trạng thái hồn nhiên hợp nhất về mặt cảm giác
với Bản thể hiện tiền. Đó là trạng thái cộng thông hay
kết nối với thứ gì đó vô lượng vô biên và không có
gì có thể hủy hoại được, thứ gì đó, hầu như nghịch
lý, cốt yếu là bạn mà lại còn lớn lao hơn nhiều so với
chính bạn nữa. Đó là sự tìm thấy bản tính chân thật
của bạn, cái bản tính vượt khỏi hình danh sắc tướng
bên ngoài của bạn. Tình trạng không thể cảm nhận được
sự nối kết này làm nảy sinh ảo tưởng phân biệt, tách
biệt với chính bạn và với thế giới chung quanh bạn. Lúc
ấy bạn vô tình hay cố ý xem bản thân mình là một mảnh
cô lập trong vũ trụ. Thế là sợ hãi nảy sinh, rồi xung đột
bên trong và bên ngoài bạn trở nên quen thường trong cuộc
sống của bạn.
Tôi
thích lối định nghĩa đơn giản của Đức Phật, Ngài cho
rằng giác ngộ là “kết thúc khổ đau”. Chẳng có gì siêu
nhiên trong định nghĩa đó, phải thế không? Dĩ nhiên, là
một định nghĩa nên nó bất toàn. Nó chỉ cho thấy khía cạnh
không được hàm ngụ trong sự giác ngộ: đó là đau khổ.
Thế nhưng còn sót lại điều gì khi không còn khổ đau? Đức
Phật giữ im lặng về điều đó, và sự im lặng của ngài
hàm ý rằng bạn sẽ phải tìm hiểu cho chính mình. Ngài dùng
một định nghĩa tiêu cực để cho tâm trí không thể nhào
nặn thành một thứ gì đó để đặt niềm tin vào một thành
tựu siêu nhiên, một mục tiêu bạn không sao vươn tới được.
Mặc dù biện pháp phòng ngừa như vậy, đại đa số các Phật
tử vẫn cứ tin rằng giác ngộ chỉ dành riêng cho Đức Phật
thôi, chứ không dành cho họ, ít ra là không trong kiếp này.
Ông
dùng thuật ngữ Bản thể hiện tiền (Being) nhằm ám chỉ
điều gì?
Bản
thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn
hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh
linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt. Thế nhưng, cái bản
thể này không chỉ vượt quá mà còn ẩn sâu bên trong mỗi
sinh linh dưới dạng bản tính sâu thẳm, vô hình và bất khả
hủy diệt của nó. Điều này có nghĩa là bạn có thể tiếp
cận nó ngay tức thời như là bản tính đích thực của bạn.
Nhưng đừng tìm cách nắm bắt nó bằng tâm trí. Đừng cố
gắng tìm hiểu nó. Bạn chỉ có thể cảm nhận được nó
khi tâm trí bạn tĩnh lặng. Khi bạn lưu trú trong hiện tiền,
khi bạn tập trung chú ý trọn vẹn và mạnh mẽ vào cái Bây
giờ, bạn có thể hiểu nổi nó bằng tâm trí của bạn. Tái
ngộ với Bản thể hiện tiền và lưu trú thường xuyên trong
trạng thái “hiểu rõ bằng cảm nhận” chính là giác ngộ,
là tỏ ngộ vậy.
-ooOoo-
Khi
đề cập đến Bản thể hiện tiền, phải chăng ông đang
nói về Thượng đế? Nếu phải, tại sao ông không dùng thuật
ngữ này?
Thuật
ngữ Thượng đế đã trở thành vô nghĩa qua hàng ngàn năm
bị lạm dụng. Đôi khi tôi cũng dùng từ này, nhưng dùng thật
dè dặt. Nói lạm dụng tức là tôi muốn nói có những người
chưa từng thoáng thấy lãnh vực thiêng liêng, bao la không ngần
mé đằng sau chữ này, lại dùng nó một cách quả quyết cứ
như là họ biết rõ rằng họ đang nói cái gì. Hoặc họ lập
luận chống lại nó cứ như thể họ biết rõ rằng họ đang
phủ nhận, đang phản bác cái gì vậy. Sự lạm dụng này
làm nảy sinh sự xác tín, sự cả quyết, và các ảo tưởng
vị ngã thật lố bịch, như người ta thường nói: “Thượng
đế của tôi hoặc của chúng tôi là vị Thượng đế duy
nhất chân thật, còn Thượng để của các bạn là giả hiệu,
là sai lầm”, hoặc như phát biểu nổi tiếng của Nietzche:
“Thượng để đã chết” chẳng hạn.
Chữ
Thượng đế đã trở thành một khái niệm đóng kín. Ngay
khi nó được thốt ra, liền có hình ảnh một cụ già râu
trắng do tâm trí tạo dựng nên, dù không phải như thế thì
cũng có một hình tượng biểu trưng của tâm trí về một
người hay sự vật nào đó bên ngoài chúng ta, mà hầu như
luôn luôn thuộc về nam tính.
Chẳng
phải Thượng đế mà cũng chẳng phải Bản thể hiện tiền,
hay bất cứ từ ngữ nào khác có thể định nghĩa hay giải
thích được cái thực tại không thể nghĩ bàn ẩn khuất
đằng sau từ ngữ đó. Cho nên vấn đề quan trọng là phải
xem từ ngữ ấy sẽ giúp hay gây trở ngại, không cho chúng
ta thể nghiệm điều mà từ ngữ ấy nhắm vào. Nó có vượt
qua được chính nó để nhắm vào cái thực tại tiên nghiệm,
siêu việt ấy hay không, hay nó lại dễ dãi thỏa hiệp chỉ
để trở thành một ý tưởng trong đầu mà chúng ta đặt
niềm tin vào, một kiểu thần tượng trong tâm tưởng chúng
ta thôi?
Giống
như chữ Thượng đế, chữ Bản thể hiện tiền chẳng giải
thích được điều gì cả. Thế nhưng, chữ Bản thể hiện
tiền có điểm thuận lợi hơn ở chỗ nó là một khái niệm
còn bỏ ngỏ. Nó không giản lược cái không hình tướng vô
hạn vô biên thành một cá thể hữu hạn. Không thể nào dùng
tâm trí để tạo dựng một hình tướng cho nó được. Chẳng
ai có thể tuyên bố mình độc quyền sở hữu Bản thể hiện
tiền được. Nó là bản tính đích thực của chúng ta, và
chúng ta có thể tiếp cận nó ngay tức thì bằng cảm
nhận sự hiện trú của chính mình; đó là sự đảm nhận
tôi hiện hữu ngay trước khi phân biệt tôi là cái này hay
tôi là cái kia. Vì thể chữ Bản thể hiện tiền cho thấy
chỉ cần một bước nhỏ thôi là chúng ta thể nghiệm được
cái thực tại hiện tiền siêu việt ấy.
-ooOoo-
Trở
ngại lớn lao nhất đối với việc thể nghiệm thực tại
này là gì?
Đó
là sự kiện bạn đồng hóa với tâm trí của mình. Tâm trí
khiến cho sự suy nghĩ có tính cưỡng bách. Không thể ngừng
suy nghĩ là một thảm trạng khủng khiếp, nhưng chúng ta không
nhận ra điều này bởi vì hầu hết để phải chịu đau khổ
như thế, nên ai cũng xem đó là chuyện bình thường. Sự huyên
náo không ngơi nghỉ của tâm trí ngăn cản không cho bạn tìm
thấy miền tĩnh lặng nội tại vốn không thể tách biệt
khỏi Bản thể hiện tiền. Tình trạng náo động của tâm
trí cũng tạo ra một sản phẩm là Cái Tôi giả tạo, nó phóng
ra một bóng đen bao gồm toàn các nỗi sợ hãi và đau khổ.
Chúng ta sẽ tìm hiểu tất cả những điều đó chi tiết hơn
say này.
Triết
gia Descartes tin rằng ông đã tìm ra chân lý căn bản nhất
khi ông đưa ra lời tuyên bố nổi tiếng: “Tôi tư duy, do
đó tôi hiện hữu”. Thực ra, ông đã diễn tả một sai lầm
căn bản nhất của con người, đó là: đánh đồng khả năng
suy nghĩ với Bản thể hiện tiền, và đồng nhất bản thân
mình với sự suy nghĩ. Chủ thể bị cưỡng bách cứ
phải suy nghĩ miên man không ngừng, tức là ám chỉ hầu hết
mọi người phải sống trong trạng thái cách biệt rõ rệt,
trong một thế giới phức tạp và không lành mạnh, đầy rẫy
những rối rắm và xung đột liên miên, một thế giới phản
ảnh tình trạng manh mún ngày càng tăng của tâm trí. Giác
ngộ hay tỏ ngộ là trạng thái trọn vẹn, trạng thái “nhất
thể” tràn đầy an lạc. Hợp nhất làm một với cuộc sống
trong khía cạnh thị hiện của nó là thế giới vật chất
hữu hình, cũng như với khía cạnh bất thị hiện của sự
sống là tự ngã sâu thắm nhất của bạn – tức là hợp
nhất làm một với Bản thể hiện tiền. Tỏ ngộ không chỉ
là chấm dứt khổ đau, chấm dứt nhưng xung đột liên miên
bên trong cũng như bên ngoài, mà còn là chấm dứt sự nô dịch
khốn cùng đối với dòng suy nghĩ miên man ấy. Đây quả là
sự giải phóng tuyệt vời biết bao!
Đồng
hóa với tâm trí của mình sẽ tạo ra một tấm màn che mờ
ảo quanh những khái niệm, danh xưng, hình ảnh, chữ nghĩa,
các phán xét, và các định nghĩa ngăn chặn mọi quan hệ đích
thực. Nó xen vào giữa bạn và tự ngã của bạn, giữa bạn
và người phối ngẫu, giữa bạn và thiên nhiên, giữa bạn
và Thượng đế. Chính tấm màn ý tưởng này tạo ra ảo tưởng
về sự cách biệt, ảo tưởng rằng có bạn và một “tha
nhân” hoàn toàn cách biệt với bạn. Từ đó bạn quên bẵng
đi sự kiện cốt yếu rằng, bên dưới các ngoại hình vật
chất và sắc tướng cách biệt nhau bạn vốn hợp nhất làm
một với mọi sự vật đang hiện hữu. Nói “quên đi” tức
là nói bạn không còn có thể cảm nhận được cái nhất
thể này như là thực tại hiển nhiên nữa. Bạn có thể tin
tưởng rằng nó đúng, nhưng bạn không còn thực sự biết
rõ là nó đúng nữa. Niềm tin có thể làm cho bạn thấy
dễ chịu, thấy được an ủi. Thế nhưng chỉ khi nào xuất
phát từ kinh nghiệm của chính bạn nó mới giải thoát bạn
được.
Suy
nghĩ trở thành căn bệnh. Loại bệnh này xảy ra khi mọi thứ
mất đi sự cân bằng. Chẳng hạn không có gì trái lẽ thường
khi các tế bào trong cơ thể phân chia và nhân bản, nhưng khi
tiến trình này diễn ra không hòa hợp với toàn bộ cơ chế,
các tế bào sinh sôi nảy nở quá nhiều sẽ khiến chúng ta
bị bệnh.
Tâm
trí là một công cụ tuyệt vời nếu nó được sử dụng
đúng đắn. Nhưng nếu dùng sai, nó sẽ có tính hủy hoại
rất đáng kể. Nói chính xác hơn rất thường khi không phải
bạn dùng tâm trí một cách sai lầm – mà thường thì bạn
không hề dùng đến nó. Chính nó sử dụng bạn. Đây mới
là bệnh. Bạn tin rằng bạn chính là tâm trí của bạn. Đây
mới là ảo tưởng. Chính cái công cụ này đã thống trị
bạn.
Tôi
không hoàn toàn đồng ý.
Đúng
là tôi có rất nhiều ý nghĩ chẳng thể nhằm mục đích gì
cả giống như hầu hết mọi người, nhưng tôi vẫn có thể
chọn dùng tâm trí mình để sở hữu và hoàn thành nhiều
thứ, và lúc nào tôi cũng làm như thế.
Không
phải chỉ vì bạn có thể giải một trò chơi ô chữ hay chế
tạo được một trái bom nguyên tử mà nói rằng bạn sử
dụng tâm trí của bạn. Giống như loài chó thích gặm xương,
tâm trí thích tạo ra vấn đề để nghiền ngẫm. Đó là
lý do giải thích tại sao nó chơi trò ô chữ và chế tạo
bom nguyên tử. Bạn chẳng có lợi gì trong cả hai trường
hợp đó. Xin hỏi bạn một điều: liệu bạn có thể tự
do thoát khỏi tâm trí của bạn bất kỳ lúc nào bạn muốn
không? Bạn có tìm thấy chiếc nút “tắt” để bắt
tâm trí bạn ngưng hoạt động không?
Phải
chăng ông muốn nói hoàn toàn ngưng dứt suy nghĩ?
Không,
tôi không thể, ngoại trừ có lẽ ngưng dứt suy nghĩ trong
một hoặc hai giây thôi.
Vậy
thì tâm trí đang sử dụng bạn. Vô tình bạn bị đồng hóa
với nó, cho nên bạn không hề biết mình là nô lệ của nó.
Hầu như bạn bị khống chết mà không hề hay biết, và vì
thế bạn xem thực thể khống chế mình là chính bạn. Khởi
đầu của tự do là nhận biết rằng bạn không phải là thực
thể đang khống chế bạn – không phải là chủ thể tư duy.
Tri kiến ấy cho phép bạn quan sát được thực thể đó. Ngay
lúc bạn bắt đầu quan sát thực thể tư duy, thì một mức
độ ý thức cao hơn được khởi động. Lúc ấy bạn bắt
đầu nhận ra rằng có một lãnh vực linh giác, một lãnh vực
thông minh bao la nằm bên ngoài tư duy, rằng suy nghĩ chỉ là
một phần nhỏ bé của linh giác đó. Bạn cũng nhận ra rằng
mọi thứ đều thực sự đáng quan tâm – như vẻ đẹp, tình
yêu, sự sáng tạo, niềm vui, sự thanh thản nội tại – đều
nảy sinh từ bên ngoài phạm vi tâm trí. Bạn bắt đầu thức
tỉnh.
Giải
phóng bản thân khỏi tâm trí của bạn
Chính
xác ông muốn nói điều gì khi nói “Quan sát chủ thể tư
duy?”
Khi
ai đó đến gặp bác sĩ và nói: “Tôi nghe thấy một tiếng
nói vang lên trong đầu tôi”, rất có thể người ấy sẽ
được chuyển đến khám ở một bác sĩ chuyên khoa thần kinh.
Sự thật là hầu hết mọi người cũng giống như vậy, đều
luôn nghe thấy một hay vài giọng nói vang lên trong đầu họ:
các tiến trình suy nghĩ này diễn ra một cách tự phát mà
bạn không nhận ra mình có sức mạnh ngưng dứt được chúng.
Các cuộc độc thoại hoặc đối thoại như thế cứ lan man
không sao dừng lại được.
Bạn
có thể tình cờ gặp phải những người “điên” trên đường
phố không ngớt nói huyên thuyên hoặc lẩm bẩm với bản
thân họ.Vậy là tình hình đó chẳng khác là bao so với điều
mà bạn và những người bình thường khác đang làm, ngoại
trừ ở chỗ bạn không nói to lên. Tiếng nói này biết phê
bình, suy đoán, phán xét, so sánh, than phiền, ưa thích, ghét
bỏ, và vân vân. Tiếng nói này không nhất thiết có liên
quan đến tình huống thực tế của bạn ngay lúc đó; nó có
thể đang diễn lại chuyện quá khứ mới vừa xảy ra hay đã
xảy ra trong tương lai. Thông thường nó tưởng tượng đến
các tình huống trắc trở cùng các hậu quả xấu, và như
thế người ta gọi đó là nỗi lo âu. Đôi khi cuốn băng ghi
âm này có kèm theo các hình ảnh rõ nét hay “các liên khúc
phim do tâm trí chế tác”. Cho dù tiếng nói này có liên quan
đến tình huống ngay trước mắt, thì nó cũng sẽ cắt nghĩa
tình huống ấy theo ngôn từ quá khứ. Sở dĩ như vậy bởi
vì tiếng nói này thuộc về tâm trí bị quy định của bạn,
và tâm trí này vốn là kết quả của toàn bộ các diễn biến
trong quá khứ của cá nhân bạn cũng như của linh hồn văn
hóa cộng đồng mà bạn thừa hưởng được. Vì vậy bạn
ngắm nhìn và phán xét hiện tại thông qua con mắt quá khứ,
thế là cái nhìn của bạn về hiện tại hoàn toàn bị biến
dạng đi, không còn đúng với thực tại nữa. Trường hợp
tiếng nói này trở thành kẻ thù tệ hại nhất của con người
không phải là hiếm thấy trong cuộc sống thường ngày. Nhiều
người sống với sự giày vò này trong đầu, nó thường xuyên
tấn công và trừng phạt họ, vắt kiệt sức lực của họ.
Đó là nguyên nhân của mọi khốn khổ và buồn phiền câm
nín, cũng là nguyên nhân của các căn bệnh tâm thần.
Tin
tốt lành là bạn có thể giải phóng bản thân thoát khỏi
tâm trí của bạn. Đây là tự do duy nhất chân chính. Bạn
có thể cất bước khởi đầu ngay bây giờ. Hãy bắt đầu
lắng nghe tiếng nói trong đầu bạn thường xuyên hơn. Hãy
đặc biệt chú ý đến cái lối suy tư lặp đi lặp lại,
giống như chiếc máy ghi âm cũ phát đi phát lại trong đầu
bạn từ nhiều năm rồi. Hành động này gọi là “quan sát
chủ thể tư duy”, hay nói cách khác là lắng nghe tiếng nói
trong đầu bạn, hãy hiện diện ở đó như là chứng nhân.
Khi
lắng nghe tiếng nói đó, bạn hãy lắng nghe nó một cách vô
tư, tức là đừng phán xét nó. Đừng phán xét hay kết án
những gì bạn nghe được, bởi vì làm như thế có nghĩa là
mở ngõ cho tiếng nói ấy quay lại qua cánh cửa phía sau. Bạn
sẽ nhanh chóng nhận ra được: kia là tiếng nói, và đây là
tôi đang lắng nghe nó, quan sát nó. Nhận biết được hiện
trạng tôi đang là, tức là cảm nhận sự hiện trú của chính
mình, không phải là một ý tưởng hay suy nghĩ. Nó phát khởi
từ bên ngoài phạm vi của tâm trí.
-ooOoo-
Cho
nên khi lắng nghe một ý nghĩ, bạn nhận biết không chỉ ý
nghĩ đó mà còn nhận biết bản thân bạn như là chứng nhân
của ý nghĩ đó. Một chiều kích mới của ý thức xuất hiện
khi bạn lắng nghe ý nghĩ đó, bạn cảm nhận sự hiện trú
hữu thức – tự ngã sâu thẳm của bạn – đằng sau hay
bên dưới ý nghĩ đó, có thể nói như vậy. Lúc ấy ý nghĩ
đó mất đi sức mạnh khống chế bạn và nhanh chóng chìm
lắng đi, bởi vì bạn không còn cung cấp năng lượng cho tâm
trí thông qua việc đồng hóa với nó. Đây là khởi đầu
của việc ngưng dứt dòng suy nghĩ tự phát và có tính cưỡng
chế.
Khi
một ý nghĩ chìm lắng đi, bạn thể nghiệm sự gián đoạn
trong dòng chảy của tâm trí – một khoảnh khắc “vô niệm”.
Thoạt đầu, các khoảnh khắc này ngắn ngủi, có lẽ chỉ
kéo dài vài giây đồng hồ, nhưng dần dà chúng sẽ kéo dài
lâu hơn. Khi các khoảnh khắc này xuất hiện, bạn sẽ cảm
thấy tĩnh lặng và thanh thản trong lòng. Đây là khởi đầu
của trạng thái tự nhiên cảm thấy mình hợp nhất làm một
với Bản thể hiện tiền, vốn thường bị che mờ bởi tâm
trí. Nhờ thường xuyên thực tập, cảm giác về sự tĩnh
lặng và thanh thản sẽ trở nên sâu sắc hơn. Trên thực tế,
tình trạng sâu lắng này không hề có chỗ tận cùng. Bạn
cũng sẽ cảm thấy sự lan tỏa vi diệu của niềm vui phát
khởi từ tận đáy lòng: đó là niềm vui của Bản thể hiện
tiền.
Đây
không phải là trạng thái hôn trầm. Hoàn toàn không phải
như vậy. Ở đây ý thức không bị biến mất, mà ngược
lại. Nếu cái giá phải trả của sự thanh thản là hạ thấp
ý thức, và cái giá của sự tĩnh lặng là mất đi sinh khí
và mất nhạy bén, vậy thì không đáng để bạn có được
chúng. Trong trạng thái nối kết, cộng thông nội tại này,
bạn sẽ nhạy bén hơn, tỉnh táo hơn so với trạng thái bị
đồng hóa tâm trí. Bạn lưu trú toàn triệt trong hiện tiền.
Tình hình này cũng nâng cao tần số rung động của trường
năng lượng vốn đem lại sức sống cho cơ thể vật chất
của bạn.
Khi
bạn tiến sâu hơn nữa và lãnh địa “vô niệm”, như cách
gọi ở phương Đông, bạn thể hiện được trạng thái ý
thức thuần khiết. Trong trạng thái đó, bạn cảm thấy sự
hiện diện của chính mình một cách mãnh liệt và với sự
hân hoan đến nỗi mọi suy nghĩ, mọi cảm xúc, cả thể xác
của bạn, cũng như toàn bộ thế giới bên ngoài trở nên
khá vô nghĩa khi so với nó. Và tuy vậy, đây không phải là
trạng thái vị ngã, mà thực ra là trạng thái vô ngã. Nó
đưa bạn vượt ra ngoài cái mà trước kia bạn vẫn nghĩ là
“cái tôi của bạn”. Cái hiện tiền đó cốt yếu chính
là bạn, và đồng thời lại vĩ đại hơn bạn. Những điều
tôi cố gắng nói ở đây có vẻ nghịch lý hay thậm chí mâu
thuẫn, nhưng tôi không biết cách miêu tả nào khác.
-ooOoo-
Thay
vì “quan sát chủ thể tư duy”, bạn cũng có thể tạo ra
một khoảng hở trong dòng chảy của tâm trí đơn giản bằng
cách hướng trọng tâm chú ý của bạn vào cái Bây giờ. Chỉ
cần ý thức mạnh mẽ về khoảnh khắc hiện tại. Làm được
điều này bạn sẽ thấy thật vô cùng thú vị. Bằng cách
đó, bạn tách ý thức ra khỏi hoạt động của tâm trí và
tạo ra một khoảng hở vô niệm, trong đó bạn rất tỉnh
táo nhận biết mọi thứ, nhưng không hề suy nghĩ chút nào
cả. Đây là tinh hoa của thiền định.
Trong
cuộc sống thường ngày, chúng ta có thể thực tập điều
này bằng cách xem bất kỳ hoạt động bình thường hàng ngày
cũng có thể là một cơ hội để rèn luyện và chú tâm toàn
triệt vào nó, để chính nó cũng trở thành mục tiêu hướng
tới. Chẳng hạn, mỗi lần lên xuống cầu thang trong nhà hay
nơi làm việc, hãy chú tâm thật kỹ vào mỗi bước chân,
mỗi động tác di chuyển, cả đến hơi thở của bạn nữa.
Hãy lưu trú toàn triệt vào hiện tại. Hoặc khi rửa tay, bạn
hãy chú tâm đến mọi giác quan liên hệ đến hoạt động
này: tiếng nước chảy, cảm giác nước chảy trên tay, cứ
động của đôi bàn tay, mùi thơm của xà phòng… Hoặc khi
ngồi vào ô tô, sau khi đóng cửa xe bạn hãy ngưng lại vài
giây để theo dõi hơi thở trước khi cho xe chạy đi. Hãy tập
nhận biết cảm giác về sự hiện trú của mình trong hiện
tại, nó rất lặng lẽ nhưng đầy năng lực.
Có
một tiêu chuẩn xác định mức độ thành công của bạn khi
thực tập điều này: đó là mức độ thanh thản mà bạn
cảm thấy trong lòng.
-ooOoo-
Thế
là bước đi duy nhất tối hệ trọng trong cuộc du hành tiến
đến giác ngộ của bạn là: học cách từ bỏ sự đồng
hóa với tâm trí của bạn. Mỗi khi tạo được một khoảng
hở trong dòng chảy của tâm trí của bạn. Mỗi khi tạo được
một khoảng hở trong dòng chảy của tâm trí, thì ánh sáng
của ý thức bạn càng mạnh mẽ hơn.
Một
ngày kia bạn có thể bắt gặp chính bạn mỉm cười với
tiếng nói trong đầu bạn, giống như bạn mỉm cười với
các trò hề của một đứa trẻ vậy. Điều này có nghĩa
là bạn không còn xem nội dung của tâm trí bạn quá hệ trọng
như trước đây nữa, bởi vì cảm nhận về cái tôi của
bạn không còn lệ thuộc vào nó nữa.
Giác
ngộ: vượt lên trên tư duy
Chẳng
phải tư duy là điều kiện tối cần thiết để tồn tại
trong thế giới này sao?
Tâm
trí của bạn là một phương tiện, một công cụ. Nó ở đó
để được sử dụng cho một nhiệm vụ đặc biệt, và khi
nhiệm vụ ấy được hoàn tất, bạn cất công cụ đi. Có
thể nói rằng khoảng 80% đến 90% suy nghĩ của hầu hết mọi
người không chỉ lặp đi lặp lại một cách vô ích, mà do
vì bản chất sai lệch và thường là tiêu cực của nó, nên
phần lớn các suy nghĩ ấy lại còn tác hại nữa. Hãy quan
sát tâm trí của mình rồi bạn sẽ thấy đúng như vậy. Tình
hình này khiến cho sinh lực của bạn bị thất thoát nghiêm
trọng.
Loại
suy nghĩ có tính cưỡng chế này thực sự là một thói nghiện
ngập. Nghiện ngập có đặc điểm gì? Rất đơn giản, bạn
không còn cảm thấy mình có quyền chọn lựa lúc nào suy nghĩ
và lúc nào nên dừng lại. Dường như nó mạnh mẽ hơn bạn.
Nó cũng khiến cho bạn cảm nhận sai lệch về lạc thú, và
lạc thú ấy luôn biến thành khổ đau.
Tại
sao chúng ta cứ phải miên man suy nghĩ?
Bởi
vì bạn bị đồng hóa với sự suy nghĩ, tức là bạn tìm
thấy cái tôi của mình từ chính nội dung và hoạt động
của tâm trí bạn. Bởi vì bạn tin rằng mình sẽ không còn
hiện hữu nữa nêu bạn ngưng suy nghĩ. Khi trưởng thành dần
lên, bạn kiến tạo trong tâm trí một hình ảnh về con người
của bạn, căn cứ vào hoàn cảnh sinh hoạt cá nhân và bối
cảnh văn hóa cộng đồng của bạn. Chúng ta có thể gọi
cái tôi hão huyền này là tự ngã. Nó bao gồm các hoạt động
của tâm trí và chỉ có thể tiếp tục tồn tại được nhờ
không ngừng suy nghĩ. Thuật ngữ tự ngã (ego) có nghĩa là
những sự việc khác biệt nhau đối với những con người
khác nhau, nhưng ở đây nó có nghĩa là cái tôi giả tạo,
được kiến tạo một cách bất thức bởi tâm trí.
Đối
với tự ngã, khoảnh khắc hiện tại thật khó lòng hiện
hữu. Chỉ có quá khứ và tương lai mới được xem là quan
trọng. Sự đảo lộn chân lý hoàn toàn như vậy lý giải
cho sự kiện là theo phương thức của tự ngã, tâm trí vận
hành quá ư lệch lạc. Tự ngã cứ luôn bận tâm giữ cho quá
khứ còn sống mãi, bởi vì không có quá khứ thì bạn là
ai kia chứ? Nó lại hằng hằng phóng chiếu tự thân vào tương
lai để bảo đảm rằng nó còn tiếp tục tồn tại, và để
tìm kiếm một loạt giải thoát hay đáp ứng nào đó ở đấy.
Nó bảo: “Một ngày kia, khi việc này, việc kia, hay việc
khác xảy ra, thì tôi sẽ ổn, sẽ hạnh phúc, sẽ thanh thản”.
Cho dù tự ngã có vẻ cũng có đả động đến hiện tại,
thì đó cũng không phải là thứ hiện tại mà nó thấy: Tự
ngã ngộ nhận hoàn toàn bởi vì nó nhìn vào hiện tại bằng
nhãn quang của quá khứ. Hoặc giả nó giản lược hiện tại
thành một phương tiện để đạt được cứu cánh, một cứu
cánh luôn luôn nằm trong cái tương lai được phóng chiếu
bởi tâm trí. Hãy quan sát tâm trí của mình, bạn sẽ thấy
đây là cung cách vận hành cúa nó.
Khoảnh
khắc hiện tại nắm giữ chìa khóa để giải phóng bạn khỏi
bị đồng hóa với sự suy nghĩ. Nhưng bạn sẽ không tìm thấy
khoảnh khắc này bao lâu bạn còn là tâm trí của mình.
Tôi
không muốn đánh mất năng lực phân tích và biện biệt của
mình. Nói cho cụ thể hơn, tôi không phản đối việc học
cách suy nghĩ cho minh bạch hơn, nhưng tôi không muốn đánh
mất tâm trí. Tư duy là món quà quí giá nhất mà chúng ta nhận
được. Không có nó, có lẽ chúng ta chỉ là một loài động
vật nào khác thôi.
Sự
ưu thắng của tâm trí chẳng qua chỉ là một giai đoạn trong
cuộc tiến hóa của ý thức. Vấn đề cấp bách hiện nay
là chúng ta cần tiếp tục tiến lên giai đoạn kế tiếp;
nếu không, chúng ta sẽ bị hủy diệt bởi cái tâm trí vốn
đã phát triển thành một con quái thú. Chúng ta sẽ bàn đến
điểm này chi tiết hơn ở một đoạn sau. Tư duy và ý thức
không đồng nghĩa với nhau, bởi vì dù sao tư duy cũng chỉ
là một khía cạnh nhỏ bé của ý thức mà thôi. Sự suy nghĩ
không thể tồn tại nếu không có ý thức, nhưng ý thức không
cần đến tư duy mới tồn tại được.
Giác
ngộ có nghĩa là vượt lên trên tư duy, chứ không rơi trở
xuống mức độ động vật hay thực vật, tức là bên dưới
mức độ tư duy. Ở trạng thái tỏ ngộ, bạn vẫn sử dụng
khả năng tư duy của mình khi cần thiết, nhưng theo cách thức
tập trung và hiệu quả hơn nhiều so với trước đây. Bạn
sử dụng nó phần lớn nhằm phục vụ các mục tiêu thực
dụng, nhưng bạn thoát khỏi tình trạng cưỡng chế đối
thoạt trong đầu, và được tĩnh lặng nội tại. Khi bạn
thực sự sử dụng tâm trí, nhất là trong trường hợp cần
đến một giải pháp sáng tạo, thì cứ khoảng vài phút bạn
lại dao động giữa suy nghĩ và tĩnh lặng tức là giữa tâm
trí và vô niệm. Vô niệm là trạng thái ý thức không có
suy nghĩ. Chỉ bằng cách đó người ta mới có thể tư duy
sáng tạo, bởi vì chỉ bằng cách đó tư duy mới có sức
mạnh thực sự. Khi không còn nối kết với lãnh vực ý thức
bao la hơn nhiều, chỉ một mình thôi tư duy sẽ nhanh chóng
trở nên cằn cỗi, điên rồ và có tính phá hoại.
Tâm
trí cốt yếu là một cỗ máy phục vụ cho sự tồn tại.
Nó tấn công và phòng ngự chống lại các bộ óc khác bằng
cách thu thập, lưu trữ và phân tích thông tin – đây là việc
làm mà tâm trí có biệt tài, nhưng lại hoàn toàn không có
tính sáng tạo. Tất cả các nghệ sĩ chân chính, dù có biết
hay không, đều sáng tạo từ vùng vô niệm, từ sự tĩnh lặng
nội tại. Rồi tâm trí mới ban tặng hình hài cho thôi thúc
hay nhận thức sáng tạo. Ngay những nhà khoa học vĩ đại
cũng thuật lại rằng các phát minh sáng tạo của họ xuất
hiện vào thời điểm tâm trí thanh thản.
Kết
quả đáng kinh ngạc của cuộc điều tra tìm hiểu phương
pháp làm việc của các nhà toán học nổi tiếng nhất nước
Mỹ, trong đó có cả Einstein, cho thấy sự suy nghĩ “chỉ
đóng một vai trò phụ thuộc trong giai đoạn ngắn ngủi có
tính quyết định của bản thân hành vi sáng tạo”. Do đó,
có thể nói rằng nguyên nhân đơn giản khiến cho đa số các
nhà khoa học không có năng lực sáng tạo không phải vì họ
không biết cách tư duy, mà bởi vì họ không biết cách ngưng
dứt suy nghĩ!
Không
phải nhờ tâm trí, nhờ tư duy mà sự sống trên quả đất
hay chính cơ thể bạn mới được sáng tạo và tồn tại lâu
dài như một phép lạ. Hiển nhiên phải có một linh giác,
một trí thông minh vốn tuyệt vời hơn tâm trí nhiều, đang
hoạt động. Một tế bào duy nhất trong cơ thể con người
có đường kính khoảng 1/1000 inch làm thế nào lại có thể
chứa đựng các thông tin bên trong DNA của nó với dung lượng
chiếm khoảng 1000 cuốn sách dày đến 600 trang mỗi cuốn?
Càng học hỏi về cách vận hành của cơ thể con người,
chúng ta càng nhận thấy cái linh giác đang hoạt động bên
trong nó thật bao la biết bao và kiến thức của chúng ta thật
nhỏ bé biết chừng nào. Khi tâm trí tái kết nối với linh
giác ấy, nó sẽ trở thành một công cụ kỳ diệu bậc nhất.
Lúc ấy nó sẽ phục vụ cho một cái gì đó còn vĩ đại
hơn cả bản thân nó nữa.
Xúc
cảm: phản ứng của cơ thể đối với tâm trí của bạn
Còn
các xúc cảm thì sao? So với tâm trí tôi thấy mình bị cuốn
hút vào các xúc cảm hơn.
Theo
cách dùng chữ ở đâu, tâm trí không chỉ là tư duy mà thôi.
Nó còn bao gồm các xúc cảm cũng như tất cả các khuôn mẫu
phản ứng tâm trí – xúc cảm một cách bất thức nữa. Xúc
cảm nảy sinh ở chỗ mà tâm trí và thân xác gặp gỡ nhau.
Nó chính là chỗ phản ứng của cơ thể đối với tâm trí
của bạn – hay bạn có thể nói rằng nó là phản ánh của
tâm trí trong cơ thể của bạn. Chẳng hạn, ý nghĩ tấn công
hay thù địch sẽ tích lũy năng lượng trong cơ thể mà chúng
ta gọi là nổi giận. Lúc ấy cơ thể đã sẵn sàng chiến
đấu. Còn ý nghĩ cho rằng bạn đang bị đe dọa, về thể
xác hoặc tâm lý, khiến cho cơ thể co rút lại, chính là khía
cạnh vật chất của cái chúng ta gọi là sợ hãi. Các công
trình nghiên cứu đã chứng minh rằng các xúc cảm mãnh liệt
thậm chí có thể làm thay đổi cả đến tình trạng sinh hóa
trong cơ thể. Các thay đổi sinh hóa này tượng trưng cho khía
cạnh vật chất của xúc cảm. Dĩ nhiên, bạn thường không
biết rõ tất cả các khuôn mẫu suy nghĩ của mình, và thông
thường chỉ qua quan sát các xúc cảm nảy sinh bạn mới có
thể hiểu được chúng.
Càng
bị đồng hóa với sự suy nghĩ, với các yêu thích và ghét
bỏ, với các phán xét và giải thích, tức là bạn càng ít
hiện trú như là chủ thể quan sát một cách tỉnh táo, thì
năng lượng xúc cảm tích tụ lại sẽ càng mạnh mẽ, cho
dù bạn có biết rõ hay không. Nếu bạn không thể cảm nhận
các xúc cảm của mình, nếu bạn bị tách rời khỏi chúng,
thì sau cùng bạn sẽ trải nghiệm chúng ở mức độ thuần
túy thể xác dưới dạng một rối loạn hay triệu chứng bệnh
ở cơ thể. Trong mấy năm gần đây có rất nhiều tác phẩm
bàn về vấn đề này, cho nên ở đây chúng ta không cần đi
sâu vào. Một khuôn mẫu xúc cảm bất thức mạnh mẽ thậm
chí có thể thị hiện dưới dạng một biến cố bên ngoài
dường như xảy ra chỉ nhằm vào bạn thôi. Chẳng hạn, tôi
đã từng quan sát những người chất chứa nhiều oán giận
bên trong mà không biết và cũng không phát tiết ra được
thường rất dễ bị tấn công – bằng lời lẽ hoặc thậm
chí bằng bạo lực vật chất – bởi những con người đầy
giận dữ khác, và thường không vì nguyên nhân rõ rệt nào
cả. Ở họ toát ra khí vị giận dữ đánh vào tiềm thức
của một số người khác, và kích hoạt lòng oán hận
tiềm ẩn của chính những người này.
Nếu
thấy khó cảm nhận các xúc cảm của mình, bạn hãy bắt
đầu bằng cách tập trung chú ý vào trường năng lượng nội
tại của cơ thể. Hãy cảm nhận cơ thể từ bên trong. Tình
hình này cũng giúp bạn tiếp cận các xúc cảm của mình.
Chúng ta sẽ khám phá điểm này chi tiết hơn ở một đoạn
sau.
-ooOoo-
Ông
nói rằng xúc cảm là phản ánh của tâm trí in vào cơ thể.
Nhưng đôi khi có sự xung đột giữa hai bên: tâm trí bảo
“không” trong khi xúc cảm bảo “có”, hoặc ngược lại.
Nếu
bạn thực sự muốn biết rõ tâm trí của mình, cơ thể sẽ
luôn luôn phản ảnh sự thực cho bạn, vì vậy hãy quan sát
xúc cảm, hay đúng ra hãy cảm nhận nó trong cơ thể. Nếu
có sự xung đột hiển nhiên giữa hai bên thì ý nghĩ thường
dối trá, còn xúc cảm thường thật thà. Nhưng đó không phải
là sự thật tối hậu về con người bạn, mà chỉ là sự
thật tương đối về trạng thái tâm trí của bạn vào lúc
bấy giờ.
Xung
đột giữa các ý nghĩ hời hợt và các tiến trình tâm trí
bất thức chắc chắn thường xảy ra. Có lẽ bạn chưa có
khả năng đưa hoạt động tâm trí bất thức hiện rõ thành
các ý nghĩ, nhưng nó sẽ luôn luôn được phản ánh trong cơ
thể dưới dạng xúc cảm và bạn có thể hiểu rõ xúc cảm
này. Quan sát một xúc cảm theo cách này về căn bản cũng
giống như lắng nghe hoặc quan sát một ý nghĩ, mà tôi đã
miêu tả trên đây. Khác biệt duy nhất là trong khi ý nghĩ
ở trong đầu bạn, thì xúc cảm có một thành tố vật chất
mạnh mẽ, và vì vậy nó cốt yếu có thể được cảm nhận
trong cơ thể. Lúc ấy bạn có thể để cho xúc cảm hiện
hữu ở đó mà không bị nó chi phối. Bạn không còn là xúc
cảm ấy nữa, bạn là chủ thể quan sát, bạn hiện trú để
quan sát nó. Thường xuyên thực hành như vậy, tất cả những
hoạt động tâm trí bất thức của bạn sẽ được đưa ra
trước ánh sáng của ý thức.
Vì
vậy, quan sát các xúc cảm cũng quan trọng không kém so với
quan sát các ý nghĩ sao?
Phải.
Hãy tạo thói quen tự đặt cho mình câu hỏi: Cái gì đang
diễn ra bên trong tôi vào khoảnh khắc này? Câu hỏi ấy sẽ
chỉ bạn đi đúng hướng. Nhưng đừng phân tích, chỉ đơn
thuần quan sát thôi. Hãy tập trung chú ý vào bên trong, để
cảm nhận năng lượng của xúc cảm. Nếu không có xúc cảm
nào hiện hành, hãy chú ý sâu hơn nữa vào trường năng lượng
nội tại của cơ thể bạn. Đó là cánh cổng mở vào Bản
thể hiện tiền.
-ooOoo-
Một
xúc cảm thường biểu thị cho một khuôn mẫu suy nghĩ
được cung cấp năng lượng và khuếch đại lên, và do vì
năng lượng tích tụ lại quá sức chịu đựng, cho nên khởi
thủy bạn không dễ gì hiện trú đúng mức để quan sát được
nó. Nó muốn khống chế bạn, và thường thì nó thành công
trừ phi bạn có thể hiện trú đúng mức. Nếu bạn bị lôi
cuốn vào tình trạng đồng hóa một cách bất thức với cảm
xúc do thiếu sự hiện trú, bình thường là như vậy, cảm
xúc ấy tạm thời trở thành “bạn”. Thông thường một
vòng luẩn quẩn hình thành giữa suy nghĩ và cảm xúc: chúng
nuôi dưỡng lẫn nhau. Khuôn mẫu suy nghĩ tạo ra một phản
ảnh khuếch đại của chính nó dưới dạng một xúc cảm,
và tần số rung động của xúc cảm ấy tiếp tục nuôi dưỡng
khuôn mẫu suy nghĩ ban đầu. Nhờ lưu trú ở hoàn cảnh, biến
cố, hay con người mà nó xem là nguyên nhân gây ra xúc cảm,
ý nghĩ cung ứng năng lượng cho xúc cảm ấy, rồi xúc cảm
ấy lại cung cấp năng lượng cho khuôn mẫu suy nghĩ, và vân
vân….
Tựu
trung lại, tất cả mọi xúc cảm đều là các biến thể của
một xúc cảm nguyên thủy duy nhất nảy sinh từ trạng thái
bất thức của con người đích thực vượt ra ngoài danh xưng
và hình tướng của bạn. Do bản chất vô phân biệt của
nó, thật khó lòng tìm ra được một cái tên để miêu tả
chính xác các xúc cảm này. Thuật ngữ “sợ hãi” tuy
có ý nghĩa khá gần gũi, nhưng ngoài cảm giác bị đe dọa
không ngừng, nó còn hàm ngụ cảm giác bị bỏ rơi vào bất
toàn sâu sắc. Có lẽ tốt nhất nên dùng một thuật ngữ
vốn cũng vô phân biệt giống như xúc cảm căn bản ấy, và
đơn giản gọi nó là “đau khổ”. Một trong các nhiệm vụ
căn bản của tâm trí là chiến đấu chống lại hay loại
bỏ cảm giác đau khổ, vốn là một trong các lý do khiến
cho tâm trí hoạt động không ngơi nghỉ, nhưng tất cả mọi
việc nó có thể thực hiện được chỉ nhằm tạm thời che
đậy nỗi đau khổ ấy mà thôi. Thực ra, tâm trí càng cực
lực đấu tranh để loại trừ đau khổ, thì đau khổ càng
to lớn hơn. Có lẽ tâm trí không bao giờ tìm ra được giải
pháp, mà nó cũng không cho phép bạn làm như thế, bởi vì
bản thân nó vốn là một trong các nguyên nhân nội sinh gây
ra “vấn đề”. Hãy hình dung viên cảnh sát trưởng đang
cố gắng phát hiện ra thủ phạm cố tình gây hỏa hoạn trong
khi thủ phạm này chính là viên cảnh sát trưởng ấy. Bạn
sẽ không thoát khỏi nổi đau khổ ấy cho đến khi bạn ngưng
cảm nhận về Cái Tôi từ trạng thái đồng hóa với tâm
trí, tức là tự ngã. Lúc ấy tâm trí bị lật đổ khỏi
vị trí quyền lực của nó, và Bản thế hiện tiền tự hiển
lộ ra như bản tính đích thực của bạn.
Vâng,
tôi biết rõ câu hỏi bạn sẽ nêu ra.
Câu
hỏi ấy là: Còn các tình cảm tích cực như yêu thương và
niềm vui thì sao?
Chúng
không thể tách rời khỏi trạng thái cộng thông nội tại
tự nhiên của bạn với Bản thế hiện tiền. Tình yêu và
niềm vui thoáng chốc hay những khoảnh khắc tuy ngắn ngủi
mà sâu sắc có thể hiện hữu bất cứ lúc nào có một khoảng
hở xuất hiện trong dòng chảy tư duy. Đối với hầu hết
mọi người, những khoảng hở như thế hiếm khi xảy ra và
chỉ xảy ra tình cờ vào những khoảnh khắc khi tâm trí rơi
vào tình trạng “vô ngôn”, đôi khi chúng cũng bị kích hoạt
bởi một vẻ đẹp tuyệt vời, bởi sự gắng sức cực độ
ở thể xác, hay thậm chí bởi mối nguy hiểm lớn lao. Lúc
ấy thình lình xuất hiện sự tĩnh lặng nội tại. Và bên
trong cái tĩnh lặng đó có một niềm vui tế nhị mà mãnh
liệt, rồi tình yêu và sự thanh thản tuôn trào ra.
Thông
thường những khoảnh khắc như thế thật ngắn ngủi, bởi
vì tâm trí lại nhanh chóng tiếp tục hoạt động gây huyên
náo của nó mà chúng ta gọi là tư duy. Tình yêu, niềm vui,
và sự thanh thản không thể triển nở cho đến khi bạn giải
thoát bản thân mình ra khỏi sự thống trị của tâm trí.
Nhưng chúng không phải là cái mà tôi gọi là xúc cảm hay
tình cảm. Chúng vượt quá phạm vi các xúc cảm, nằm ở mức
độ sâu thẳm hơn nhiều. Cho nên bạn cần phải triệt ngộ
các xúc cảm của mình để có thể cảm nhận chúng, nhiên
hậu mới có thể cảm nhận được những thứ vượt quá
phạm vi của chúng. Theo nghĩa đen, xúc cảm có nghĩa là “rối
loạn”, nó xuất phát từ tiếng La Tinh emovere có nghĩa là
“gây rối”.
Tình
yêu, niềm vui, và thanh thản là những trạng thái sâu sắc
của Bản thể hiện tiền. Như vậy, chúng không có đối cực.
Đây là vì chúng nảy sinh từ cái vượt quá phạm vi của
tâm trí. Ngược lại, là một bộ phận của tâm trí có tính
nhị nguyên, các xúc cảm lệ thuộc vào qui luật đối đãi.
Điều này đơn giản có nghĩa là bạn không thể có tốt mà
không có xấu. Cho nên trong điều kiện bị đồng hóa với
tâm trí, thiếu tỏ ngộ, thì cái tôi khi được gọi là một
cách sai lầm niềm vui thường là khía cạnh lạc thú ngắn
ngủi của cái vòng luẩn quẩn khổ đau/lạc thú. Lạc thú
luôn luôn được tiếp nhận từ thứ gì đó bên ngoài bạn,
trong khi niềm vui tuôn trào từ bên trong. Chính sự vật đem
lại lạc thú cho bạn hôm nay thì mai kia có thể khiến cho
bạn phải đau khổ, hay nó sẽ rời bỏ bạn, và sự thiếu
vắng nó sẽ đem lại đau khổ cho bạn. Và cái thường được
gọi là tình yêu có thể là khoái lạc và hưng phấn trong
chốc lát, nhưng lại là sự bám víu nghiện ngập, là tình
trạng thiếu thốn cực độ khả dĩ vụt chốc biến thành
đối cực của nó. Nhiều mối quan hệ “tình yêu”, sau khi
trạng thái phấn khởi ban đầu đã qua đi, thực ra luôn dao
động giữa hai đối cực yêu thương và căm ghét, giữa cuốn
hút và công kích lẫn nhau.
Tình
yêu và đích thực không làm cho bạn thống khổ. Làm sao như
thế được? Nó cũng không đột ngột biến thành căm ghét,
và niềm vui đích thực cũng không biến thành đau khổ? Như
đã nói, thậm chí trước khi tỏ ngộ – trước khi tự giải
thoát khỏi tâm trí của mình – bạn có thể thoáng thấy
niềm vui đích thực, tình yêu đích thực, hay thoáng thấy
sự thanh thản nội tại sâu sắc tuy tĩnh lặng mà sống động
rực rỡ. Đây là những sắc thái trong bản tính đích thực
của bạn, vốn thường xuyên bị tâm trí che khuất đi. Ngay
bên trong một quan hệ say nghiệm “bình thường”, người
ta cũng có thể cảm nhận được những khoảnh khắc có sự
hiện diện của một thứ gì đó chân thực, một thứ gì
đó không thể hủy hoại được. Nhưng chúng chỉ là những
thoáng hiện, chẳng bao lâu sẽ lại bị che khuất đi bởi
sự can thiệp của tâm trí. Lúc ấy bạn dường như đã sở
hữu vật gì đó rất quí giá rồi đánh mất nó đi, hoặc
giả tâm trí có thể thuyết phục bạn rằng dù sao tất cả
chỉ là ảo tưởng mà thôi. Sự thực đó không phải là ảo
tưởng, và bạn không thể đánh mất nó được. Nó là một
phần thuộc trạng thái tự nhiên của bạn, vốn có thể bị
che khuất nhưng không bao giờ có thể bị tâm trí hủy diệt
được. Cho dù bầu trời có u ám vì mây đen bao phủ, thì
mặt trời cũng không biến đi đâu được. Nó vẫn còn đó
đằng sau những đám mây mù.