CHƯƠNG
III
THÍCH,
ĐẠO BIỆN LUẬN LẼ THIỆT HƠN
HỎI:
Giáo lý của tôi vào giáo lý của Đạo Phật đại khái chẳng
đồng nhau.
Sư
hỏi lại: Chẳng đồng nhau chỗ nào?
Đạo
sĩ đáp: Đạo Phật tu tánh chẳng tu mạng. Đạo tôi dạy
tánh mạng song tu.
Sư
hỏi: Thế nào là tu tánh, thế nào là tu mạng?
Đạo
sĩ đáp: Tu tánh là “ly cung tập định”, tu mạng là “thuỷ
phủ cầu huyền”.
Sư
hỏi: Thế nào là ly cung tập định, thế nào là thuỷ
phủ cầu huyền?
Đạo
sĩ đáp: Ly cung tập định là ngưng tâm chẳng động để
giữ thần. Thuỷ phủ cầu huyền là luyện tinh hoá khí để
được hình thể kiên cố (cố hình). Hình và thần đều diệu
thì cùng với Đạo hợp lẽ chơn.
Sư
nói: Đạo Phật chỉ tu một bên, chẳng luyện tinh hoá khí
để được hình thể kiên cố hầu giữ mạng. Ông lại chẳng
biết “Ly cung tập định” và “tâm tức tương y” (tâm
và hơi thở nương nhau) là pháp của hàng Nhị thừa. Luyện
tinh nơi thuỷ phủ hoá khí đi ngược trở lên, thông với
huyền quan được hình thể kiên cố. Đó là thuật để kéo
dài tuổi thọ.
Phật
giáo thượng thừa khi đốn ngộ tâm tánh, thấy sơn hà đại
địa, vạn vật, thân tâm đều là hình bóng hư huyễn ở
trong Tánh, nên không cớ gì nương huyễn mà tu bóng. Như vậy
há chẳng lầm to ư? Người xưa nói: “Bậc tiên còn trước
nơi hình thần, nên chẳng thể xả bỏ”. Hơn nữa hình thần
là những vọng tưởng từ chơn tánh hiển hiện ra, chẳng
phải chơn thật. Khá cười cho Đạo giáo, những bậc cao nhơn
xua nay chẳng ngộ được chánh giác lầm hiểu cho là chí lý,
mê vọng dùng “tâm tức tương y” cho là tu Tánh. Luyện tinh
hoá khí để được hình thể kiên cố cho là tu Mạng. Tất
cả là để được hình thân đều diệu. Như vậy cùng với
bản tánh quá xa vời!
Đạo
sĩ nói: Bọn môn đồ của âm ma, không thể song tu mà trở
lại vọng báng Đạo tôi là Nhị thừa. Ông phải biện cho
rõ tâm tôi mới phục.
Sư
nói: Người học đạo Tiên khởi đầu từ chúng sanh, tuy biết
sanh tử là việc quá khổ, nhưng chẳng ngộ được đạo lý
Nhất thừa tối thượng. Lầm chấp bề trong của sắc thân,
vọng lấy tâm thịt bên trong, cho là có một thần tánh gọi
là chơn hông, tên khác là xá nữ. Ngưng thần chẳng động
làm như vậy là “ly cung tập định”. Tinh khí trong thân
gọi là chơn công, tên khác là anh nhi. Luyện tinh hoá khí,
làm như vậy gọi là “thuỷ phủ cầu huyền”. Cái ý là
chơn thổ, lại gọi là hoàng bà. Như phương pháp tập định,
cần phải nghiêng về tịnh toạ: dùng ý điều tức (hơi thở),
nhiếp thân chẳng cho động, làm như vậy gọi là Phục hổ.
Ngưng thần hợp với khí, tâm định chẳng động, làm như
vậy gọi là Hàng long. Thân tâm ý hợp là trở về thổ phủ,
lặng yên chẳng động gọi là tu tánh.
Trương
Tử Dương nói: “Chơn thổ giữ chơn công, chơn công chế
chơn hống. Công Hống qui thổ phủ, thân tâm lặng yên chẳng
động”. Đạo gia nhận đấy là “tâm tức tương y” dối
bảo Đaọ Phật là thiên tu (tu một bên). Há chẳng hiểu lầm
về chi lý tối thượng ư?
Đâu
không biết rằng mỗi người vốn có đủ một tâm tánh rộng
lớn, bao trùm cả thái hư, chẳng có chẳng không, cũng chẳng
bên trong bên ngoài. Vốn tự bất động chẳng cần tập định.
Vô cớ lại đem cái huyễn thức trong thân, rồi dùng huyễn
ngưng huyễn gọi là tu tánh. Thật là kẻ nhận giặc làm con,
mà cho là “chơn tánh bổn cụ”. Tóm lại, như vậy nếu
tu thành công, chẳng lìa Dục giới, một mai định lực hết
trở lại đoạ xuống hạ giới!
HỎI:
“Ly cung tập định”. Sư đã nói, xin bàn luôn về “thuỷ
phủ cầu huyền”?
ĐÁP:
Thủy phủ cầu huyền: Tiết ngữ tinh khí, trong suốt 12 giờ,
phản chiếu nơi rún trong một tấc 3 phân, gọi là khí hải.
Chỉ giữ mà chẳng cho dính mắc, chỉ chiếu mà chẳng trụ.
Thân tâm định lâu, cung Khảm và cung Ly đều giao nhau, tâm
hỏa giáng xuống, thận thủy bay lên, tinh đầy khí tròn, lúc
ấy trong nội thân như lửa, cuối giờ Hợi đầu giờ Tý
khí động nơi vĩ lư, bèn dùng ý hút đưa vào trong giáp tích,
thẳng qua ngọc chẩm, trên đến thiên cốc, trở lại hóa
thành kim dịch, mùi vị thơm ngọt, nuốt xuống trùng lâu,
rơi nơi huỳnh đình, gọi là “Càn khôn giao cấu” xong. Một
điểm rơi vào huỳnh đình, từ đây điều hòa thông suốt,
tứ chi khoan khoái, ttất cả hơi thở đều chảy khắp, tươi
nhuận tạng phủ, mặt trở lại tươi trẻ như bé thơ, tuổi
thọ dài lâu. Cổ Tiên xưa có kệ rằng:
Pháp
thủy năng triền hữu bi quan,
Tiêu
diêu nhật dạ khiển luân hoàn,
Vu
trung ủng trệ sanh chư bệnh,
Tài
quyết thông lưu tiện trú nhan.
DỊCH:
Tự
cửa màu nước pháp thường dâng,
Suốt
ngày nhàn nhã khiến xoay vần,
Bên
trong ngăn trệ muôn ngàn bệnh,
Vừa
khơi chảy suốt mặt mày hàn.
Ngô
Tiên lại nói:
Khi
qui ngươn hải thọ vô cùng.
Thử
thuật vi kim dịch luyện hình.
DỊCH:
Khi
về ngươn hải thọ vô cùng,
Thuật
này là kim dịch luyện hình.
Tập
định là “ngọc phù bảo thần”, hình và thần đều
diệu thì với Đạo hợp lý chơn. Một mai công quả đầy
đủ, tùy phước sâu cạn, nếu người hành rộng rãi thì
tạm ở nơi Bồng đảo, hoặc trụ nơi động thiên, ở đó
ba bốn trăm năm, hay hai ba ngàn năm, rồi sanh trở lại nhơn
gian, tích chứa công hạnh, bồi dưỡng phước huệ, một ngày
nào đó công quả sâu dày, Thượng đế đến gọi, tùy hàng
sắp chỗ đứng, Tiên quan chẳng đồng. Nếu y đây mà tu thì
đồng như trong Đạo Phật, đại khái như ở Trịnh châu vọng
cầu cửa Tào, xa càng xa vậy.
HỎI:
Tâm tức tương y, Ngài nói đấy là pháp của Nhị thừa. Vậy
do đâu mà ngài Đạt Ma từ Ấn sang lưu truyền kinh Thai Tức?
ĐÁP:
Tổ sư từ Ấn sang truyền Tâm ấn, há lại đem “tâm tức
tương y” làm nhất thừa tối thượng của Phật ư? Ngài
Đạt Ma khi chưa đến Đông độ, phương này đều tu tập
Chỉ Quán, nhọc gì từ xa đến lại truyền Thai tập? Ấy
là trên đầu thêm đầu, hay có thể bảo là trên mỏ thêm
cái mỏ nữa.
Bởi
ở Trung Hoa này người sơ cơ học Đạo chẳng ngộ tâm tánh,
chỉ tập tu chỉ quán, Tứ thiền bát định, chẳng chứng
Phật Tâm. Cho nên sơ Tổ của ta vượt biển mà đến đây
“chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”. Chẳng
biết người nào ngụy tạo Thai tức giả danh giáo ngoại biệt
truyền của Đạt Ma, mê hoặc người sau, làm cho vàng thau
không phân biện.
HỎI:
Pháp thai tức là ngụy, chẳng phải là pháp thượng thừa
của Phật. Ngài nghị luận như vậy có gì làm bằng cứ?
ĐÁP:
Phương pháp thai tức, giống như trong thai mẹ, mờ mờ mịt
mịt, thân tâm lặng yên. Định lâu được thành tựu thì
thần cùng khí giao kết lại, luyện thành một hình huyễn,
thức thần rong chơi bên ngoài, chớp mắt đi ngàn dặm, ngao
du tự tại. Như vậy thì cùng với Đạo nhất thừa của Phật
rõ không can hệ.
Kinh
Lăng Nghiêm nói: “Những người tu học, hiện tại tuy được
chín từng lớp thiền định, nhưng không được lậu tận
thành A La Hán. Tất cả đều do những chấp vọng tưởng sanh
tử này, lầm cho là chơn thật”. Đâu chẳng biết trong thân
huyễn vốn không có tánh mạng. Chơn tánh mạng của ta không
ở trong ngoài, mà bao trùm thái hư, vốn tự nó hiện thành
cũng chẳng thêm tu chứng. Tánh thụ của kẻ lậu học ngộ
được tánh mạng này, nên hay hiện vô lượng diệu thân,
hay độ vô lượng chúng sanh, hay thành vô lượng trang nghiêm,
hay làm vô lượng Phật sự. Vô cớ lại đem pháp Thai tức,
lầm nhận là tôn chỉ giáo ngoại biệt truyền. Thật đáng
buồn thay! Tự mắt mình chẳng sáng còn mê hoặc kẻ sơ học
thiếu hiểu biết, rồi đi lấy nhỏ làm lớn, tội kia chẳng
nhỏ.
Đạo
sĩ hỏi: (Ngài nói) bên torgn thân tâm vốn không có tánh mạng,
nhưng hiện nay thần ở trong thân, khi hô hấp tới lui, đây
chẳng phải là chơn tánh chơn mạng của ta? Nay đem cái thần
khí này cộng với tướng ngưng hợp, rồi cho về khí huyệt
kết thành đại đơn, tự nhiên thân nhẹ thần diệu, liền
có thể “du hành bát cực”, trên trời cõi người đều
được tự tại lớn. Đây gọi là tánh mạng song tu, là Đại
Đạo chí nhơn của thần tiên.
Sư
đáp: Thần trong thân là vọng, khí hô hấp là huyễn. Nếu
cho huyễn vọng là chơn tánh mạng, gom lại tu tập thành công,
thân hình mầu nhẹ, đi rong trên hư không, chớp mắt xa ngàn
dặm, sống lâu mấy ngàn vạn năm, ở sâu nơi động trời
đất phước cho là thành thánh. Nhưng mà chẳng ngộ chánh
giác, quả báo hết trở lại tan vào các cõi.
HỎI:
Sự tu TÁNH của Phật giáo là thiên về âm mà không dương.
Cho dù gom được tu thành kiến tánh cũng lại là sự trong
sạch của ma quỷ.
ĐÁP:
Âm dương quỷ thần là việc không kiếp trở về sau, còn
diệu minh chơn tánh là lý của không kiếp trở về trước.
Nếu đem lý trước không kiếp mà nhận là việc sau không
kiếp, người này không những chẳng rõ về âm dương mà lại
còn mê muội điên đảo nhiều vậy.
Đạo
sĩ nói: Phật giáo thiên tu là âm, đạo tôi song tu là dương
trong, Đơn Kinh, Tử Thơ đều nói chớ chẳng phải tôi tự
bày điều không căn cứ.
Sư
đáp: Chủ trương song tu của Đạo gia là ngộ nhận lẽ chơn
thật. Thức thần ở trong thân là âm trong dương. Tinh khí
ở trong thân là dương trong âm. Gom khí hợp thần, thần ngưng
khí trụ gọi là “Thủ khảm điền ly” (giữ quẻ khảm,
lấp quẻ ly), điểm hoá âm trong dương thành thể khô cứng,
luyện thành kim đơn, mười tháng kết thai, chín năm bảo dưỡng
xuất ra đảnh môn ở trên gọi là Dương thần. Tan ra thì
thành gió, hợp lại thì thành hình, ngao du thiên hạ, tiêu
dao tự tại. Công phu nhiều thì bay lên Thiên cung, công phu
ít thì ẩn cư nơi Bồng đảo. Nếu nương vào đây cho là
phải mà chẳng cần tu Tam muội, đến khi quả báo cõi Tiên
hết trở lại đoạ làm quỉ cõi dưới. Người xưa nói:
Học
đạo chi nhơn bất thức chơn,
Chỉ
vì tùng tiền nhận thức thần.
Vô
lượng kiếp lại sanh tử bản,
Si
nhơn hoán tác bổn lai nhơn.
DỊCH:
Người
học đạo chẳng hiểu lẽ chơn,
Bởi
do từ trước nhận thức thần.
Vô
lượng kiếp nay gốc sanh tử,
Kẻ
si nhận đó bản lai nhơn.
Phật
giáo thượng thừa, kiến tánh vô vi, trạm như thái hư, thể
đống pháp giới, chẳng phải âm dương, chẳng ra vào, dẫn
nó không trước, dắt nó không sau, đưa nó không lên, đè
nó không xuống từ xưa nó thường sáng, đến nay nó chẳng
mê. Tuy không hình tướng mà hay khởi báo thân, hoá thân. Không
những chỉ hiện một thân mà có thể hiện trăm ngàn ức
thân. Độ thoát chúng sanh như hằng sa, thành tựu muôn đức
trang nghiêm. Kẻ căn cơ thiển bạc ôm khối nghi ngờ nào thể
tín thọ?
HỎI:
Đạo tôi có nói rằng tu tánh chẳng tu mạng, muôn kiếp âm
linh khó nhập thánh.
Sư
đáp: Lý của mạng học, đại khái có sai khác, nếu chẳng
tham cứu cho sâu, sợ e làm lầm người hậu học. Sơn Tăng
chẳng tiếc lời cùng ông bàn luận chỗ vi tể của nó:
Hai
chữ tu mạng có Lý mạng và Khí mạng. Lý mạng có hai nghĩa,
khí mạng cũng có hai loại. Tôi trước nói rõ về khí mạng,
sau trở lại bàn về lý mạng.
Khí
mạng loại một là “Cổ bổn khai quan” (giữa chặt gốc
mở cửa quan), thường nghiêng về tịnh toạ, phản chiếu
lại huyệt khí hải, giữ cho chơn ý chẳng tán, trong lặng
chẳng chấp trước, lâu ngày chầy tháng, tinh đầy khí tròn,
nội thân như lửa, mau mau kích động, điều hòa cho quân bình
hơi thở nơi mũi, mau đề lên cốc đạo, nên dùng ý dẫn
nó, gọi là hái thuốc (thái dược). Tiên nói: “Khi can quí
sanh phải mau hái, mong xa thường chẳng nổi” (Quí sanh tu
cấp thái, vọng viễn bất kham thường). Chỉ khoảng một
thoáng, tinh khí xoay trở lên, từ trong vĩ lư có tiếng lụp
bụp, ở giữa qua giáp cốt, thẳng thấu ngọc chẩm, ra sức
vận lên xông đến đảnh môn, khí kia cuộn xuống, dùng mũi
dẫn nó, tự nhiên biến thành cam lộ, mùi vị thơm ngọt,
nuốt xuống trùng lâu, rơi vào huỳnh phòng. Đấy gọi là
“trữu hậu phi kim tinh”, lại còn gọi là “bế nhâm khai
đốc mạch” (đóng mạch nhâm khai mạch đốc). Từ đây khí
nơi đơn điền ấm, thần khí chan hoà, da thịt tươi nhuận,
tứ chi sảng khoái, mặt tươi trở lại như trẻ thơ, tuổi
thọ dài lâu.
Lấy
đây mà xét, thuật kéo dài sanh mạng này dù cho sống lâu
ngàn tuổi, rốt lại rồi cũng tan nát. Chẳng ngộ được
tâm tánh trở lại đoạ vào các cõi. Nếu bảo thuật này
có thể thành Thánh là mê hoặc người sau, thật là lời dối
gạt to tát.
Khí
mạng loại hai là “ngưng khí qui căn”. Người ở bụng mẹ
theo sự hô hấp cửa mẹ cho đến lúc sanh ra, cắt đứt cuống
rún, một điểm khí phàm nương ở đơn điền, giống như
một bộ rùa, phun nuốt ngươn khí, một ngày đêm thở tới
lui mười ba ngàn năm trăm hơi thở, đều từ miệng mũi tuôn
ra ngoài, không thể về gốc mà qui về khí huyệt, nên tuổi
thọ chẳng dài, sắc thân chẳng vững chắc. Phải ở chỗ
đi đứng, ngồi nằm chiếu soi trở lại và thường nạp vào
khí hải. Khí hải trụ thì hình sanh, thần ngưng thì khí trụ.
Thần khí kết thành gọi là dương thần. Lâu ngày xuất hình,
rong chơi khắp thiên hạ, tuỳ công phu sâu cạn mà ngôi vị
chẳng đồng. Quả báo hết trở lại thế gian làm người,
nếu tạo nghiệp ác sẽ đoạ tam đồ. Dối nói đạo này
liễu thoát luôn hồi, chẳng tu đạo này khó vào thánh vị,
chưa khỏi người chí chê cười.
HỎI:
Hai môn học về khí mạng Ngài phân biệt quá rõ ràng. Lý
mạng có hai nghĩa xin ngài chỉ rõ luôn.
ĐÁP:
Lý mạng có hai nghĩa là tại triền và xuất triền. Tại triền
thì lấy tình làm mạng. Xuất triền khởi động là tán mạng,
dứt tình là tu mạng. Xuất triền hợp với hư là chí mạng,
lại gọi là phục mạng. Nhà Nho gọi là Phục mạng. Phật
gọi là pháp giới. Đây là cái học của Đại thừa, có thể
bảo là lý trung đạo. Nương vào đây mà tu chứng gọi đó
là LÝ MẠNG. Nếu nương vào khí mạng, chẳng ngộ lý mạng
rốt lại thành không, chẳng phải đạo lớn.
HỎI:
Các bậc Thầy trong Đạo Tiên có nói: Người thấy tánh chẳng
biết mệnh kia, nên khi cuối cùng về chỗ nào? Và chưa rõ,
biết mệnh lý hay là khí?
ĐÁP:
Người kiến tánh tự biết thiên mệnh, rốt sau rõ ràng cùng
với hư hợp thể. Nho nói: “Cùng lý tận tánh là do tột
ở mệnh”. Đạo Phật nói: “Tại triền gọi Như lai tạng,
ra khỏi triền gọi phá giới tánh”. Nếu luyện khí mạng
rời thần nương khí kết là chỗ về của ta, thì chưa khỏi
báo hết trở lại rơi vào các cõi. Nên biết, thiên mệnh
mới là lý gốc.
HỎI:
Một âm một dương gọi là chánh đạo, âm dương có lẻ vạn
vật chẳng sanh, do đâu lại nói không âm không dương. Nếu
không âm dương có khác gì ngoan không?