CHƯƠNG
V
GIÁO
THỪA SAI BIỆT
HỎI:
Ở trên ngài đã khai thị một cách rộng rãi về pháp môn
Đốn ngộ, kẻ học muộn nầy thấy đã quá rõ ràng. Nhưng
còn vài điểm sai biệt trong giáo lý xin ngài nhỏ nhặt khai
thị trở lại cho.
ĐÁP:
Ông cứ hỏi, ta sẽ đáp, ta chẳng phụ lòng ông đâu.
HỎI:
Thế nào là “muôn pháp về tâm” (vạn pháp qui tâm)?
ĐÁP:
Như vàng tuỳ người thợ làm ra nhiều món đồ. Những món
đồ ấy cho vào lò nấu chảy ra chỉ có một thể. Muôn pháp
về tâm cũng như vậy.
HỎI:
Pháp môn đốn ngộ có sức thù thắng gì?
ĐÁP:
Chánh giải viên tu, sức nó vượt qua kiếp số, tuy ở trong
sanh tử mà thường vào niết bàn, thường ở trong trần lao
mà hằng ở trong Tịnh độ. Đầy đủ mắt thịt mà mở mắt
huệ. Đổi tâm phàm mà đồng với tâm Phật. Tin biết pháp
môn đốn ngộ công đức lớn lao hơn cả.
HỎI:
Minh tâm kiến tánh, như người uống nước lạnh nóng tự
biết. Lời nói hay không có chỗ y cứ?
ĐÁP:
Người học dụng tâm thân thiết, tham cứu lẽ chơn thật,
chợt được thân tâm nhứt như, ánh sáng trí tuệ thoát phát
khởi, thấy sự từ hoại kiếp trở về trước để thân
đến chỗ bản giác. (Đến chỗ nầy) có miệng khó nói, có
viết khó thuật. Như người uống nước lạnh nóng tự biết.
Muốn mở phương tiện để hiển bày bổn tâm, phải mượn
giáo thừa để làm thí dụ.
HỎI:
Thiền tông dạy người chẳng xem kinh, nếu gom được chút
hiểu biết nào, tự thành kẻ tri thức văn tự phải chăng?
ĐÁP:
Muốn nghiêncứu giáo thừa phải tìm tòi trong bảo tạng, mỗi
mỗi phải tiêu hoá trở về tự kỷ, lời lời phải thầm
hợp bản tâm, chỉ sợ e chấp văn sanh hiểu, không chịu qui
hội về bản thể, cho nên cười chê xem kinh để thành thánh
nhơn văn tự.
HỎI:
Thế nào là mê, thế nào là ngộ?
ĐÁP:
Nhơn bản giác chơn tâm khởi ra bất giác gọi là mê. Nhơn
bất giác thành thỉ giác, rồi trở về chơn tâm gọi là ngộ.
Cho nên nói: “Nhơn đất mà té, thì cũng nhơn đất mà dậy”.
Mê ngộ tuy khác mà chơn tâm không hai.
HỎI:
Tại sao người khế lý, đối với chôn vọng phải dứt cả
hai?
ĐÁP:
Nhơn vọng mà nói chơn, chơn không có tự tướng. Từ chơn
khởi vọng, nên vọng thể vốn không. Vọng đã vốn không,
chơn cũng chẳng thành lập. Chơn vọng đều dứt cả hai thì
bản tâm thường trụ.
HỎI:
Tông môn đốn ngộ “đơn đao trực nhập”, nào dùng ngôn
ngữ bàn luận rộng rãi sai khác?
ĐÁP:
Kẻ sĩ tham cứu lẽ huyền phải có đủ hai mắt: một là
kỷ nhãn để sáng tỏ thiền; hai là trí nhãn để phân biệt
được hoặc nghiệp. Thiền Tông nói: “Chỉ sáng tỏ được
tự kỷ mà chẳng rõ được việc trước mắt, người như
thế chỉ có một mắt, lý đơn sự chiết, rốt lại chẳng
viên thông”. Nếu cho trí huệ là quấy thì Đại trí Văn
Thù chẳng xưng là con đấng Pháp Vương? Nếu cho dứt học
là phải, thì Vô Văn tỳ kheo chẳng làm người ở địa ngục.
Tất cả đều do cửa ải ý thức bị khoá, nếu không có
chìa khoá trí huệ thì khó mà mở. Tự cho rằng “tình tưởng
câu khiên”, nếu chẳng có gươm trí huệ thì khó dứt. Người
tiến tu viên thông, chớ có cái chấp bặt lời (không học).
HỎI:
Bậc viên đốn tu chứng trở lại rơi vào nhơn quả chăng?
ĐÁP:
Trên đến chư Phật, dưới đến chúng sanh đều thu vào nhơn
quả. Vậy có thể bác không nhơn quả sao? Chỉ do ngoại đạo
chẳng đạt lý duyên sanh, duy chấp tự nhiên, bác không nhơn
quả. Hàng nhị thừa chột mắt chỉ chứng thiên không (nghiêng
về không), trí diệt thân tàn xa lìa nhơn quả. Kẻ phàm phu
bị nghiệp trói tham đắm năm dục, nên nhà cửa đốt thân,
chấp trước nhơn quả. Tất cả đều thành cuồng giải, tự
mê muội lý viên thường. Chỉ lấy thật tướng làm nhơn,
thật tướng làm quả, chớ tạo cái chấp bác không (nhơn
quả) mà rơi vào đường tà. (Được như vậy mới) chóng
thành viên nhơn, chóng chứng diệu quả.
HỎI:
Ở đời có những kẻ sĩ khế lý, xưng là Đạo nhơn vô tâm.
Nếu là vô tâm thì đồng như cây đá, do đâu mà các bậc
thánh hiền có trí huệ lớn?
ĐÁP:
Đạo nhơn vô tâm chẳng đồng với cây đá, vô tâm là không
tâm phân biệt, không tâm yêu ghét, không thủ xả, không tâm
thiện ác, không tâm có không, không tâm ở giữa hay một bên,
không tâm trong ngoài, không tâm chấp trước, chớ chẳng phải
không chơn tâm linh tri tịch chiếu.
HỎI:
Người xưa nói: “Chớ bảo vô tâm ấy là Đạo vô tâm còn
cách một lớp cửa”. Vậy thế nào?
ĐÁP:
Chơn tâm hư huyễn chẳng có chẳng không. Nếu bỏ có (hữu)
trụ không (vô), trở thành lỗi lớn. Cổ Đức có kệ rằng:
Khuyến
quân học đạo chớ tham cầu
Vạn
sự vô tâm đáo hợp đầu
Vô
tâm thỉ thể vô tâm đạo
Thể
đắc vô tâm vô dã hưu.
DỊCH:
Khuyên
anh học đạo chớ tham cầu
Muôn
sự không tâm đến hợp đầu
Không
tâm thể nhập không tâm đạo
Nhập
được không tâm không cũng thôi.
HỎI:
Thế nào gọi là không biết mà biết, biết mà không biết?
ĐÁP:
không biết (vô trí) là thể của tâm. Biết là dụng của
tâm. Thể hay phát ra diệu dụng: không biết mà biết. Dụng
chẳng lìa thể: biết mà không biết. Dụng nếu lìa thể là
cái biết trụ tướng. Thể nếu không dụng gọi là ngoan không.
HỎI:
Thế nào gọi là không biết mà biết, biết mà không
biết?
ĐÁP:
Không biết (vô trí) là thể của tâm. Biết là dụng của
tâm. Thể hay phát ra diệu dụng: không biết mà biết. Dụng
chẳng lìa thể: biết mà không biết. Dụng nếu lìa thể là
cái biết trụ tướng. Thể nếu không dụng gọi là ngoan không.
HỎI:
Thế nào là có niệm mà biết là vọng?
ĐÁP:
Sáu căn đối cảnh động niệm phân biệt: có niệm mà biết,
nên cho là vọng.
HỎI:
Thế nào vô tâm mà biết là chơn?
ĐÁP:
Chơn tâm ứng vật như gương soi hình tượng, vô tâm mà biết
nên gọi là nhơn.
HỎI:
Thế nào là chánh tri kiến?
ĐÁP:
Chẳng nương căn trần mà có tri kiến là chánh. Nương gá
căn trần mà khởi tri kiến là tà.
HỎI:
Thế nào là tam bảo?
ĐÁP:
Nhứt tâm không tịch là Phật Bảo. Tịch mà thường chiếu
soi là Pháp Bảo. Chiếu soi mà không nhiễm là Tăng Bảo.
HỎI:
Thế nào là cúng Phật một cách chơn chính?
ĐÁP:
Sáu căn đối cảnh sáu thức chẳng sanh, chơn tâm độc chiếu
là nghe pháp chơn chính.
HỎI:
Thế nào là xuất gia chơn chính?
ĐÁP:
Chẳng trụ ngôi nhà ngũ uẩn, ấy gọi là người xuất gia
chơn chánh.
HỎI:
Thế nào có thể chẳng trụ năm uẩn?
ĐÁP:
Thấy cái nương vào căn thì sắc uẩn không (rỗng). Đối
cảnh vô tâm thì thọ uẩn không. Biết mà không biết thì
tưởng uẩn không. Tâm tâm không nhiễm thì hành uẩn không.
Chơn tâm thường trụ thí thức uẩn không.
HỎI:
Thế nào là “không tức sắc, sắc tức không”?
ĐÁP:
Thấy không rồi trụ không là “không tức sắc”. Thấy sắc
chẳng trụ sắc là “sắc tức không”
HỎI:
Thế nào là “tức Tâm tức Phật”?
ĐÁP:
Tâm và Phật không hai chớ hướng bên ngoài mà tìm cầu.
HỎI:
Thế nào là “phi tâm phi Phật”?
ĐÁP:
Phá cố chấp, trừ hiểu biết, tâm và Phật vốn không.
HỎI:
Thế nào là “ba tâm không thể được”?
ĐÁP:
Quá khứ, vị lai, hiện tại, ba tâm xưa nay vốn không tịch.
Bỗng vọng khởi ra hoa đốm giữa hư không, làm che khuất
cái viên minh chơn thật.
HỎI:
Thế nào gọi là chơn không?
ĐÁP:
Chơn tâm thể tịch, máy mầu khởi dụng chiếu soi. Tịch và
chiếu không hai gọi đó là chơn không.
HỎI:
Thế nào gọi là diệu hữu?
ĐÁP:
Đồng chiếu soi lẽ hữu vô, phân biệt rõ ràng, nhưng chẳng
rơi vào năng sở, gọi là diệu hữu.
HỎI:
Thế nào nói rằng “chỉ được gốc chớ lo ngọn”?