CHƯƠNG
X
KHUYÊN
IN BỐ THÍ
Sự
phu diễn chánh pháp công đức vượt hơn hằng sa. Lưu truyền
chí lý, phúc lợi hơn hư không lớn. Hằng sa vô số, hư không
lớn vô ngần. Việc lợi sanh thí pháp công đức vượt hơn
hai thí dụ nầy – Cớ sao công đức vô lượng như vậy?
– Một là làm cho người chưa tin trở thành chánh tín, nhiếp
về một niệm chẳng dong ruổi tìm cầu bên ngoài. Hai là khiến
người đã tin giúp thành quán lực, lý và hạnh kiên cố,
mau chứng bồ đề, giống như đi xe rộng lớn. Dựng lập
Bảo Phường (tàng kinh các). Như đi thuyền chắc chắn đến
bờ giác.
Kinh
Lăng Nghiêm nói: “Phật bảo A Nan! Nếu lại có người mang
bảy báu chứa đầy cả mười phương hư không, đem dâng cho
chư Phật như vi trần, và thừa sự cúng dường mà tâm không
chút sơ sót, ý ông nghĩ sao? Người nầy dùng nhơn duyên bố
thí cho chư Phật như vậy được phước nhiều chăng?”
A Nan
đáp: Hư không vô tận, trân bảo vô ngằn. xưa có chúng sanh
thí Phật bảy quan tiền, khi xả thân còn được làm vị chuyển
luân vương. Huống lại hiện tại, hư không vô cùng, Phật
độ đầy khắp mà đều thí trân bảo, thì cùng kiếp nghĩ
bàn cũng không hết được cái phước của người nầy, rằng
sao lại có bờ mé?
Phật
bảo A Nan! Chư Phật Như Lai, nói không hư dối. Nếu lại có
người thân tạo đủ bốn trọng tội và mười ba la di tội,
chỉ trong chớp mắt liền trải qua địa ngục A Tỳ ở phương
nầy hay phương khác, cho đến địa ngục vô gián khắp mười
phương đều trải qua. Nếu người nầy chỉ khởi một niệm
rằng “đem pháp môn nầy khai thị cho chúng sanh ở mạt kiếp”,
thì tội chướng người nầy liền theo niệm ấy mà tiêu diệt.
Biến địa ngục khổ mà họ đã thọ thành nước an lạc,
được phước còn hơn người bố thí bảy báu trước gắp
trăm, ngàn, muôn ức, như vậy cho đến tính, đếm, thí dụ
không thể kịp. Tán thán và hoằng dương kinh nầy lợi ích
không ngằn”.
Kinh
Kim Quang Minh nói: “Thí pháp cho người có năm điều lợi
ích thù thắng. Những gì là năm? Một là pháp thí gồm lợi,
tài thí không bằng. Hai là pháp thí hay làm cho chúng sanh ra
khỏi ba cõi, còn phước của tài thí chẳng ra khỏi dục giới.
Ba là pháp thí hay tịnh pháp thân, còn tài thí của tăng trưởng
nơi sắc. Bốn là pháp thí vô tận, còn tài thí có chừng.
Năm là pháp thí hay đoạn được vô minh, còn tài thí chỉ
đè được tham ái. Cho nên, nầy thiện nam tử! Công đức
vô lượng vô biên khó thể thí dụ”.
Lại
Kinh Kim Cang nói: “Bố thí bảy báu đầy khắp tam thiên đại
thiên thế giới, chẳng bằng thọ trì bốn câu kệ và vì
người khác giảng nói thì phước của người ấy còn hơn
sự bố thí bảy báu kia”.
Như
có người thiện nam tín nữ nào, phát tâm khắc bản in bố
thí truyền bá, khiến pháp giới chúng snah đốn ngộ tối
thượng thừa, đều đến cõi Phật, đồng chứng bồ đề,
thì công đức vô biên, khó nói hết.
Vạn
pháp qui tâm lục
Nói
thẳng chẳng dấu diếm
Hay
mở mắt thanh tịnh
Khéo
chỉ tâm niết bàn.
Ba
đạo từ đây vào
Trăm
nhọc chớ tìm ngoài
Có
người in trăm bản
Hơn
thí một thuyền vàng.
HẾT
LỜI
BẠT
Nhứt
tâm là tổng tướng của muôn pháp, muôn pháp là biệt tướng
của nhứt tâm. Tâm có hai loại chơn vọng chẳng đồng. Nương
vào chơn tâm mau chứng bồ đề. Đuổi theo vọng tâm thì trôi
nổi trong sanh tử. Chơn tâm vọng tâm nên biết là bản thể.
Chơn tâm là cái biết mầu nhiệm: không biết mà biết. Vọng
tâm là cái biết của thức: có biết mà biết. Không biết
mà biết thì viên minh tịch chiếu. Có biết mà biết thì niệm
niệm sanh diệt.
Đại
sư khởi lòng từ, mượn văn vấn đáp để biện minh chơn
tâm, chỉ trần nẻo tu chứng. Từ đầu chí cuối mỗi lời
đều khế lý. Quyển Lục nầy truyền bá ở đời như ngọn
đèn sáng suốt hay phá được đêm dài vạn kiếp, mà thẳng
đến Bảo sở. Thực là pháp quí, hẳn là pháp quí. Tôi xem
quyển Lục nầy không thôi, và lại đọc nó đề làm lời
bạt.
Thể
Như Cư Sĩ Lưu Phương kính bạt.
LỜI
SAU SÁCH
Thiền
sư Tổ Nguyên biện luận về Nho giáo và Đạo giáo, có nhiều
phát minh và lý luận rất xác đáng. Như điều “cách vật”,
lấy vật làm tình thức. Đây là cái học của ông Dương
Minh.
Họ
Vương nói: “Không thiện không ác là thể của tâm”. Dạy
người không dính điều thiện, không mắc việc ác. Chỗ này
gọi là tâm chơn như. Có thiện có ác là sự dấy động của
ý. Thiện ác do ý động mà sanh. Vì do bất giác mà có tâm
sanh diệt. Biết thiện ác là đạt đến lương tri. Lương
tri cùng với thức tri chẳng đồng. Lương tri tức là Diệu
giác, tức là bản giác, tức là diệu quan sát trí. Muốn đạt
đến lương tri nầy, trước hết là phải chẳng bị vật
dục che, là làm việc thiện, bỏ việc ác, tức là cách vật.
Việc này Mạnh Tử bảo rằng “cơ quan của tai mắt”. Không
nghĩ mà không bị che bở vật. Chữ vật giảng là tình thức,
thì nhứt định cách đi cái vật dục nầy rồi sau mới có
thể thành ý, chánh tâm vậy.
Vạn
vật trong thiên hạ đều sai khác, làm sao xét cho cùng mỗi
vật? Chỉ có vật dục của tâm người, tức là ác. Bỏ cái
ác vật dục kia thì việc lành của bản tâm mới hiện. Không
ác liền là thiện. Tên thiện ác cũng chẳng lập.
“Khắc
kỷ phục lễ”, Kỷ tức là vật. Nếu đem mỗi vật ra mà
xét, thì tâm đã loạn rồi, làm sao có thể thành ý? Há chẳng
nghe nói sự rộng lớn của trời đất, dù là thánh nhơn cũng
có chỗ chẳng biết, có chỗ chẳng thể làm. Cái trí của
Nghiêu Thuấn còn chẳng thể hiểu khắp muôn vật thay. Huống
là vật trong thiên hạ cũng có ra ngoài cái thường lý ấy.
Chẳng phải tánh linh của tâm con người có thể học tất
cả được? Phàm vật trong thiên hạ nhơn cái lý đã biết
kia mà hiểu rốt cùng của nó.
Khán
thoại đầu của Thiền tông, tức là đề khởi một chữ
một câu từ chỗ có đạo lý, mà đến chỗ không đạo lý.
Một niệm gậm mãi một chỗ, mắt nhìn mãi một nơi, dựng
dậy xương sống suốt năm suốt tháng. Chợt một hôm toàn
thân xuất mồ hôi, thoắt ngộ được bản tâm, thấy được
bản tánh mình. Chỗ ấy gọi rằng dụng sức lâu mà một
ngày rỗng rang thông suốt.
Phải
biết, tham thiền chẳng qua là mượn câu thoại đầu để
cột vọng tâm, một chỗ chớ chẳng phải trong câu thoại
đầu có đạo lý gì? Phật nói: “Dừng tâm một chỗ, không
việc gì chẳng xong”.Đạo giáo nói: “Được cái một, muôn
sự xong”. Kinh Di Đà nói: “Một tâm không loạn”. Trang
Tử nói: “Dùng chí chẳng lăng xăng mới ngưng được thần”.
Khổng Tử nói: “Đạo ta dùng lý một mà quán thông tất
cả”. Mạnh Tử nói: “Muôn vật đều đủ ở ta; đâu cần
xét ở muôn vật”?
Cho
đến sách của Đạo gia, chỉ có Đạo Đức kinh, Thanh Tịnh
kinh là chơn. Ngoài ra các sách khác như Âm Phù, Huỳnh đình,
Tham Đồng, Ngộ chơn. Tất cả đều từ trên xác thân mà
mò mẫm. Sự thành tựu của nó chẳng qua là mười hai loại
Tiên trong kinh Lăng Nghiêm nói mà thôi.
Địa
vị của Tiên gia đâu không có cao thấp, tất cả đều do
công hạnh có sâu cạn. Nếu xét về các bậc thượng thánh
từ xưa đến nay, bậc cao chơn “Luyện thần hoàn hư, luyện
hư hợp đạo” cũng ra ngoài ba cõi, đến đất Như Lai, đều
cùng Khổng thánh đồng vai. Chẳng như vậy thì Lão Tử cũng
sẽ đoạ lạc, làm sao ba đạo đồng hành chẳng trái ư?
Chùa
Phổ Độ, Thừa công (ông Thừa) (16) nhơn tham thiền ngộ đạo,
mà còn thông cả sách Nho và sách Đạo. Thực là hay ở trên
một từng cao tột, nên thấy được rõ ràng. Ngài đã trước
tác quyển Duy Tâm Tập và Kệ Niệm Phật là gì (niệm Phật
thị thuỳ?) hầu dẫn đạo cho quần mê, tận tình bày tỏ.
Thật là ngọn đèn trong nhà tối. Tôi thì ít thấy ít biết,
ấn chứng dưới toà, đáng được một gậy chăng?
Tháng
Xuân Vương, năm thứ 34
đời
cua Quang Tự Đổng Hư Tử,
tên
quang Phất kính ghi
(T.L
1908)