PHỤ
LỤC:
1-
VÔ TÂM LUẬN của BỒ ĐỀ ĐẠT MA
2-
BỒ ĐỀ ĐẠT MA THIỀN SƯ QUAN MÔN
3-
LUẬN ĐẠI THỪA KHAI TÂM HIỂN TÁNH ĐỐN NGỘ CHƠN TÔNG của
Thiền sư ĐẠI CHIẾU
VÔ
TÂM LUẬN (I)
(Kinh
số 2831)
Phàm
tột lý không lời, cốt mượn lời để hiển lý. Đạo lớn
không tướng vì tiếp kẻ thô nên thấy hình. Nay giả lập
hai người để bàn về luận vô tâm.
Đệ
tử hỏi: Hòa thượng hữu tâm hay vô tâm?
ĐÁP:
Vô tâm.
HỎI:
Đã vô tâm ai thấy nghe hiểu biết, và ai biết vô tâm?
ĐÁP:
Vô tâm thấy nghe hiểu biết, cũng vô tâm biết vô tâm.
HỎI:
Nếu đã vô tâm tức đồng không có sự thấy nghe hiểu biết,
thì làm sao được thấy nghe hiểu biết?
ĐÁP:
Ta tuy vô tâm mà thường thấy nghe hiểu biết.
HỎI:
Đã thường thấy nghe hiểu biết tức là hữu tâm, sao nói
là vô tâm?
ĐÁP:
Chỉ cái thấy nghe hiểu biết nầy tức là vô tâm. Chỗ nào
lìa thấy nghe hiểu biết riêng có vô tâm? Ta nay sợ ông chẳng
hiểu, nên vì ông nói rõ ràng, để khiến ông được ngộ
chơn lý: Như thấy suốt ngày, thấy mà không thấy, nên cái
thấy cũng vô tâm. Nghe suốt ngày, nghe mà không nghe, nên nghe
cũng vô tâm. Hiểu suốt ngày, hiểu mà không hiểu, nên biết
cũng vô tâm. Suốt ngày tạo tác, tác mà không tác, nên tác
cũng vô tâm. Cho nên nói: Thấy nghe hiểu biết đều là vô
tâm.
HỎI:
Nếu vậy, cái hay biết là vô tâm ư?
ĐÁP:
Ông nên nhỏ nhiệm mà xét xem, tâm khởi ra tướng mạo gì?
Tâm kia có thể được là tâm hay chẳng phải tâm? Là bên
trong, bên ngoài hay khoảng giữa? Như thế ba chỗ suy xét tìm
tâm không thể có. Cho đến tất cả chỗ tìm cầu cũng không
thể có. Nên biết, đấy tức là vô tâm.
HỎI:
Hòa thượng đã nói: Mọi nơi đều vô tâm, tức là đồng
với không có tội phước, vậy cớ sao chúng sanh luân hồi
trong sáu thú, sanh tử không dừng?
ĐÁP:
Chúng sanh mê vọng, chỗ vô tâm mà vọng sanh tâm, tạo muôn
ngàn nghiệp, rồi vọng chấp là có. Bao nhiêu đó cũng khiến
luân hồi trong sáu thú, sanh tử chẳng dừng. Ví như có người
trong đêm tối thấy cái ghế cho là ma, thấy sợi dây cho là
rắn, rồi sanh kinh sợ. Sự vọng chấp của chúng sanh cũng
giống như thế. Nơi vô tâm vọng chấp có tâm, tạo muôn ngàn
tội nghiệp. Vậy là sao khỏi luân hồi trong sáu thú?
Tuy
nhiên nếu chúng sinh gặp được bậc Thiện tri thức lớn
giáo hoá khiến Toạ thiền giác ngộ được vô tâm, thì tất
cả nghiệp chướng đều tiêu diệt, sanh tử liền dứt. Thí
như chỗ tối, ánh mặt trời chiếu đến tự nhiên bóng tối
hết. Nếu ngộ vô tâm tất cả tội đều tiêu diệt cũng
giống như vậy.
HỎI:
Đệ tử còn mê muội, tâm chưa rõ ràng. Tất cả chỗ, sáu
căn khởi dụng ứng đáp, lời nói và muôn ngàn thi vị, phiền
não bồ đề, sanh tử niết bàn nhứt định vô tâm chăng?
ĐÁP:
Nhứt định vô tâm. Chỉ vì chúng sanh vọng chấp có tâm,
nên liền có tất cả phiền não sanh tử, bồ đề niết bàn.
Nếu giác ngộ vô tâm liền không có tất cả phiền não, sanh
tử niết bàn. Cho nên Như Lai vì kẻ có tâm nói có sanh tử.
Bồ
đề đối vối phiền não mà có tên, Niết bàn đối trị
với sanh tử mà có tên. Đó đều là pháp đối trị. Nếu
được vô tâm thì phiền não bồ đề không thể có, cho đến
sanh tử niết bàn cũng không thể có
HỎI:
Bồ đề Niết bàn đã không thể có. Vậy qúa khứ chư Phật
đều được Bồ đề, việc nầy có ư?
ĐÁP:
Chỉ dùng văn tự của thế đế mà nói thì có, còn với chơn
đế thì không thể có. Trong kinh Duy Ma nói: “Bồ đề không
thể dùng thân được, không thể dùng tâm được”. Lại
kinh Kim Cang nói: “Không một pháp nhỏ có thể được, chư
Như Lai do không thể được mà được”. Cho nên, có tâm tức
tất cả đều có, vô tâm tức tất cả đều không.
HỎI:
Hoà Thượng đã nói tất cả chỗ đều vô tâm. Cây đá cũng
vô tâm. Đâu chẳng giống cây đá sao?
ĐÁP:
Tâm vô tâm của ta nói không đồng với cây đá. Vì sao? Thí
như trống trời (thiên cổ), tuy vô tâm mà khởi ra muôn ngàn
tiếng pháp vi diệu, giáo hoá chúng sanh. Lại như hạt châu
Như ý, tuy vô tâm mà tự nhiên khởi ra muôn ngàn biến hiện.
Sự vô tâm của ta cũng vậy. Tuy vô tâm mà khéo hay giác liễu
thật tướng của các pháp, đầy đủ chơn bát nhã, ba thân
tự tại ứng dụng, không ngại. Nên trong kinh Bảo Tích nói:
“Do vô tâm ý mà khởi hiện hành”. Đâu có thể đồng cây
đá sao?
Phàm
nói vô tâm tức là chơn tâm. Nói chơn tâm tức là vô tâm.
HỎI:
Ngay đối với tâm con phải tu hành như thế nào?
ĐÁP:
Chỉ trên tất cả việc biết một cách rõ ràng. Vô tâm tức
là tu hành, chớ không riêng có sự tu hành nào khác. Cho nên,
vô tâm tức tất cả. Tịch diệt tức vô tâm.
Người
đệ tử ngay nơi đó bỗng nhiên đại ngộ, mới biết ngoài
tâm không vật, ngoài vật không tâm. Cử chỉ động dụng
đều tự tại, đoạn hết chướng nghi không còn chướng ngại.
Liền đứng dậy đảnh lễ và làm bài minh vô tâm rằng:
Tâm
thần hướng tịch
Đổ
chi bất kiến
Tợ
tám phi ám
Xả
chi bất diệt
Vô
sắc vô hình
Thính
chi vô thinh
Như
minh bất minh
Thủ
chi vô sanh
Đại
tức quách châu pháp giới
Tiểu
tức mao kiệt bất đình
Phiền
não hỗn chi trọc (bất trọc)
Niết
bàn trừng chi bất thanh
Chơn
như bẩn vô phân biệt
Năng
biện hữu tình vô tình
Thu
chi nhất thiết bất lập
Tán
chi phổ biến hàm linh
Diệt
thần phi trí sở trắc
Chánh
mích tuyệt ư tu hành
Diệt
tắc bất kiến kỳ hoài
Sanh
tắc bất kiến kỳ thành
Đại
đạo tịch hiệu vô tướng
Vạn
tượng yếu hiệu vô sanh
Như
tư vận dụng tự tại
Tổng
thị vô tâm chi tinh.
DỊCH:
Tâm
thần về tịch
Nhìn
đó chẳng thấy,
Giống
tối chẳng tối,
Bỏ
nó không diệt
Không
hình không sắc
Nghe
đó không tiếng
Như
sáng chẳng sáng
Giữ
nó không sanh.
Lớn
thời rộng khắp pháp giới,
Nhỏ
thời mảy lông chẳng dừng
Phiền
não lẫn nó chẳng nhơ,
Niết
bàn lắng nó chẳng sạch
Chơ
như vốn không phân biệt,
Hay
biện hữu tình vô tình
Thu
vào tất cả chẳng lập,
Tán
ra biến khấp hàm linh
Diệu
thàn chẳng biết chỗ lường,
Với
việc tu, dứt kiếm tìm