CHƯƠNG
VI
DUY
TÂM TỊNH ĐỘ
Tăng
hỏi: Tông môn (Thiền Tông) dạy tham thiền để minh tâm kiến
tánh. Pháp môn Tịnh Độ dạy niệm Phật cầu vãng sanh. Hai
pháp môn nầy độ khắp tất cả chúng sanh. Do đâu hàng học
giả bên Thiền Tông lại tự qui “Duy tâm tịnh độ”?
ĐÁP:
Tông chỉ của Thiền môn là “Liễu ngộ tự tâm”, một
niệm tâm tịnh tức Phật độ tịnh, chẳng bàn Đông Tây
mà chỉ tự tâm mình thôi.
HỎI:
Khai thị thế nào lại không tịnh độ?
ĐÁP:
Ông lại chẳng nghe kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu tâm chúng sanh
nhớ Phật và niệm Phật, thì hiện giờ và về sau nhất định
thấy Phật, cách Phật không xa, chẳng nhờ phương tiện tự
được tâm khai”. Như có người học, sáu căn đều nhiếp,
một niệm thuần chơn, tâm tịnh sáng suốt một mình, tức
là hiện tại thấy Phật. Cho nên nói “cách Phật chẳng xa”.
Kinh nói: “Chẳng nhờ phương tiện, tự được tâm khai”.
Hai chữ “tâm khai” nầy có thể hiểu là Duy tâm vậy.
HỎI:
Có người niệm Phật khi lâm chung Di Đà tiếp dẫn, việc
nầy không hư ngụy chứ?
ĐÁP:
Người niệm Phật nhứt tâm chẳng loạn, chuyên giữ Phật
hiệu, thuần chơn không vọng. Như nước lóng trong, trăng Phật
tự nhiên. Trăng vốn chẳng đến, nhơn nước trong nên thấy
hiện. Khi lâm chung Phật nghinh tiếp là tâm hiện Phật.
HỎI:
Nếu là Phật do tự tâm mình hiện, thì bản nguyện của A
Di Đà chẳng thật sao?
ĐÁP:
Thân Phật trạm nhiên không có đến có đi, niệm phật cơ
cảm, nương nguyện lực của Phật, do tự tâm biến hoá, Phật
đến tiếp dẫn, như nước hiện trăng, chẳng có chẳng không.
Thế nên biết, sự thật thì chăng có Phật đến. Tất cả
đều do thời cơ, đúng hợp với tịnh nghiệp đã thuần thục
thì mắt thấy thân Phật. Như ở đời quả ác sắp thành,
tâm hiện ra địa ngục để chịu khổ. Há chẳng nghe người
có phước nắm gạch thành vàng? Còn kẻ mang nghiệp bần hàn
thì biến vàng thành gạch.Cho nên sự thiện ác chỉ có tâm,
khổ vui do tâm biến hoá. Những kẻ ôm lòng nghi làm sao hiểu
được ý chỉ nầy?
HỎI:
Kinh nói: “Qua khỏi mười muôn ức cõi Phật về phương Tây
có thế giới của Phật tên là Cực Lạc”. Lời nói nầy
là hư, là thật?
ĐÁP:
Sự tuy như thế nhưng mà lý vốn ở trước mắt. Chẳng làm
mười nghiệp ác, thắng vượt mười vạn ức. Ba nghiệp thanh
tịnh cực lạc ở trước mắt.
HỎI:
Cảnh Thánh nơi Tây phương nào là vàng bạc trải khắp mặt
đất, lầu gác bao lơn, trang sức đẹp đẽ bằng bảy báu,
hoa sen năm màu, nước tám công đức, chim lạ nhả xương,
cây báu diễn pháp, sự ăn mặc nhà cửa, tuỳ ý hoá thành,
tất cả nhân dân được niềm vui lớn. Như những điều thù
thắng và kỳ lạ nầy quả thực có vậy.
ĐÁP:
Phật lúc tu nhơn,hành đạo Bồ tát, phát nguyện lực lớn,
thành tựu chúng sinh, không sao tính hết sự nhọc nhằn, làm
lợi ích nhiều cho mọi loài. Trải qua bao kiếp xa, rộng tu
phúc huệ, công đức tròn đầy chứng vào Phật vị. Kẻ học
đời sau thành tín niệm Phật, nương vào bi nguyện của Phật
lặng niệm hợp cơ, tâm hiện cảnh thù thắng, chẳng
phải từ ngoài đến.
HỎI:
Cảnh Thánh ở Tây phương vốn từ tâm mình hiện như vậy
việc vãng sanh thực có lý nầy hay không?
ĐÁP:
Sanh, nhất định là có sanh. Đi, vốn không đi (vổn vô khứ).
HỎI:
Thế nào là sanh, nhất định có sanh, đi vốn không đi?
ĐÁP:
Sanh ấy là niệm sanh, tâm hiện ra nước Phật. Đi ấy là
không đi, vì tánh vốn chẳng động.
HỎI:
Tôi thấy người niệm phật, dự biết được lúc đến, ngồi
thoát đứng chết, mùi hương lạ đầy nhà. Việc nầy đâu
phải là tâm hiện?
ĐÁP:
Trời Đế Thích chẳng tu nghiệp trời, cung điện làm sao mà
theo bên mình được? Vua chuyển luân không gieo nhơn vua, thất
bảo không do đâu mà tu tập. Người niệm Phật, tịnh nghiệp
thuần thục, cảm được thắng duyên bên ngoài, do tâm biến
hiện.
HỎI:
Phật và Tâm không hai, ngoài tâm không Phật. Tại sao lại
lập pháp môn niệm Phật?
ĐÁP:
Chỉ vì chúng sanh căn cơ bậc trung bậc hạ, chẳng tin tự
tâm mình là Phật, nên phương tiện khiến niệm Phật tu quán,
cột tâm vào một duyện, niệm lặng thuần chơn, thì tự tâm
Phật hiện, hợp nhất với ánh sáng của Phật. Nếu là bậc
Thượng trí chẳng hướng bên ngoài mà cầu, mà quán thật
tướng của thân, quán Phật cũng vậy.
HỎI:
Pháp môn tịnh độ khẳng định là có hay là không?
ĐÁP:
Nếu nói là không, thì thế giới cực lạc, Di đà thuyết
pháp, nhiếp thọ chúng sanh. Điều nầy từ kim khẩu của Phật
Thích Ca truyền ra, chư Tổ từ Ấn độ đến Trung Hoa đều
xiển dương là sao? Nếu nói là có, thì pháp thân chư Phật
thể như thái hư, chẳng có chẳgkhông. Tự tâm của chúng
sanh xưa nay là không tịch, đồng một thể với Phật,
không thiếu cũng không thừa, là sao? Phải ngộ được lý
sự viêndung mới có thể phân biệt được tịnh và uế.
HỎI:
Lại có những tăng sĩ và cư sĩ niệm Phật một đời, khi
lâm chung không Phật đến tiếp dẫn là sao?
ĐÁP:
Bản tâm của chúng sanh đồng một thể với Phật, miêng tuy
niệm Phật mà tâm ý tán loạn, như nước dơ động, nên ánh
trăng không đứng, chớ chẳng phải trăng không đến ấy là
do nước không lặng. Nếu một niệm thuần chơn thì tâm Phật
tự hiện, dụ như nước đứng trăng hiện, thế nên biết,
chẳng phải từ bên ngoài vào. Nếu ngộ lý nầy, lý Duy tâm
chẳng lầm.
HỎI:
Ngài đã khai thị tâm yếu như thế, thì tham thiền và niệm
Phật không hai?
ĐÁP:
Vốn không hai lý.
HỎI:
Thế nào là lý không hai?
ĐÁP:
Tham thiền cốt yếu phải như mèo bắt chuột. Niệm Phật
quyết phải nhứt tâm bất loạn. Nếu nhứt tâm chẳng loạn,
dù bỏ tham thiền cũng lo gì chẳng ngộ?
Nếu
như mèo bắt chuột dù bỏ niệm Phật, tâm Phật cũng tự
hiện. Cổ Đức có kệ rằng:
Tham
thiền niệm Phật bổn lai đồng,
Khán
phá phân minh tổng thị không.
Công
đáo tự nhiên toàn thể hiện,
Xuân
lai y cựu bách hoa hồng.
DỊCH:
Tham
thiền niệm Phật lý vốn đồng,
Rõ
ràng xem kỹ thảy đều không,
Công
đến tự nhiên toàn thể hiện,
Xuân
về như trước trăm hoa hồng.