NGUYÊN THỦY PHẬT GIÁO
TƯ TƯỞNG LUẬN
Viện Đại Học Vạn Hạnh xuất
bản 1969
Chùa Khánh Anh, France tái
xuất bản
Tác giả:
KIMURA TAIKEN
Hán dịch:
ÂU DƯƠNG HÃN TỒN
Việt dịch:
THÍCH QUẢNG ĐỘ
--o0o--
MỤC LỤC
TỰA
Phật
giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao
gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu
Thừa Phật Giáo. Người ta không thể nào tưởng tượng được sự tồn tại của một
cái cây mà không có gốc nhưng nếu chỉ có gốc không thôi thì cây ấy không
còn sức sống; hoặc giả có gốc, có thân cây mà không có cành lá thì cây ấy
cũng như cây trong mùa đông không khỏi gây cho người ta cái ấn tượng trơ
trụi tiêu điều. Nếu phần gốc và thân cây giữ cho cái cây đứng vững, thì
phần cành lá sum suê, xanh tốt là sự biểu dương cho cái sức sống mãnh liệt
của toàn bộ cái cây; hơn nữa tàn cây tươi thắm tỏa ra che rợp khoảng không
gian có đủ sức mang lại cho người lữ hành trên con đường dài mệt mỏi những
phút giây êm mát, thoải mái giữa buổi trưa hè oi bức.
Cái cây Phật Giáo cũng thế: cả
ba phần Căn Bản, Tiểu Thừa, Đại Thừa có hợp lại, có biểu lí và bổ sung cho
nhau thì mới là cái cây Phật giáo hoàn toàn. Sau khi đọc xong ba bộ sách
Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận, Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận và
Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận của Bác sĩ Kimura Taiken, chúng tôi đã có
ý nghĩ như thế. Do đó theo thiển kiến, quan điểm của các nhà Đại Thừa (Bồ
Tát) xưa đối với các nhà Tiểu Thừa (La Hán) cũng như những thành kiến của
các nhà Tiểu Thừa đối với các nhà Đại Thừa đều là sai lầm. Chẳng hạn quan
niệm của các nhà Đại Thừa thường cho các nhà Tiểu Thừa là hạng “tiêu nha
bại chủng” (dứt hạt giống Phật), nghĩa là hạng người ích kỷ, chỉ biết tìm
cầu giải thoát cho riêng mình, không lo “hoằng pháp lợi sinh” để tiếp nối
cái tinh thần truyền đạo của Phật v.v.. là quan niệm rất sai lầm, hoàn
toàn không đúng với sự thật lịch sử. Khi đọc lịch sử truyền bá Phật pháp,
không ai biết đến trường hợp Phú-lâu-na (Punna).
Ở Mạn tây Ấn Độ thuở xưa có một
địa khu gọi là Du-lâu-na (Sunaparanta), Phật giáo chưa được truyền đến đây
và dân bản xứ thì rất hung ác. Phú-lâu-na có ý định qua đó truyền giáo,
bèn đến xin phép Phật để đi. Phật bảo: “Dân xứ Du-lâu-na dữ tợn, khó
thuyết phục lắm, nếu ông đến đấy mà họ sỉ vả ông thì sao?”. Phú-lâu-na trả
lời: “Con nghĩ rằng họ vẫn là những người hiền lành, vì họ đã không dùng
gậy gộc đánh đập con”.
- “Vậy nếu họ dùng gậy gộc đánh
đập ông thì ông nghĩ sao?”. - “Con nghĩ họ vẫn là người lương thiện vì họ
đã chẳng dùng dao búa chém giết con”. - “Thế lỡ họ dùng dao búa chém giết
ông thì ông nghĩ sao?”. - “Con nghĩ là họ vẫn tốt và con phải cám ơn họ vì
nhờ họ mà con xả bỏ được cái thân nhơ nhớp khổ đau này.” Biết được ý chí
kiên quyết và dũng cảm ấy, Phật liền tán đồng và cho phép Phú-lâu-na đến
truyền đạo tại xứ đó. Ai dám bảo thái độ ấy là thái độ “độc thiện kỳ
thân”, là “tiêu nha bại chủng”?. Đây chỉ là một trường hợp điển hình trong
vô số trường hợp khác mà ở đây chúng tôi không thể kể hết được. Hơn nữa,
cứ nhìn vào tình hình Phật giáo Tiểu Thừa tại các nước như: Tích Lan, Miến
Điện, Thái Lan, v.v… Hiện nay ta cũng thấy rõ công đức truyền bá và duy
trì Phật pháp của các nhà Tiểu Thừa như thế nào rồi, đặc biệt tấm gương
sáng chói của Anagarika Dhammapala gần đây cũng chính là tiếp nối cái tinh
thần truyền thống của những Puma và Mahinda từ nghìn xưa vậy.
Trái lại, quan niệm của các nhà
Tiểu Thừa thường cho rằng Đại Thừa là “Phi Phật thuyết” (Đại Thừa không
phải phật nói ra ngụ ý là ngoại đạo), rồi tự mãn với lối sống truyền thống
của mình, tự đóng kín, không chịu tìm hiểu các kinh điển của Đại Thừa thì
quan niệm ấy nếu không là cố chấp thái quá thì cũng là hơi hẹp hòi. Nếu
bảo Đại Thừa “Phi Phật thuyết” thì ngoài một bậc Đại giác “Cùng tận chúng
sinh nghiệp tính” ra, ai có được những tư tưởng siêu việt như tư tưởng
trong các kinh Đại Thừa? Rồi độc giả (nếu tôi hân hạnh có được) sẽ thấy,
thế giới quan “trùng trùng duyên khởi” một kiến trúc vĩ đại, trong Hoa
Nghiêm, thế giới quan “không” của Bát Nhã, tư tưởng “chư pháp thực tướng”
trong Pháp Hoa, tư tưởng “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” trong kinh Kim
Cương, cho đến tư tưởng “Vô trụ niết bàn”, “phiền não tức Bồ Đề”, v.v… Tất
cả những tư tưởng mông mênh, bao la và thăm thẳm ấy đều đã bắt nguồn từ tư
tưởng của Phật Giáo nguyên thủy.
Phật pháp chỉ có một vị, đó là
vị giải thoát, nhưng phương pháp để đạt đến giải thoát thì có rất nhiều và
phương pháp nào-dù là Đại Thừa hay Tiểu thừa cũng đều nhằm đạt đến
mục đích nhất vị kể trên. Chính vì muốn nhấn mạnh ở điểm đó nên chúng tôi
đã cố gắng phiên dịch các cuốn Đại Thừa Phật giáo Tư tưởng Luận, Tiểu Thừa
Phật giáo Tư tưởng Luận và cuối cùng cuốn Nguyên Thủy Phật giáo Tư tưởng
Luận này để cống hiến một ít tài liệu cho những vị nào hằng lưu tâm đến
các vấn đề Phật giáo, nhất là thường thắc mắc đến những điểm dị đồng giữa
Tiểu Thừa và Đại Thừa.
Chắc độc giả sẽ tự hỏi tại sao
chúng tôi đã không bắt đầu dịch từ Nguyên Thủy, qua Tiểu Thừa, rồi đến Đại
Thừa để cho người đọc dễ theo dõi quá trình diễn biến của Tư tưởng Phật
giáo hơn mà lại dịch Đại Thừa trước thì có khác nào người đọc sách bắt đầu
từ trang cuối cùng trở lên không? Đó chính là đều chúng tôi rất tiếc. Đôi
khi chúng tôi có ý nghĩ rằng trong cái thế giới đảo điên này, nếu người ta
bắt đầu mọi công việc từ cuối trước có lẽ lại hay hơn. Nhưng đây không
phải là lý do trong trường hợp này, mà lý do là chúng tôi đã có được cuốn
Đại Thừa trước hết, kế đó là cuốn Tiểu Thừa nhưng đến cuốn Nguyên Thủy này
thì chúng tôi đã không thể nào kiếm được là vì nó đã được dịch và xuất bản
lần đầu từ gần bốn mươi năm nay và từ đó theo chỗ chúng tôi biết vẫn chưa
được in lại. Nhưng duyên may đã đến khi chúng tôi được Thượng Tọa Trí
Quang cho biết là Thượng Tọa Thiện Siêu hiện có cuốn sách này, bởi thế một
hôm, nhân Thượng Tọa Minh Châu có việc sắp đi Huế, chúng tôi đã bày tỏ
niềm khao khát của chúng tôi với hy vọng được Thượng Tọa giúp đỡ bằng cách
trực tiếp hỏi Thượng Tọa Thiện Siêu để mược giúp tôi thì chắc chắn sẽ được
và Thượng Tọa Minh Châu đã hoan hỷ nhận lời. Thế là sau chuyến đi Huế ấy
của Thượng Tọa Minh Châu, chúng tôi đã có được cuốn Nguyên Thủy Phật Giáo
Tư tưởng Luận, một bảo vật mà chúng tôi hằng mong ước. Khi có được Nguyên
Thủy thì chúng tôi cũng đã dịch gần hoàn thành cuốn Tiểu Thừa đó là lý do
cắt nghĩa tại sao chúng tôi đã bắt đầu cuốn Đại Thừa trước.
Nhân cơ hội này, chúng tôi xin
chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu xa của chúng tôi đối với quý Thượng Tọa
Thiện Siêu, Minh Châu và Trí Quang đã giúp đỡ chúng tôi đạt thành ý
nguyện. Chúng tôi đánh giá rất cao sự giúp đỡ đó và coi nó là một duyên
may lớn cho chúng tôi.
Sau hết, chúng tôi thành kính
cầu mong các bậc cao minh sẽ phủ chính cho những lỗi lầm mà chúng tôi tin
rằng có rất nhiều, để, nhờ đó, sau này, nếu có thể, cuốn sách sẽ được kiện
toàn trong kỳ tái bản.
NGƯỜI DỊCH
BIỂU VIẾT TẮT
D. |
Dighanikàya |
Trường A-Hàm |
M. |
Majjhimanikàya |
Trung A-Hàm |
A. |
Anguttaranikàya |
Tăng nhất A-Hàm |
S. |
Samyuttanikàya |
Tạp A-Hàm |
Vin.T. |
Vinaya Text |
Chỉ chung cho luật văn |
Milinda p,a. |
Milinda Panha |
|
Dh.pada |
Dhammapada |
|
Sutta n. |
Sutta nipàta |
|
---o0o---
Mục Lục
Thiên thứ nhất
|
I
|
II |
III
Thiên thứ hai |
I |
II |
III
|
IV |
V
|
VI |
VII
Thiên thứ ba |
I |
II
|
III
|
IV|
V |
VI
---o0o---
Cùng một tác giả
Tiểu Thừa Phật Giáo-Tư Tưởng Luận
Đại Thừa Phật Giáo-Tư Tưởng Luận
---o0o---
Source:
http://www.thuvienhoasen.org
Trình bày:
Linh Thoại
-
Cập nhật:
01-12 -2003