3-Luận
Đại Thừa Khai Tâm Hiển Tánh Đốn Ngộ Chơn Tông của Thiền
Sư Đại Chiếu
VẠN
PHÁP QUI TÂM LỤC
Cuốn
VẠN PHÁP QUI TÂM LỤC này do Thiền Sư Tổ Nguyên người Trung
Quốc trước tác vào đời vua Khang Hi năm thứ 15 (1676 T.L)
nhà Thanh.
Ngài
Tổ Nguyên là một vị thiền sư đắc đạo nổi tiếng của
Trung Quốc thời bấy giờ. Ngài nối pháp dòng Lâm Tế đời
thứ 33, là đệ tử của Thượng Lam Thiên Phong Hòa Thượng
ở Giang Tây, ngài trụ núi Tiểu Dương ở Yên Kinh, thủ đô
nhà Thanh, ngày nay thuộc Bắc Bình.
Quyển
Lục này chẳng những là một tài liệu vô giá cho những vị
đang nghiên cứu và tu theo Thiền Tông, mà lại còn là tài
liệu qúi cho những vị đang tu theo đạo Tiên, đạo Nho, tất
cả đều được ngài Tổ Nguyên phân tích một cách rõ ràng
về chỗ sổ trường và sở đoản của mỗi nhà, và đưa
ra một phương pháp dẫn đạo rất thích đáng.
Chúng
tôi dịch quyển Lục này với chủ đích: thứ nhất là làm
tài liệu tu học cho Tu viện; thứ hai là giúp tài liệu cho
những vị đang nghiên cứu và tu theo Thiền Tông; thứ ba là
để minh định đường lối tu tập của Tu Viện Chơn Không.
Hiện
tại khi nói đến tu thiền, người ta thường nghĩ đến hoặc
là tu theo thiền Minh Sát của Nguyên thủy, hoặc là tu theo
những phương pháp của ngoại đạo như YOGA, như phương pháp
“Chuyển pháp luân” (cho tư tưởng chạy vòng theo châu thân),
phương pháp Thai Tức của Tiên gia (luyện tinh hóa khí, luyện
khí hóa thần...)... Họ đinh ninh Thiền Tông đã chết ở Việt
Nam và nhường chỗ cho Tịnh Độ Tông và ngoại đạo. Quyển
Lục này và những quyển sách do Tu Viện Chơn Không xuất bản
là để trả lời rằng Thiền Tông vẫn còn sống ở Việt
Nam và hiện có người đang tu.
Quyển
Lục này chúng tôi dịch theo bản của thầy Tỳ kheo Thừa
giới và Định Huệ khắc bảng in vào năm Quang Tự thứ 34
(1908 T.L). Chúng tôi có lượng bớt lời tựa của Tiến sĩ
Kim Hoằng, tiến sĩ Trịnh Tế Thái cả hai đều giữ chức
vụ quan trọng trong Hàn Lâm Viện triều Khang Hi, ông Kỳ Huân
Mộc làm chức cao Mật Nhiệm ở bộ Hồng Chương, lời bạt
của nhóm người tái bản, lời bạt của ông Thông Tế Tổ
Quán. Theo lời tựa của tác giả có nói đến phần phụ lục
gồm mười hai bài kệ tuyệt cú tựa là “Độn Thế Sơn
Cư”, nhưng ở bản này chúng tôi không thấy.
Chúng
tôi dịch quyển lục này là do sự khuyến khích của bổn
sư chúng tôi là Thượng Tọa Thích Thanh Từ, và sau khi dịch
xong chúng tôi có trình cho người giảo chính lại. Tuy thế,
nhưng chắc thế nào cũng có điều sơ sót, xin độc giả lượng
thứ cho.
Tu
Viện Chơn Không Trung Thu năm Quý Sửu (1973)
Tỳ
kheo THÍCH ĐẮC PHÁP
LỜI
GIỚI THIỆU
Tâm
là thể của muôn pháp, muôn pháp là dụng của tâm. Pháp chẳng
lìa tâm, ngay sóng là nước. Thể hay phát dụng, như nước
động thành sóng. Thế nên biết, tất cả pháp là tâm vậy.
Tâm
vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người,
trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm pháp là
A tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú. Nhiễm tịnh tuy sai
khác, nhưng tóm lại là bóng dáng của tâm. Nếu ngộ chơn
tâm vốn không (rỗng), muôn pháp tự nhiên tiêu mất.
Nay
thiền sư Tổ Nguyên ở núi Tiểu Dương, là cháu trong đạo
của Đổn Thôn Phù Thạch Lão Nhơn, là đệ tử của Thượng
Lam Thiên Phong Hòa Thượng ở Giang Tây. Ngài nghiên cứu thông
suốt giáo điển, thâm đạt Thiền Tông, liễu đệ nhất nghĩa
chứng tối thượng thừa, biện tài vô ngại, thật là cây
phướn pháp vậy. Thiền sư vì lòng thương muốn dẫn dụ
người hậu học, nên trao quyển “Qui Tâm Lục” để chỉ
thẳng cái diệu nguyên. Trong lục này, thật tế là mỗi lời
đều kiến tánh, mỗi câu đều minh tâm, có thể hay rửa sạch
tà chấp, quét trừ dị kiến, chứng thẳng Bồ Đề, thoắt
thành Phật đạo. Thật là thuyền từ nơi biển khổ, người
dẫn đường nơi lối rẽ.
Tôi
nhờ khánh hạnh đời trước mà gặp được sách này, liền
dứt hết hồ nghi, thấu rõ tâm địa. Tôi tài năng quá vụng
về, tri kiến lại cạn cợt, không đủ để phát minh lẽ
thâm áo. Nên lược viết lời tựa để tỏ lòng biết ơn
thầy.
Ngày
rằm tháng riêng, năm Đinh Tỵ, đời vua Khang Hi.
Cổ
Yến Thể Như Cư Sĩ Lưu Phương Mộc
Kính
đề
LỜI
NÓI ĐẦU
Trước
không kiếp, trước Phật Oai âm dương, Phật và chúng sanh
đều không có tên gọi, nhưng mỗi mỗi đều có đủ một
Viên Minh Cảnh.
Chúng
sanh vô cớ, từ trong tịnh bạch sáng suốt, biến sanh thế
giới chúng sanh nghiệp quả, sanh tử, tử sanh nối không dừng,
mê chìm trong ba cõi, mò mẫm trong chín loài, từ ấy đến
nay mê mờ không một ngày ngộ. Nếu chẳng chặt đứt dòng
lưu lãng mà trở về nguồn, thì lúc nào mới có thể giải
thoát?
Phải
ngộ muôn pháp trở về nhất tâm, là chuyển thế trí để
thành Phật trí. Có thể gọi là gom trăm dòng làm một tánh
ướt, nhồi bụi bặm lại làm một khối, nấu chảy vòng
xuyến làm một chất vàng. Biến tô lạc làm thành một vị.
Pháp nhất tâm này lý sự đều tròn đủ. Mười phương chư
phật, tất cả chúng sanh đều đồng tâm này, không thiếu
mà cũng không thừa. Chư phật đã giác ngộ, chúng sanh chẳng
nên biết, nên có tên phàm thánh mê ngộ.
Tôi
chẳng chịu rũ tay đứng nhìn, nên chỉ ra một con đường
chánh trở về tâm. Người xưa nói: “Trên đỉnh núi Diệu
Cao từ xưa đến nay chẳng cho bàn bạc, đầu non thứ hai chư
Tổ tóm lược dung hoà nói cho hiểu ”. Cho nên tôi mượn
văn vấn đáp để nói mười điều danh tướng hầu chứng
minh nhứt tâm, và cũng để bố thí cho tất cả hàm linh.
Mười
điều danh tướng gồm có: một là cảnh tỉnh kẻ thế tục,
để bỏ ác về thiện. Hai là cùng nhà Nho nghị luận để
quét trừ sự bài báng khác lạ. Ba là cùng Đạo gia biện
biệt chổn tà nguỵ, để chẳng hướng ngoài tìm cầu. Bốn
là Đốn ngộ tu chứng, vượt thẳng cảnh Phật. Năm là nói
sự sai biệt của Giáo và Thừa; nhỏ nhiệm chỉ bày nhất
tâm. Sáu là “Duy tâm tịnh độ”, để nói Phật chẳng từ
ngoài lại. Bảy là thiền phân năm tông mà lý không hai. Tám
là mười loại ma sự làm loạn chánh định, để dự phòng
và nuôi dưỡng đạo nghiệp. Chín là dẫn chứng lời kinh,
hầu đoạn trừ nghi ngờ, và nương vào đó mà sanh lòng tin.
Mười là khuyên nên in mà bố thí, hầu báo đáp ân Phật.
Tôi
thừa hưởng căn lành rất ít, chợt thấy được một góc
chỗ chí đạo, cho nên trình bày cái thấy hẹp hòi của tôi.
Xin các bậc cao minh phủ chính cho, thật tôi chẳng phải ức
kiến mà chỉ thuận theo Phật thừa. Nếu như có người học
đời sau, xem quyển lục này có sai, tôi xin tha thiết sám hối
những lỗi lầm về pháp của tôi. Nếu hợp với thành tâm,
trên y lời dạy mà vâng làm, ngày kia sẽ đồng đến hội
Long Hoa thọ ký thành Phật có phần.
Ngày
Phật thành đạo, tháng 12, đời vua Khang Hi năm thứ 15, nhà
Đại Thanh (T.L 1676)
Tổ
Nguyên Siêu Minh Thiền Sư
WP:
Hoàng Ngọc Anh