Thương yêu là hiểu biết. Thương
yêu không phán xét hay kết tội. Thương yêu lắng nghe và cảm thông.
Thương yêu quan tâm và đồng tình.
Thương yêu chấp nhận và tha thứ. Thương yêu không biết
đến chướng ngại. Nó không phân biệt mà nói: Tôi là Nguyên Thủy, bạn
là Ðại Thừa hay Tây Tạng. Nó không nói: Tôi là Phật tử và bạn là Cơ Ðốc,
Hồi Giáo hay Ấn Giáo. Hay tôi là người Trung Hoa, bạn là người Mã Lai,
người Ấn Ðộ hay người Lai Âu Á. Hay tôi là người Phương Ðông và bạn là
người Phương Tây; hay tôi là người Mã Lai, bạn là người Nhật Bản, Hoa
Kỳ, Miến Ðiện, Thái và vân vân...
Thương yêu vượt qua tất cả
chướng ngại. Thương yêu thấy và cảm thấy chúng ta
đều là một giống nòi, một giống người.
Nước mắt của chúng ta đều giống nhau; chúng
đều mặn, và máu của chúng ta đều đỏ.
Khi có loại tình yêu và từ bi này chúng ta có thể có cảm tình với
người khác. Chúng ta có thể thấy chúng ta cùng
đi trên một con thuyền trong biển dông
bão của cuộc đời. Chúng ta là những
bạn đau khổ trong luân hồi, cái bất tận xẩy
ra trong vòng sinh tử. Chúng ta là anh em và chị em.
Từ bi là tiếng nói của con tim.
Ở vào lúc khi chúng ta bị thúc đẩy bởi tình
thương và từ bi, chúng ta chìa tay ra giúp
đỡ không phân biệt nòi giống, tín ngưỡng, hay quốc tịch của người
khác. Dưới ánh sáng của từ bi, sự nhận dạng về nòi giống, tín ngưỡng vân
vân trở thành thứ yếu; chúng trở thành vô nghĩa. Hơn nữa, từ bi như vậy
không phải chỉ giới hạn ở con người mà còn trải rộng tới tất cả những
vật sống gồm có súc vật và côn trùng. Song hàng với
đề tài từ bi như tiếng nói của con
tim, tôi muốn kinh gửi quí vị một bài thơ
Tôi cảm thấy nếu chúng ta cố
gắng trau dồi loại tình thương ấy và từ bi ấy, và
đến lúc cái chết tới, chúng ta sẽ ra đi an bình.
Cho dù chúng ta không thành công 100 phần trăm
ở trong tình thương yêu toàn hảo, chúng ta vẫn sung sướng và mãn
nguyện rằng chúng ta đã cố gắng. Và
chắc chắn chúng ta đã thành công ở
một mức độ nào
đó.
Ðúng, trong cái thế giới bất
toàn hảo này, người mạnh cuớp bóc kẻ yếu, giết chóc lan tràn. Chúng ta
có thể nhìn thấy điều này trong thế
giới
động vật, con hổ ăn thịt con nai ra sao, con
rắn bắt con nhái, con nhái bắt chuồn chuồn, con chim bắt sâu, và
cá lớn nuốt cá bé. Và con người chúng ta giết thú vật và cá và thậm chí
giết lẫn nhau. Nhưng chúng ta ở đây không
phải để xét xử hay kết tội. Chúng ta hiểu những nhược điểm của con người
và bản chất không hoàn chỉnh của cuộc sống. Ðức Phật cũng hiểu
như vậy. Ngài nói khi chúng ta có thể thanh tịnh tâm của chúng ta và
đạt Niết bàn thì chúng ta có thể không
chọn cuộc sống bất toàn hảo, cái vòng sinh tử này. Chính chúng ta sẽ
kiểm tra xem liệu chúng ta có thể làm được
điều này không. Khi chúng ta đã
tẩy sạch
được tất cả tham, sân si trong tâm chúng ta,
chúng ta sẽ biết chắc bằng kinh nghiệm trực tiếp liệu Ðức Phật
nói
đúng hay không. Cho đến lúc đó, tôi có niềm
tin chẳng là gì tốt hơn là đi theo
con đường của Ðức Phật, con đường
thanh tịnh tâm.
Giới thứ tư là không nói dối mà
nói sự thật. Một lần nữa chúng ta không nên nghe những kẻ nói rằng ta sẽ
không thành công nếu không nói dối và đóng
vai giả dối. Lòng chân thật là một trong thập pháp (mười
đức hạnh) được triệt để tuân theo bởi một Bồ
Tát (một người muốn đạt Phật quả). Tất cả những người Phật tử cũng phải
phát triển những đức hạnh đến một mức độ đáng kể nếu muốn đạt được A La
Hán quả - giải thoát khỏi vòng sinh tử. Ðức Phật muốn chúng ta
hết sức ngay thẳng nên đã khuyến cáo
chúng ta không nói dối thậm chí khi nói đùa
chơi. Cho nên chúng ta nên cố gắng hết mình
để giữ giới cao quý không nói dối này. Hơn nữa mặc dù chúng ta
không đi tìm nó, thanh danh của một
người chân thật vẫn lan tràn xa rộng. Thâm chí người gièm pha cũng phải
thừa nhận và kính trọng người chân thật.
CHÚNG TA LÀ NHỮNG CỨU TINH CỦA CHÍNH MÌNH
Ðôi khi là một nhà sư tôi
được yêu cầu
đến tụng kinh cho tang lễ. Tôi cảm thấy buồn
cho gia quyến của người chết nhưng đôi khi tôi cũng cảm thấy không giúp
được gì vì có quá nhiều khó xử trong vai trò của một nhà sư
đi tụng kinh đám tang.
Một ngày nọ, một phụ nữ trẻ
tuổi đến gặp tôi. Cha cô mới chết sáng hôm
đó. Ông mới chỉ 42 tuổi. Cô nói với tôi bằng tiếng Phúc Kiến:
"Xin mời thầy đến tụng kinh. Xin thầy mở
con đường cho cha tôi". Tôi nhìn cô ta với tất cả tấm lòng từ bi
mà tôi có thể tập trung. Tôi có thể cảm thấy sự bối rối và
đau khổ của cô. Cô khoảng chừng 20 tuổi và
là một người con gái có hiếu. Trong thâm tâm tôi nói thầm với mình:
"Trời ơi tôi sẽ mở đường cho người như thế
nào
đây? Con đường tưởng tượng nào tôi sẽ
vẽ trong không khí cho hồn tưởng tượng đặt
chân lên? Làm sao tôi có thể nói với người phụ nữ trẻ tuổi tội
nghiệp đang ở trong tình trạng buồn
phiền và bối rối rằng không có con đường nào
như cô có lẽ đã tưởng tượng như
thế?"
Ðức Phật cũng có lần ở trong
tình thế như vậy và Ngài đã trả lời
ra sao? Một hôm một người trẻ tuổi lại gần Ðức Phật và hỏi Ngài: "Bạch
Thế Tôn, cha con chết. Xin mời Ðức Phật đến
và cầu nguyện cho cha con, cứu độ
linh hồn ông ấy để ông ấy có thể đi lên thiên
đàng. Những người Bà La Môn cử hành những nghi thức này nhưng Ðức
Phật lại còn mạnh hơn họ nhiều. Nếu Ngài sẽ làm
điều đó, chắc chắn hồn cha con sẽ bay thẳng về thiên
đàng".
Ðức Phật trả lời, "Rất tốt, hãy
đi ra chợ và và
đem về cho ta hai cái bình
đất và một ít bơ". Người trẻ tuổi sung
sướng vì Ðức Phật đã hạ cố thi hành
một số thần thông để cứu linh hồn cha của mình.
Anh ta vội vã đi ra phố và mua các
thứ mà Ðức Phật bảo. Ðức Phật chỉ dẫn cho anh ta
để bơ vào một bình và để đá vào
bình kia. Rồi ném cả hai bình đó xuống ao.
Người trẻ tuổi làm theo và cả hai bình
đều chìm xuống đáy ao. Rồi Ðức
Phật tiếp tục: "Bây giờ hãy lấy một cái gậy và
đập vỡ hai bình
đó ở dưới ao". Người trẻ tuổi làm
theo. Hai cái bình bị đập vỡ và bơ
thì nhẹ đã nổi lên còn hòn
đá vì nặng nên vẫn ở dưới
đáy ao.
Rồi Ðức Phật nói: "Bây giờ
nhanh lên đi tập họp tất cả những thầy tu.
Hãy nói với họ đến và tụng
kinh
để bơ chìm xuống và viên
đá nổi lên." Người trẻ tuổi nhìn Ðức
Phật, sửng sốt, nói, "Bạch Ðức Thế Tôn, Ngài có nói thật không ạ. Chắc
chắn Ngài không thể trông chờ bơ nhẹ mà chìm và
đá nặng mà nổi. Ðiều
đó ngược lại với qưi luật tự nhiên."
Ðức Phật mỉm cười và nói: "Này
con, con đã thấy nếu cha con có một
cuộc đời lương thiện thì những hành
vi của ông cũng nhẹ như bơ cho dù thế nào thì ông cũng lên thiên
đàng. Không ai có thể cản
được, ngay cả đến ta. Không ai có thể chống
lại nghiệp luật thiên nhiên. Nhưng nếu cha ngươi có một cuộc
đời bất thiện thì cũng giống như hòn
đá nặng, cha ngươi sẽ bị chìm vào
địa ngục. Dù tụng kinh nhiều
đến đâu đi nũa bởi tất cả các thầy tu trên
thế giới này cũng không thể gây thành khác
được."
Người trẻ tuổi hiểu rõ. Anh
chữa lại quan niệm sai lầm của anh và ngừng
đi loanh quanh đòi hỏi cái không thể
được. Nụ cười của Ðức Phật đã
đi tới điểm: Không ai có thể cứu chúng ta,
tối thiểu của tất cả sau khi chúng ta chết. Theo nghiệp luật, chúng ta là
sở hữu chủ của những hành vi của chúng ta, chúng ta là người thừa hưởng
những hành vi của chúng ta. Những hành vi của chúng ta thực sự là tài
sản của chúng ta. Chúng là chỗ nương tựa thực sự của chúng ta, là những
thân nhân thực sự của chúng ta. Chúng là trung tâm từ
đó chúng ta xuất phát. Khi chúng ta chết,
chúng ta không mang được dù chỉ có một xu với chúng ta, hay bất
cứ thứ đồ gì của cá nhân chúng ta.
Cũng chẳng có thể mang được một trong những
người thân để cùng đi với chúng ta.
Giống như chúng ta đến một mình theo nghiệp của chúng ta thì
chúng ta cũng phải ra đi một mình.
Nếu chúng ta hiểu rõ nghiệp luật, thì chúng ta sẽ cảm niệm thấy sống một
cuộc
đời lương thiện quan trọng đến như thế nào
trong khi chúng ta còn sống. Ðợi đến lúc
chết thì sẽ quá muộn. Có một chút gì
đó có thể làm được.
TÁI SANH NGAY TỨC KHẮC
Tuy nhiên, có một vai trò mà
người thầy tu có thể áp dụng trong việc tụng kinh tang lễ. Ðó là cách
chia sẻ công đức của Phật Giáo. Chia sẻ
công đức hay hồi hướng công đức ảnh hưởng thế nào? Trước khi
chúng ta có thể giảng nghĩa điều này,
trước hết chúng ta phải hiểu cái gì xẩy ra vào lúc chết. Theo Ðức Phật,
tái sinh xẩy ra lập tức sau khi chết, thức có tính chất sinh diệt không
ngừng. Không có khoảng cách giữa cái chết và tái sinh kế tiếp.Vào lúc
chúng ta chết thì lúc sau tái sinh xuất hiện, cả trên bình diện con
người cũng như bình diện thú vật, bình diện ngạ quỷ, bình diện của A Tu
La, bình diện
địa ngục, hay bình diện thiên giới.
Ta tái sanh theo nghiệp của ta.
Nếu ta sống một cuộc đời lương thiện, nói
chung ta sẽ được sự tái sanh tốt. Tâm ở trong trạng thái thiện vào
lúc chết làm cho tái sanh tốt đến. Ta có
thể tái sinh làm người hay thần ở một trong nhiều cảnh giới cõi
trời. Ðức Phật có thể nhìn thấy bằng năng
lực tâm linh những cảnh giới khác nhau về kiếp sống, và cũng nhìn
thấy chúng sinh chết ra sao và tái sinh ngay lập tức theo những hành vi
của chúngï. Ðức Phật và nhiều các nhà sư ở thời
đại của Ngài đã có thể nhớ lại
được tiền kiếp.
Nếu ta sống một cuộc
đời tội lỗi, thì tái sinh xấu sẽ
đến – một trong bốn trạng thái thống khổ là
địa ngục, ngã quỷ, súc sinh hay A Tu
La. Nhưng dù tái sinh vào bất cứ nơi nào, ta cũng không ở
đấy vĩnh viễn. Khi thọ mạng ở trong đó hết
hạn, cái chết xảy ra và nó đi vào
một tái sinh mới. Cho nên kiếp sống ở địa
ngục hay ngã quỷ cũng không vĩnh viễn. Có hy vọng: sẽ có cơ hội,
tuy có thể phải mất một thời gian không kể xiết
để có cơ hội này. Cho nên tốt hơn là
đừng để rơi vào những nơi thống khổ,
một khi đã rơi vào
đó không ai biết sẽ phải ở đó bao lâu. Có thể
dường như vô tận!
Tương tự như vậy, kiếp sống ở
cõi trời cũng không vĩnh viễn. Khi kiếp sống tại
đó đã mãn, rất có thể rơi vào bình
diện thấp hơn. Chỉ có các bậc A La Hán đã
rũ bỏ tất cả ham muốn để tái sinh, đã
loại bỏ được tất cả những ô nhiễm của tham,
sân và si, sẽ không phải tái sinh. Lúc chết họ không còn phải
sinh vào bất cứ một trong 31 bình diện kiếp sống. Họ không còn bị luân
hồi, không còn bị vào vòng sinh tử. Họ đạt
được vô dư niết bàn, tức là dập tắt
được toàn bộ khổ đau của thân và
tâm. Nhưng cho
đến khi trở thành A La Hán, vẫn phải
tái sinh.
CHIA SẺ CÔNG ÐỨC ẢNH HƯỞNG RA
SAO
Bây giờ muốn hồi hướng công
đức được hữu hiệu, điều cần thiết là
người nhận công đức phải biết việc gì
đang xẩy ra. Người đó phải có mặt và
có thể chấp thuận những hành vi thiện được
tiến hành bằng tên người ấy hay nhân danh người ấy. Nếu người ấy
chấp thuận, thì sự chấp thuận hay trạng thái tâm vui vẻ là một trạng
thái thiện trong tâm. Nói một cách khác, người ấy giành
được công đức cho chính mình bằng cách
vui mừng những hành vi lương thiện đã
được làm vì người ấy. Bởi vậy
không phải là chúng ta chuyển công đức của
chúng ta cho người ấy. Việc đó theo nghĩa đen không thể làm
được. Cái xẩy ra là người ấy vui mừng
và sự vui mừng ấy là một hành vi công đức
khiến cho sự khổ đau của người ấy có thể giảm đi và hạnh phúc của
người ấy tăng lên.
Nếu sau khi chết, tái sinh xảy
ra trong bình diện con người hay thú, chúng sinh sẽ không ở trong vị trí
biết được điều gì xẩy ra – chẳng hạn
vẫn còn là một bào thai trong dạ con người mẹ. Trong những hoàn cảnh như
vậy, người ấy không thể vui hưởng hay chia sẻ trong việc làm công
đức.
Nếu một người
đã bị tái sinh vào
địa ngục, người ấy cũng không thể biết cái gì
sẽ xẩy ra trên thế giới này vì người ấy bị
đau khổ ở địa ngục, đây là một bình diện khác của kiếp sống trong
đó người ấy không hiểu biết về cái gì
diễn ra nơi đây trên trái
đất. Nếu người ấy được tái sinh làm
người của cõi trời, cũng không hẳn là người ấy có thể tiếp xúc
được với thế giới này. Người ta nói
rằng vì quá sung sướng và quá bận rộn tìm hiểu những cái tuyệt vời của
kiếp sống mới họ không thể quan tâm ngay
đến cái gì đang xẩy ra trên
trái
đất. Thời gian chỉ là tương
đối, và một ngày ở tầng trời Tavatimsa
được nói rằng bằng 100 năm ở trái đất! Cho nên
vào lúc mà người trời, ấy là nói vậy, nhìn xuống dưới này, chúng ta tất
cả
đều đã chết và
đi rồi! Hơn thế nữa, chúng ta không thể nói
chắc người trời tự động có thần thông tâm linh để nhớ lại tiền kiếp của
mình, mặc dù kinh sách có ghi lại một số trường hợp người trời
nhớ những gì họ
đã làm ở tiền kiếp
để được tái sinh vào cõi trời.
Cho nên trong kinh Tirokutta,
Ðức Phật nói với một người Bà La Môn là chỉ có thần hồn bất hạnh (peta)
mới có thể chia sẻ công đức. Những thần hồn
này, tuy ở trong những cảnh giới riêng của họ, có thể quan sát
bình diện của loài người bằng chính mắt của họ. Nếu họ nhận thức
được những hành vi công
đức được làm cho họ, và vui hưởng về
điều này, thì họ có thể giành
được công đức do sự vui mừng của họ.
Ðương nhiên không ai muốn người thân của mình tái sinh làm thần hồn bất
hạnh (peta). Người ta thích nghĩ là họ sẽ tái sinh làm người hay làm
người ở cõi trời.
Vì thế người Bà La Môn hỏi Ðức
Phật cái gì sẽ xẩy ra nếu người chết đã
giành được sự tái sinh tốt. Ðức Phật
trả lời, chia sẻ công đức vẫn là
tốt, vì ta sẽ ít lạc hướng hơn luân hồi, lúc bắt
đầu chắc chắn có một số thân quyến của chúng ta ở tiền kiếp đã có
tái sinh không may thành petas. Vì tuổi thọ của peta rất dài, họ vẫn còn
ở quanh quẩn đâu đó. Cho nên chúng
ta chia sẻ công đức với thân quyến quá cố,
và với tất cả chúng sinh. Ngoài ra, Ðức Phật nhấn mạnh, người làm
hành vi tốt vì người đã ra
đi chính mình cũng giành
được công đức.
Chia sẻ công
đức là một truyền thống Phật Giáo.
Người Phật tử làm những hành vi tốt như cúng dường thực phẩm và những
đồ cần thiết cho các thầy tu, bảo trợ in kinh
và bố thí cho công cuộc từ thiện, như chỗ ở cho người già, bệnh
viện từ thiện và cơ sở cho người tàn tật. Rồi người ấy mời những người
đã ra đi
và tất cả chúng hữu tình vui hưởng và chia sẻ công
đức. Ðiều này tự nó là hành vi tốt,
người làm không "mất" tý công đức nào
mà còn được hưởng nhiều hơn bởi sự chia sẻ,
vì hành động chia sẻ là một
hành vi công
đức khác. Cho nên người sống có hai
công đức – thứ nhất là thực hiện
hành vi tốt và thứ hai là chia sẻ công đức.
Sự có mặt của các nhà sư
để tụng kinh Phật và nói Pháp cho
những người thân bị mất mát vào lúc buồn phiền của họ, cũng là một sự hỗ
trợ tinh thần to lớn. Nhà sư có thể nhắc nhở những thân nhân còn sống về
giáo lý vô thường, khổ đau và vô ngã
của Ðức Phật. Các nhà sư thuyết phục thân nhân chấp nhận sự khổ
đau với trí tuệ, và phấn
đấu chuyên cần hơn
để dạt Niết Bàn, sự chấm dứt hoàn toàn
tất cả khổ đau.
Nếu chúng ta hiểu và chấp nhận
khái niệm Phật Giáo về tái sinh xẩy ra ngay lập tức, thì chúng ta sẽ
hiểu
được điều quan trọng là phải thực hành
những hành vi tốt trong khi chúng ta đang
sống. Bởi làm những hành vi tốt, chúng ta có nghiệp tốt. Nghiệp
là di sản thực sự của chúng ta, vì chỉ có hành vi hay nghiệp mới có thể
theo chúng ta. Sau khi chết, việc đốt vàng
mã, nha cửa, xe cộ bằng giấy vân vân... không có lợi lộc gì cho người
chết. Việc làm này đi ngược lại với cái hợp
lý của nghiệp. Hơn thế nữa chúng ta có thể quyết định – làm sao
có thể đốt cái gì ở nơi
đây lại có thể biến thành cái gì ở bên
kia thế giới hay ở bất cứ nơi nào. Cái gì
được đốt thì chỉ là cháy; nó vẫn là cái bị cháy. Trong pham vi
nghiệp luật, cũng vậy dâng cúng đồ ăn cho
người chết cũng vô nghĩa. Khi tái sinh, chúng sinh mới sinh tồn bằng
loại đồ ăn thích hợp với bình diện của kiếp sống. Bởi vậy chúng
ta thấy Ðức Phật không bao giờ bảo chúng ta cúng
đồ ăn cho người chết hay đốt vàng mã, vân vân...
Hiển nhiên, những nghi thức và
nghi lễ về tang chế được truyền thừa từ thế
hệ này đến thế hệ nọ không có một tư
tưởng nào là căn bản và có
nghĩa lý. Ðiều mà Ðức Phật dạy là, như đã
giải thích trước đây, làm một số
hành vi tốt vì hay để tưởng nhớ đến người
chết và rồi chia sẻ công đức bằng
cách tụng bằng tiếng Pali hay bằng ngôn ngữ chúng ta có thể hiểu được:
Xin
đem công đức này hướng về những người
chết. Xin những người chết hoan hỉ và chia sẻ công
đức đã
được làm.
TANG LỄ PHẬT GIÁO LÀ MỘT TANG
LỄ ÐƠN GIẢN
Con
đường Phật Giáo có nghĩa lý và
đơn giản. Nếu chúng ta hiểu và
đánh giá cao con đường Phật Giáo, thì
tang lễ Phật Giáo sẽ rất đơn giản tránh
nghi thức và nghi lễ dị đoan, tránh
sợ hãi, lo lắng hay bối rối. Ta không cần phải
đốt cái này cái kia,tiến hành những loại nghi thức xa lạ, và phải
tuân thủ tất cả những điều cấm kỵ, tất cả
những thứ hoàn toàn vô nghĩa và gây bối rối cho những người sống
thường bị cuốn theo điều đó vì sợ
hãi, áp lực xã hội hay dốt nát hơn là bất cứ cái gì khác. Ta không phải
mời những người chuyên nghiệp để tụng kinh
hay thực hiện các nghi thức cho một lệ phí nặng nề lên tới cả
ngàn Mỹ Kim hay thuê một ban nhạc để cử
nhạc mặc dù có thể là nhạc rất nghiêm trang.
Là một Phật tử, ta chỉ cần mời
những nhà sư Phật Giáo để tụng kinh Phật
Giáo không cần phải dài. Sẽ là tốt nếu có thể những kinh này
được dịch ra tiếng Anh hay Trung Hoa để tất
cả mọi người có mặt có thể hiểu được, cảm niệm và sưy ngẫm về cái
đã được
tụng những điều Ðức Phật đã
dạy về bản chất của sự sống và cái chết. Quan trọng nhất là giữ năm
giới bởi người cư sĩ – tụng bằng tiếng Pali, được phiên dịch thì
tốt hơn theo nhà sư. Sự gìn giữ và tuân theo năm
giới là sự tu hành căn bản của người
cư sĩ Phật Giáo. Sau khi thọ giới, nhà sư có thể nói Pháp
để an ủi, khuyên giải và khuyến khích
người có thân nhân chết.
Trong truyền thống Nguyên Thủy,
các nhà sư không thu một khoản lệ phí nào về buổi lễ của họ. Lễ này các
nhà sư làm do lòng từ bi, để hỗ trợ tinh
thần cho những cư sĩ thuần thành trong giờ cần thiết của họ. Bởi
vậy các nhà sư không tìm kiếm sự đền bù
bằng tiền bạc vì điều đó không hòa
hợp với tinh thần Phật Pháp. Tuy nhiên, những cư sĩ thuần thành
đôi khi cúng dường một phong thư đỏ cho vị sư
để mua những thứ cần thiết, như y áo hay thuốc men. Số tiền này,
nếu cúng dường, chỉ là một biểu hiện biết ơn. Thực ra, các nhà sư không
mong muốn phong bì đỏ, và nếu nó
được cúng dường thì chỉ là sự cúng
dường hoàn toàn theo sáng kiến của người cúng dường. Phơng bì này là
biểu hiện sự biết ơn không phải là lệ phí mà là cúng dường. Lệ phí,
trong trường hợp tang lễ, thường là một món tiền lớn lao
được ấn định bởi người làm dịch vụ
tang lễ trước khi đồng ý tiến hành
những tế lễ tỷ mỉ. Và như chúng tôi đã
nói điều đó không phải là việc làm
của một nhà sư.
Những thân quyến,
đương nhiên có thể cúng dường
đồ ăn cho các vị sư tại chùa. Những
người có khả năng hơn có thể cúng dường in
kinh sách Phật Pháp để biếu không. Họ cũng có thể cúng dường cho những
cơ sở từ thiện, cho những người nghèo, và những người túng thiếu.
Thay vì những vòng hoa tang, thân quyến và bạn bè nên
được khuyến khích cúng cho những hội từ thiện
đặc biệt. Tất cả những việc như thế làm tang lễ có ý nghĩa – bớt
đi những lề thói vụng về đem đến nhiều bối
rối và uổng phí tiền bạc.
CHÚNG TA CÓ THỂ HỌC HỎI TỪ
NHỮNG NGƯỜI KHÁC
Người chết có thể
đem thiêu hay
đem chôn ngay – vào cùng ngày hay ngày
hôm sau. Trên phương diện này tôi nghĩ những gia
đình Trung Hoa nên học hỏi một
đôi điều từ đám tang của người Hồi Giáo mà
tôi được biết là
đơn giản, thực tế và không tốn kém.
Một người Hồi Giáo bạn tôi nói cách thức của người Hồi Giáo là chôn ngay
vào ngày chết hay chậm nhất là ngày hôm sau. Cho nên nếu một người Hồi
Giáo chết lúc 2 giờ chiều, người chết có thể
được chôn trước khi mặt trời lặn vào cùng ngày. Nếu người chết vào
buổi tối hay đêm, người ấy
được đem chôn ngày hôm sau.
Tang lễ không tốn kém, dễ lo
liệu vì như người bạn tôi nói, Hồi Giáo không khuyến khích tiêu pha
phung phí mà khuyến khích đơn giản và
tiết kiệm. Một đám tang Hồi Giáo theo như
bạn tôi nói có một quan tài với giá ít ỏi là 500
đồng (tiền Mã Lai) – rất khác với một
tang lễ Trung Hoa có thể tốn kém đến 30,000
đồng hay hơn nữa! Thủ tục tang lễ của người Hồi Giáo, trong phạm vi Hồi
Giáo, tương đối đơn giản và có ý nghĩa. Tang lễ của người Cơ Ðốc
Giáo cũng đơn giản, không tốn kém và
có ý nghĩa đối với người Cơ Ðốc
Giáo, và sư chôn cất được thi hành
trong phạm vi 48 giờ.
Tôi tin rằng trong
đời sống chúng ta không bao giờ ngưng học
hỏi. Thường có những cách làm tốt hơn và có ý nghĩa hơn. Nếu
chúng ta duy trì tâm cởi mở và không thành kiến chúng ta có thể học hỏi
được từ những người khác. Trong Kinh Kalama,
Ðức Phật khuyên chúng ta phải luôn luôn suy nghĩ và
điều tra nghiên cứu chính chúng ta.
Nếu chúng ta thấy một thói quen tốt và có ý nghĩa thì chúng ta nên theo;
nếu chúng ta thấy nó xấu và vụng về thì chúng ta không theo nó, hay nếu
chúng ta đã chót theo nó, chúng ta
nên
đủ dũng cảm và khôn ngoan
để bỏ nó đi. Ðức Phật nói, không có gì
mà ta phải theo một cách mù quáng không hiểu biết hay không
đặt câu hỏi. Ðức Phật khuyến khích
chúng ta đặt vấn đề và
điều tra nghiên cứu. Cả
đến những lời của Ngài cũng phải
điều tra nghiên cứu, và chỉ khi thấy
những lời nói ấy đúng thì hãy theo.
Ðức Phật không muốn chúng ta có niềm tin mù quáng mà là một niềm tin căn
cứ vào kiến thức kinh nghiệm trực tiếp.
Cho nên, nếu chúng ta thấy
những sự thực hành đơn giản và tốt ở
những tôn giáo và truyền thống khác, chúng ta có thể áp dụng và theo
chúng miễn là chúng không mâu thuẫn với niềm tin
đạo lý của chúng ta. Về phương diện này, chúng ta có thể học hỏi từ
những người về cách họ thi hành tang lễ nhanh chóng và không tốn kém.
Chúng ta cũng nên loại bỏ những lề thói dị
đoan và không phải là Phật Giáo của chúng ta.
Tôi thấy có nhiều dị
đoan trong tang lễ truyền thống của người
Trung Hoa, và chính tôi đã
thấy những lề thói này trong khi tụng kinh ở tang lễ. Tôi cảm thấy bát
lực vì tôi chỉ có thể chứng kiến trong thầm lặng. Có một chút mà ta có
thể làm
được. Truyền thống rất khó để thay đổi, và
bất cứ cố gắng nào để thay đổi thường gặp
phải sự chống đối mãnh liệt và thâm chí bị kết tội nữa.
Có những lúc tôi ngần ngại
không muốn đi tụng kinh tang lễ vì băn
khoăn rằng sự có mặt của tôi ở đó là phụng sự cho mục tiêu gì.
Nhưng tôi luôn luôn hưởng ứng và cố làm những gì có thể
được bằng cách nói Pháp và làm trong
sáng tỏ lập trường của Phật Giáo bằng sự khéo léo có thể
được. Tôi nghĩ rằng bây giờ là thời
điểm cấp bách mà người Phật tử Trung
Hoa xét lại những thói quen tang lễ theo truyền thống và nên giản dị hóa
theo trí tuệ Phật Giáo. Tôi có thể bị chỉ trích về quan niệm của tôi
nhưng tôi cảm thấy nếu chúng ta không nói lên, chúng ta sẽ làm hại cho
cộng
đồng Phật Giáo.
Nếu tôi có thể
đề xuất một tang lễ Phật Giáo đơn giản, tôi
sẽ đề nghị việc hỏa táng nên được
tiến hành cùng ngày nếu có thể được,
còn nếu không thì vào ngày hôm sau. Tuy nhiên một số người muốn
giữ thi thể một vài ngày để thân quyến và
bạn bè ở xa có thể về tiễn biệt người ra đi
lần cuối, hay với nhiều lý do riêng tư. Cho nên việc quyết
định sẽ là một quyết
định riêng tư do gia
đình lo liệu. Tôi
đề nghị thiêu hơn là chôn vì nhiều suy
xét thực tế như thiếu đất, dân số tăng
trưởng, và tiết kiệm chi phí tang lễ có thể hướng vào những nhu
cầu có nghĩa hơn như từ thiện.
Người chết nên
được tắm rửa, sạch sẽ và mặc quần áo
bởi thân nhân hơn là người lạ. Việc này có ý nghĩa vì xác thân là người
yêu dấu của chúng ta, và điều tối thiểu
chúng ta có thể làm được là
nhẹ nhàng thi hành vời lòng thương yêu và kính trọng. Thi hài
được mặc quần áo không cần thiết phải khoa
trương hay hình thức mà người chết nên mặc
đồ thường được thích mặc khi còn sống.
Thi hài đàn ông nên
được tắm rửa và mặc quần áo bởi thân
quyến đàn ông, và thi hài phụ nữ thì
do thân quyến phụ nữ. Chúng ta không nên cảm thấy sợ hãi gì về xác chết,
nhất là xác chết của người thân yêu.
Cũng không có
điểm nào nói là phải
để đồ trang sức trên thi thể. Một lần
trong khi tụng kinh tại tang lễ, tôi thấy những người lo việc mai táng
phục sức xác người chết với những chiếc nhẫn và những bông tai làm cho
người chết. Việc này thật mỉa mai và vô nghĩa khi cho rằng dù tái sinh
nào thì người chết cũng sẽ mang theo, ông ấy hay bà ấy không thể mang
theo một thứ gì ngoại trừ toàn bộ những hành vi tốt và xấu.
Khi nhấc xác từ trên giường và
đặt vào quan tài, việc này nên
để thân quyến làm, và bao giờ thi thể
cũng phải được tiến hành một cách
kính trọng và nhẹ nhàng. Thói quen quay lưng lại phía người chết khi thi
hài
được đưa vào quan tài hay khi quan tài
được đặt vào xe tang là một việc kỳ
cục. Người chết là người thân yêu của chúng ta và chính chúng ta trước
nhất phải nhẹ nhàng đặt thi hài vào
quan tài, hoặc đứng chứng kiến một cách
kính cẩn trong khi những người khác làm. Quay
đi để lưng hướng về người chết với tôi là
một biểu hiện thất kính! Tôi không thể không nghĩ rằng nếu tôi là người
chết tôi sẽ bực mình vì bị đối xử một cách
như thế.
Thói quen quay lưng lại chỉ là
một dị đoan khác. Tại sao chúng ta phải sợ
sự không may giáng xuống chúng ta nếu chúng ta không tuân theo những
điều cấm kỵ như thế? Là người Phật tử chúng ta nên tin vào
nghiệp,
nghiệp chính là nơi nương tựa và hỗ trợ
đích thực của chúng ta. Làm tốt được
tốt làm xấu bị xấu. Chúng ta nên sợ những hành vi xấu, như không
giữ giới, và những hành vi xấu như thế sẽ mang lại khổ
đau. Ðiều cuối cùng chúng ta cần sợ là
dị đoan, những điều cấm kỵ vô căn cứ.
Quan tài không cần
đắt tiền. Nó phải được đặt ở phòng lớn
với một số hoa sắp đặt khéo léo chung quanh
và hình ảnh của người chết. Một vài câu Phật Pháp có ý nghĩa, một
đoạn trích hay tục ngữ có thể treo để suy
ngẫm. Không cần giữ vòng hoa tang
đến, thay vì vòng hoa tang, tiền phúng viếng nên
được gửi cho các cơ sở từ thiện mà gia
đình người chết có thể
định rõ. Nên tiêu pha thế nào
để tiết kiệm bằng cách tổ chức tang lễ đơn
giản và có ý nghĩa để có thể hướng
về tổ chức từ thiện.
Ðồ
ăn không cần phải để trước linh cữu người chết vì chúng ta
đã giải thích, người chết sẽ không thể
ăn. Ðốt giấy tiền vàng mã cũng vô
nghĩa và không nên làm. Ðốt nến và hương cũng không cần thiết. Thực ra
nhiều lề thói dị đoan và những
điều cấm kỵ thường đi kèm với nghi lễ
truyền thống của người Trung Hoa nên được
dẹp bỏ, khi nhớ đến những lời của Ðức Phật là một người cư sĩ
thuần thành phải có năm đức tính:
"Người cư sĩ phải có niềm tin, giữ kỷ luật tinh thần, không tin vào
những
điềm triệu dị đoan; tin vào nghiệp,
không tin vào điềm báo; không tìm
thiên thần quỷ vật ngoài nơi đây (ngoài
hệ thống của Ðức Phật) và chứng tỏ danh dự nơi
đây (có nghĩa là tôn trọng hệ thống
của Ðức Phật và không nên tự mình lệ thuộc vào những lề thói không phải
là Phật Giáo)".
Mặc quần áo tang chế là không
cần thiết. Ðức Phật không muốn chúng ta than khóc hay phiền muộn mà chấp
nhận sự thật về việc chia lìa và cái chết bằng trí tuệ và sự thanh thản.
Soka hay phiền não là một trạng thái tâm không lành mạnh và ta phải
vượt qua nó bằng chánh niệm và suy ngẫm khôn ngoan. Bởi vậy các bậc Tư
Ðà Hàm và A La Hán (đã
đạt được giai đoạn thứ ba và thứ tư
của quả vị thánh) không than khóc và phiền não. Khi Ðức Phật nhập diệt,
những nhà sư đã
đạt được thánh quả Tư Ðà Hàm và A La
Hán không khóc. Hiểu biết bản chất của vô thường, họ không phiền não dù
cho Ðức Phật qua đời trước mắt họ.
Ðức Phật cũng chẳng phiền não
khi hai đệ tử lớn của Ngài là Xá Lợi
Phất và Mục Kiền Liên chết trong vòng hai tuần kẻ trước người sau vào
khoảng sáu tháng trước Ngài. Chính Ðức Phật
đã nhận xét: "Tuyệt vời, hết sức tuyệt vời, này các tỳ kheo, về
những bậc giác ngộ như khi cặp đệ tử qua
đời,
Ðấng Giác Ngộ không phiền não, không than khóc". Và Ðức Phật nói thêm: "Vì
về cái sinh ra, đi đến trụ, hợp thành,
và phải bị hoại thì làm sao lại nói nó không phải ra
đi? Ðương nhiên,
điều đó là không thể
được.
"Cho nên, này các tỳ kheo, các
ngươi là hải đảo của chính các ngươi, là
nơi nương tựa cho chính các ngươi chứ không có nơi nương tựa bên ngoài
nào khác, với Giáo Lý là hải đảo, Giáo Lý là
nơi nương tựa, không tìm nơi nương tựa nào khác."
KHÔNG TRIỆT BỎ ÐƯỢC PHIỀN NÃO,
MÀ PHẢI THỪA NHẬN VÀ XUA TAN NÓ BẰNG CHÁNH NIỆM VÀ HIỂU BIẾT
Cho nên nếu chúng ta
để tâm lời Phật dạy, chúng ta có thể giữ bình
tĩnh trước phiền não. Ở đây chúng ta phải
nhấn mạnh là chúng ta không nói là chúng ta phải triệt bỏ phiền
não bằng sức mạnh, lờ đi, hay phủ nhận sự
tồn tại của nó. Không, đó là cách giải quyết không khéo léo.
Cách giải quyết của chúng ta là
thừa nhận và quan sát trạng thái phiền não của tâm. Qua chánh niệm và
suy ngẫm khôn ngoan, chúng ta có thể ngăn
chặn phiền não và trở nên bình tĩnh. Chánh niệm và hiểu biết là
con
đường trung đạo và là con
đường tốt nhất – nó cũng không liên
quan đến việc triệt bỏ và cũng chẳng
phải cho lối thoát chồ những cảm xúc tiêu cực và thiếu xây dựng. Chánh
niệm là thừa nhận và quan sát, từ đó, hiểu
biết, chấp nhận, hòa hợp và trí tuệ nẩy sinh. Chúng ta không thể
phủ nhận hay triệt bỏ những cảm xúc. Chúng ta thừa nhận và quan sát
chúng.
Trong sự thừa nhận và quan sát
đó, chúng ta có thể đối phó tốt hơn với sự
xáo trộn và xung đột có thể xẩy ra
trong tâm chúng ta. Chúng ta có thể sử dụng cách suy nghĩ khôn ngoan về
tính chất của vô thường, khổ đau và vô ngã. Chúng ta có thể rút
ra những bài học từ trí tuệ của người xưa và bằng cách
đi đến thừa nhận phiền não của chúng
ta. Nói một cách khác, trí tuệ có thể nẩy sinh. Chúng ta có thể hiểu và
chấp nhận phiền não. Và phiền não sẽ không thể chi phối tâm của chúng ta
hay áp đảo chúng ta. Ðây là ý mà
chúng ta muốn nói khi chúng ta nói áp dụng cẩn thận chánh niệm dẫn
đến sự hiểu biết và tự tại.
Bằng cách này chúng ta sẽ không
than van. Chúng ta có thể quan sát xúc cảm của phiền não trong chúng ta,
và nó có thể bị ngăn chặn khá tự nhiên,
không cần chúng ta phải biểu lộ thái độ thô
lỗ về việc đó. Sẽ có bình tĩnh, chấp nhận và hiểu biết. Cho dù
chúng ta không kiềm chế nổi và phải khóc, chúng ta vẫn có thể hạn chế.
Cuối cùng chúng ta có thể giành lại được sự
kiềm chế và lắng dịu. Chánh niệm sẽ tới giúp chúng ta và giúp
chúng ta hòa hợp với phiền não. Chúng ta sẽ hiểu sự thật của khổ
đau, chân lý mà Ðức Phật và các
đạo sư khôn ngoan khác đã dạy, và
chúng ta có thể lại cười.
Trở lại với
đề tài than khóc, chúng ta có thể thấy
trong phạm vi trí tuệ và không-phiền não, việc mặc
đồ tang chế là không cần thiết. Nó
không có nghĩa là chúng ta không hiếu thảo, hay chúng ta thương yêu
người thân ít hơn, nếu chúng ta không mặc
đồ tang chế. Không, chúng ta vẫn hết sức kính trọng người thân nhưng
chúng ta không thấy công đức gì khi phơi bày công khai và không
cần thiết phiền não của chúng ta. Tôn kính và phiền não ở
đây là vấn
đề rất riêng tư. Chúng
được cảm thấy trong tâm của chúng ta và
không cần phải phô bày ra trước công chúng.
Thay vì nhấn mạnh những hình
thức thương tiếc bề ngoài không cần thiết, lòng hiếu thảo phải kết hợp
với những hành động hướng về người già
khi họ còn sống. Những hành vi tự chúng sẽ nói lên. Quả là hết sức bất
hạnh nếu một số người nghĩ rằng những nghi thức và nghi lễ cầu kỳ trong
tang lễ và việc mặc quần áo tang chế sẽ bù
đắp được cho những hành vi thương yêu và quan tâm không
được bầy tỏ khi người chết còn sống.
Tuy nhiên, với sự
đúng mức trong dịp trọng thể, có thể mặc quần
áo "lễ nghi". Ta có thể chọn bộ đồ
mầu sẫm, trắng hay một mầu thích hợp hơn trong tủ áo của mình.
Như vậy
đối với tâm tôi thế là
đủ dù người chết, nếu
đã là một người Phật tử vui vẻ và hiểu
biết, có thể không muốn chúng ta mặc những quần áo "tang chế" mà vui
mừng là đã sống một cuộc
đời lương hảo và
đã đi tới
một tái sinh tốt đẹp hơn. Cho nên trước khi chết, người ta có thể
yêu cầu không đi theo thói dị doan hay than
khóc mà chỉ cầu một tang lễ đơn
giản. Người ta có thể ủy thác cho một người có trách nhiệm xem xét tất
cả những ước nguyện của mình có được
thi hành không. Người ta có thể viết trên giấy và ký trước sự
hiện diện của nhân chứng để tất cả người liên
quan
đều biết và tuân theo lời ước nguyện
của mình.
Bầu không khí chung trong nhà
và suốt cả tang lễ phải là một bầu không khí thanh tịnh và hiểu biết.
Những hoạt động không thích hợp như rượu chè,
cờ bạc tuyệt đối không được phép. Tất cả
phải là kính cẩn và cư xử bằng sự
đúng mức thích đáng. Những đoạn có ý nghĩa trong Kinh Phật có thể thinh
thoảng được đọc lên và được suy ngẫm
bởi thân quyến trong gia đình và những người có mặt. Một người có
thể
đứng đầu trong sự suy nghĩ. Nếu tất cả những
người liên quan đều có sự hiểu biết
tốt về Phật Pháp, họ có thể ngăn chặn phiền não. Người nhiều cứng
rắn hơn có thể an ủi người phiền muộn. Bằng cách ấy, sẽ có bầu không khí
an lạc và hiểu biết trong toàn bộ nghi thức. Và những người có mặt cảm
thấy quyết tâm và có động cơ hơn để phấn
đấu hăng hái hơn trong việc tìm kiếm tinh thần, và sống với tình
thương yêu và từ bi hơn.
Một khóa lễ cho người chết có
thể được cử hành tại nhà. Những thân
quyến lớn tuổi trong gia đình có thể
hướng dẫn cuộc lễ, trong đó đời và
những hành vi thiện của người chết được kể
lại. Con cái nhắc lại lòng khả ái và tình thương to lớn của cha
mẹ
và quyết tâm sống một cuộc đời gương mẫu
trong sự hồi tưởng của họ.
(Về phương diện này, cha mẹ
đã để tâm
đến thực tế là các hành vi vượt qua
đời sống thể chất. Một đời sống lương thiện là một di sản tốt nhất
để lại cho con cái. Một di sản vừa thôi thúc
vừa để lại phẩm giá cho người thừa kế. Hương thơm của những hành
vi và đời sống gương mẫu sẽ còn mãi
sau khi cha mẹ đã ra
đi)
Có thể mời một vị sư
để hướng dẫn một thời Pháp thích đáng. Khóa
thiền có thể tổ chức ở phòng lớn. Ðiều
đó có thể là hành vi công đức và
vừa là sự biểu hiện lòng tôn kính đối với
người quá cố. Người quá cố, nếu là một thiền gia vững vàng, chắc
chắn sẽ rất sung sướng nếu biết được mọi
người ngồi chung quanh quan tài và thiền
định. Nếu được tái sinh lên cõi trời,
và có thể nhìn thấy những gì đang diễn ra,
và tôi chắc chắn người ấy sẽ rất thích thú. Chắc chắn tôi sẽ rất
thích thú nếu tôi nhìn xuống và thấy mọi người
đang thiền chung quanh cái quan tài của tôi. Niềm vui của tôi sẽ
bất tận. Và nếu có thể tôi sẽ xuống và vui vẻ ngồi thiền với mọi người,
nhưng,
đương nhiên, bạn phải thứ lỗi cho tôi:
Tôi biết tôi đang thả lỏng trí tưởng tượng
của mình.
Vào ngày thiêu, tất cả những
công đức đã
đạt được lại được chia sẻ. Một danh sách
những tổ chức thiện nhận được tiền tặng cũng được đem ra đọc. Một khóa
lễ có ý nghĩa có thể được cử hành tại nhà thiêu ngay trước khi
quan tài được đưa vào lò thiêu.
Những
đoạn kinh có ý nghĩa từ các bộ kinh có thể
được tụng. Những đoạn kinh này nói về cái vô thường của
đời sống, cái chết không tránh được và
sự cần thiết sống một cuộc đời lương thiện,
hành thiền và phục vụ đồng loại.
Việc này có thể giúp mở mang trí tuệ nhiều hơn nếu khóa lễ này
được đặc biệt biên soạn và
được đọc lên vào dịp này. Nếu một vị
sư hướng dẫn toàn bộ khóa lễ thì rất tốt nhưng nếu không thể
được thì một người lớn trong gia
đình, thân quyến hay bạn bè có thể
đúng ra.
Sau khi thiêu xong, chúng ta
phải làm gì với tro cốt? Ở xứ Phật Giáo Miến Ðiện, tôi
được biết thường thường xác thiêu
thành tro để lại tại nhà thiêu. Thân
nhân không thu thập tro vì tin rằng người quá cố ngay sau khi chết
đã có cuộc tái sinh mới, và xác thân
để lại chỉ là một cái vỏ rỗng. Tuy
nhiên thói quen của người Trung Hoa tại Mã Lai lại giữ tro cốt
để ở chùa hay ở những nơi giữ tro cốt
với chi phí đáng kể. Cảm nghĩ riêng
của tôi là không có mục đích nào
để giữ tro cốt vì nó không phục vụ cho
nhiều mục tiêu, không cần thiết phải dâng cúng hay cử hành một khóa lễ
nào trước tro cốt. Vì, như chúng ta biết về Pháp, tro cốt chỉ là những
thành phần của vật vô tri trong khi thức đã
đi vào một tái sinh mới, một xác thân
mới trong một kiếp sống mới nào đó. Cho nên
tôi nhất trí với cách để lại tro cốt của
người Phật Tử Miến Ðiện. Nếu chúng ta muốn tưởng nhớ và tôn kính
người quá cố, chúng ta nên sống một cuộc
đời lương hảo và làm những hành vi thiện
để tưởng nhớ. Vào ngày giỗ người quá cố, chúng ta có thể cúng dường
(thực phẩm và tặng phẩm) tại chùa hay quyên góp cho những cơ sở từ
thiện.
Tất cả những
đề xuất về phương diện tang lễ mà tôi
đã trình bày trên
đây, có ý nghĩa và
đáng chú ý hơn những lề thói hiện nay. Nhưng
đương nhiên điều đó là tùy
độc giả quyết định cho chính mình. Ðây
chỉ là cảm nghĩ của tôi, cách tôi nhìn vào
điều đó. Tôi hiểu rằng nhiều người cảm nghĩ khác hẳn. Họ có thể không đồng
ý với tôi, và họ có quyền làm như vậy. Vì tôi bao giờ cũng có
niềm tin dứt khoát là không ai có thể áp
đặt quan điểm của mình lên trên một quan
điểm của người khác. Chúng ta tất cả đều có tâm riêng của chúng
ta và phải được phép suy nghĩ và
quyết
định cho chính chúng ta.
Cho nên tôi xin nói rõ ràng nơi
đây tôi không áp đặt quan điểm của tôi lên
bất cứ ai. Thay vì tôi chỉ là bầy tỏ và chia sẻ chúng. Và tôi xin
để cho mỗi người tự quyết định cho chính mình
điều mình muốn tin tưởng và theo. Mỗi
người phải cảm thấy tự do làm điều mà
mình nghĩ rằng thích hợp. Hơn nữa, quyết
định một tang lễ sau khi có người chết, phải có sự bàn thảo và
đồng thuận giữa những người trong gia đình.
Cho nên tốt nhất là trước khi chết hãy làm cho rõ ràng loại tang lễ mà
mình muốn. Và việc này nên làm bằng cách viết ra, ký tên và có nhân
chứng. Sẽ không có ý kiến phản đối sau khi
người ấy chết. Thân nhân gia đình nên tôn trọng và làm theo những
ước muốn của người ấy.
Ðương nhiên, những
đề xuất của tôi không toàn diện. Chúng
không bao gồm tất cả những chi tiết và khía cạnh của một tang lễ. Chúng
chỉ là một khuôn khổ thô sơ, chỉ là một món
ăn nào đó cho tư tưởng. Có thể có
những biến thể khác. Cho nên nó sẽ rất tốt nếu một nhóm Phật tử
có cùng tâm ý và được tôn trọng ngồi bàn
với nhau để hình thành một tang lễ
Phật Giáo đơn giản bao gồm tất cả các khía
cạnh và chi tiết, và trả lời tất cả những câu hỏi có thể nảy
sinh. Trước tiên là những điều cần được xem
xét là những lề thói hiện tại. Chúng như thế nào? Chúng có ý
nghĩa gì? Chúng ta có biết và hiểu những gì chúng ta
đang làm không? Tại sao chúng ta thực hành chúng? Chúng có ý
nghĩa không? Chúng có phù hợp với Phật Pháp không? Hay chúng là những lề
thói dị
đoan hay những thói quen không thể hòa
hợp với sự hiểu biết của chúng ta về Pháp đã
được thuyết giảng bởi Ðức Phật.
Từ những gì tôi có thể nhìn
thấy nhiều thói quen trong một gia đình
Trung Hoa tự nhận là có lối sống Phật Giáo về
đời sống, không thể hòa hợp với Pháp. Dường như nhiều người chỉ làm
theo những nghi thức tang lễ mà không có ý niệm chúng là gì. Họ chỉ làm
theo những chỉ dẫn mà không hỏi han hay hiểu biết. Vào lúc tang lễ, họ
quả thật rất bối rối và quẫn trí. Họ chỉ bàn theo những
điều được bảo vì
đó là truyền thống và họ không thể
đi ngược lại mà không bị chê trách và
bị kết tội là bất hiếu vân vân... Cho nên sự tham gia thực sự vô nghĩa.
Ðối với tôi, tất cả dường như khá cảm động.
Vô minh và cam chịu trước bất cứ
điều gì được thực hiện dường như là
chương trình làm việc.
Cho nên một nhóm Phật tử
đáng kính nhìn vào tất cả những lề
thói này có thể đi đến một sự lựa chọn có ý
nghĩa phù hợp với Phật Pháp. Chi tiết về tang lễ
được đề xuất với nhiều lựa chọn khác nhau sẽ
được soạn thảo sau khi đã thực hiện một cuộc nghiên cứu tình hình
địa phương. Một cuốn sách toàn diện
cung cấp tất cả những lựa chọn về tang lễ khác nhau và những thông tin
cần thiết có thể được biên soạn và
phổ biến. Một đề án như thế sẽ là
một sự phục vụ lớn lao cho Cộng Ðồng Phật Giáo thường bị bối rối không
biết cái gì cấu thành một tang lễ Phật Giáo thích hợp.
VỀ PHẦN TÔI
Ðối với tang lễ của chính tôi,
tôi đã
đưa ra ý nghĩ thích hợp về cách tôi muốn thân xác tôi được xử lý ra sao
sau khi chết. Thân xác thực sự không là gì khác hơn một cái xác
sau khi chết. Nó sẽ trở về với đất. Cho nên
tôi muốn làm một hành vi thiện cuối cùng có nghĩa là tặng xác cho bệnh
viện. Bác sĩ có thể lấy giác mạc ở mắt tôi và trao tặng phẩm tuyệt vời
này cho một người mù. Hãy tưởng tượng đến
sự vui mừng như thế nào khi người mù có thể nhìn lại
được, và tặng phẩm sẽ quí giá
đến nhường nào với người ấy. Và hãy
tưởng tượng tôi cũng sung sướng đến thế nào
khi biết đã tặng cho người ấy tặng
phẩm về thị lực. Tặng phẩm này không có sư hy sinh gì về phần tôi cả, vì
thân xác không còn sử dụng được gì
sau khi chết. Cho nên tôi có thể làm hành vi thiện cuối cùng trước khi
thân bị tan rã.
Nếu có thể, bác sĩ lấy tim,
thận, phổi, gan và bất cứ cơ quan nào có thể dùng
được sau cái chết của tôi, đem ghép cho người
khác. Và bất cứ gì còn lại có thể
đem lợi ích cho những sinh viên y khoa trong việc nghiên cứu của
họ. Họ có thể thực hành mổ xẻ xác tôi. Cuối cùng, họ có thể tùy nghi xử
lý những gì còn lại của thân tôi như họ muốn. Có thể phần còn lại làm
phân bón cho
đất và cây cối lớn cho bóng mát và hoa
đẹp. Và cũng bằng cách này, không ai
cần phải lo lắng cho tôi về cái gọi là tang lễ thích hợp. Mỗi người
đều có thể để lại xác cho bệnh viện để tùy
nghi xử lý những gì mà họ nghĩ là thích hợp. Việc này sẽ làm cho mọi
người dễ dàng hơn. Nói cho đúng, nó sẽ làm
cho mình nhẹ nhõm. Không ai còn bị bị phiền phức về chuyện của tôi.
Và nếu có người nói về một tang
lễ thích hợp cho tôi và việc bầy tỏ lòng tôn kính cuối cùng, tôi sẽ nói:
Xin đừng bận tâm về việc đó. Tang lễ không
dành với tôi. Nhưng nếu bạn thực tâm nhớ
đến tôi, xin bạn hãy làm điều thiện.
Hãy làm bất cứ điều thiện nào
bạn thích
để tưởng nhớ đến tôi. Hãy sống một
cuộc đời lương hảo. Hãy quan tâm và
chia sẻ. Hãy tha thứ và thương yêu. Hãy rộng lượng và mở rộng con tim.
Hãy tử tế và lịch sự. Ðó là tất cả những gì tôi yêu cầu. Ðiều
đó sẽ làm cho tôi rất hạnh phúc – biết
rằng tôi đã có thể truyền bá thông
điệp tốt nào
đó và đã
có ảnh hưởng tốt nào đó.
Này các tỳ kheo, một tỳ kheo
phải đối diện cái chết của mình bằng
chánh niệm và thấu triệt rõ ràng.
Ðó là huấn thị của ta cho các ngươi.
Ðức Phật
PHẢI
CHẾT THANH THẢN
Tất cả chúng ta một ngày nào
đó sẽ phải chết. Chúng ta phải chết thanh
thản và an bình. Cho nên, một người sắp phải chết chúng ta nên cố
gắng làm cho cái chết càng thanh thản và
đẹp đẽ cho ông ấy hay bà ấy càng tốt. Vâng, bạn ngạc nhiên cái
chết có thể lại đẹp đẽ ư? Nếu bạn ngạc nhiên,
đó là vì chúng ta thường ác cảm
đối với cái chết. Nỗi sợ về đau đớn và
cái bấp bênh thường đến sau cái chết. Rồi
có sự gắn bó với người thân của chúng ta phát sinh nhiều đau đớn trong
tâm của chúng ta khi phải lìa bỏ họ.
Tuy nhiên chúng ta nên nhận
thức rằng sự hiểu biết và thái độ sai lầm
của chúng ta là nguyên nhân của khổ
đau. Chúng ta không hiểu Pháp đủ sâu xa. Chúng ta không hiểu và
thâm nhập bản chất của tâm và thân là vô thường, khổ
đau và vô ngã. Chúng ta không biết
cách buông bỏ một cách uyển chuyển, cách cam chịu với cái không tránh
được.
Khi bà mẹ kế của Ðức Phật Maha
Pajapati Gotami sắp chết vào lúc ở tuổi 120 già lão, A Nan và những nhà
sư nữ khóc. Maha Pajapati Gotami nhẹ nhàng quở trách họ: "Tại sao các
ngươi khóc, con trai và con gái của ta. Các ngươi không trông thấy thân
ta
đã trở nên già nua và hom hem sao? Nó
giống như nơi rắn thường lui tới của bệnh tật, nơi nghỉ ngơi của tuổi
già và cái chết, cái nhà của khổ đau. Ta
mệt mỏi đã phải lớn lên trong cái xác thân này. Nó chẳng là gì cả
nhưng là một gánh nặng cho ta. Ðã từ lâu ta mong mỏi sự giải thoát Niết
Bàn. Và ngày hôm nay điều mong ước của ta
sắp thành hiện thực. Thật ra cái chết của ta là hạnh phúc. Ðó là
lúc cho ta
đánh trống mãn nguyện và sung sướng.
Tại sao các ngươi lại khóc?"
Ðức Phật, khi Ngài sắp chết
giữa môi trường thiên nhiên dưới hai cây sala (tha la) trong rừng, cũng
bảo Ðức A Nan đừng khóc vào lúc Ngài
chết. Ngài nói người có trí tuệ và trầm tĩnh phải chấp nhận sự thật về
cái chết và chia ly cùng tất cả những gì mà chúng ta thương yêu là không
thể tránh được. Ðức Phật nhắc chúng
ta phải tu tập thiền chánh niệm để đạt được
trí tuệ giúp ta đối đầu với cái chết bằng sự thanh thản. Ngài nói
với các tỳ kheo: "Bởi vậy các con phải tự rèn luyện. Chúng ta phải chấp
nhận cái chết bằng chánh niệm và tự tại." Và lời dặn dò cuối cùng của
Ðức Phật là: "Tất cả những gì do duyên hợp
đều phải tan rã. Các con phải phấn
đấu chuyên cần."
Người sống một cuộc
đời đẹp đẽ có thể chết một cách đẹp đẽ. Một
ngày nọ tôi tình cờ đọc mấy dòng
hồi tưởng rất cảm động trong một tờ báo.
Khi bà trút hơi thở cuối cùng và đi
vào cõi bất diệt, mặt bà sáng ngời và môi bà nở một nụ cười. Chị
F, trông thấy vậy, thốt lên: "Hãy nhìn kìa, bà
đang nhìn thấy Thượng Ðế". Việc này xẩy ra như vậy, tôi biết bà
là một người Cơ Ðốc Giáo, đã chết
một cái chết
đẹp như vậy. Bà có tính dịu dàng, tử
tế và lúc nào cũng quan tâm đến phúc lợi
của người khác. Tôi được biết bà là một nhà giáo thường tìm các
học trò yếu kém để dạy thêm và
khuyến khích chúng. Bà được thương yêu
sâu xa và trân quý bởi gia đình và
tất cả những người đã tiếp xúc với
bà. Tôi
được biết bà bao giờ cũng là một người
dễ thương và thương yêu tất cả mọi người quả thật
đời bà giống như một vị thánh.
Vì
đã sống một cuộc đời đẹp như vậy, thảo
nào bà đã chết một cái chết
đẹp. Tôn giáo của chúng ta có thể khác nhau
nhưng Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, người được
giải Hòa Bình Nobel, nói rằng: "Từ bi là cốt lõi của tất cả tôn
giáo." Niềm tin sắt đá của tôi là
nếu chúng ta đã sống một cuộc
đời tốt đẹp, thì khi chúng ta chết
chúng ta sẽ chết một cái chết đẹp dù
chúng ta là Phật Tử, Cơ Ðốc Giáo, Ấn Giáo, Hồi Giáo hay của bất cứ quan
điểm nào hay niềm tin nào. Như Ðức
Phật nói, chính hành vi tạo thành con người. Trong phương diện này, tôi
thường nói với người Phật tử: thà là một người Cơ Ðốc Giáo, một người
Hồi Giáo tốt còn hơn là một Phật tử xấu. Bởi vậy, người Cơ Ðốc Giáo tốt
khi họ chết họ có thể thấy Thượng Ðế của họ hay ánh sáng. Người Phật tử
có thể thấy những hình ảnh tinh thần của Ðức Phật, a la hán, thiên nhân,
hay cảnh thiên đường và ánh sáng rực
rỡ.
Jack Kornfield, một vị thầy
thiền Minh Sát người Mỹ, có lần kể trong tờ báo Inquiring Mind khi ông
viếng thăm Howard Nudleman, một bác sĩ phẫu
thuật và là một người tu thiền một ngày trước khi ông chết về ung
thư ra sao. Ông nhớ lại rằng khi ông đi vào
phòng ông Howard giống như ông đi vào
một ngôi chùa như thế nào. Và khi ông nhìn vào ông Howard, ông Howard
nhìn ông mỉm cười, một nụ cười ngọt ngào không thể tưởng tượng
được, một nụ cười mà ông Kornfield
không bao giờ có thể quên được trong quãng
đời còn lại của ông.
Vâng, tôi tin chắc có rất nhiều
chuyện cảm động về những cái chết đẹp của
những người con người đẹp. Cho nên, chính cái chết có thể là một
sự kinh qua đẹp. Khi chúng ta sống một cuộc
đời lương hảo, và thân này trở nên yếu ớt và suy sụp, chúng ta có
thể
đối mặt với cái chết một cách tao nhã
khi biết rằng chúng ta đã sống một
cuộc đời thiện và bây giờ
đã đến
lúc chúng ta tiến tới.
Cho nên khi một người thân yêu
sắp phải chết, chúng ta nên hiểu biết và để
cho người ấy ra đi an bình. Chúng ta cố gắng làm
điều đó vì người
đó càng thanh thản và
đẹp đẽ càng tốtõ. Rõ ràng, chúng ta
không nên khóc lóc than van. Than khóc chỉ gây khó khăn
thêm cho người sắp chết. Ðương nhiên nếu người ấy là một người
Phật tử hiểu biết và còn đủ sức để nói thì
người ấy, giống như Ðức Phật, sẽ nhẹ nhàng quở trách: Này các người thân
yêu, tại sao các người phải khóc? Ðức Phật chẳng
đã dạy ta bằng nhiều cách là chia ly
không thể tránh được trong đời sống đó sao?
Làm sao có thể là cái mà phải tan rã lại không tan rã? Ðiều
đó không thể được. Cho nên chúng ta
phải suy ngẫm sâu xa về Pháp. Này người thân yêu của tôi, thân này không
phải của chúng ta. Tâm này cũng không phải của chúng ta. Chúng sinh diệt
theo duyên hợp. Chúng ta phải tu tập chánh niệm sâu xa
để thấy việc này, cho nên,
đừng bám víu nữa, chúng ta có thể giải thoát
khỏi sinh tử. Người thân yêu của ta, hãy mạnh lên. Dù tôi phải
cáo từ bạn, tôi muốn nhắc nhở các bạn về những lời dặn cuối cùng của Ðức
Phật: "Tất cả những hiện tượng do duyên hợp
đều phải tan rã. Cho nên, ta kêu gọi các con, hãy phấn
đấu chuyên cần."
Vâng, tất cả Phật tử nên nhớ
lời dặn cuối cùng của Ðức Phật cho chúng ta là hãy phấn
đấu không mệt mỏi để đạt được trí tuệ hầu
giải thoát chúng ta khỏi sinh tử. Một người tu thiền định phải thiền về
cái chết. Người ấy có thể quán hơi thở, thở ra hít vào của mình
hay bụng phồng lên và xẹp xuống do hít vào thở ra. Nếu gặp phải khó khăn
gì, người ấy có thể nhận thức về chúng, ghi nhận chúng là thế
không sợ hãi lo lắng mà bình tĩnh và vững tâm. Người ấy có thể quán thấy
những cảm giác đau đớn, chịu đựng chúng dù
chúng lên cao độ. Người ấy có thể tự nhắc
nhở mình, chúng chỉ là những cảm giác, mặc dù là cảm giác khó
chịu. Người ấy cũng thấy chúng vô thường, chúng không ngừng sinh rồi
diệt. Người ấy sẽ hiểu và không bám víu hay bị ràng buộc vào thân. Người
ấy biết cả tâm lẫn thân cũng sinh và diệt theo duyên hợp. Người ấy có
thể suy ngẫm: "Thân này và tâm này không phải của tôi. Chúng chẳng bao
giờ thuộc về tôi cả. Chúng sinh vì duyên hợp, và theo duyên hợp, chúng
sẽ diệt. Cho nên, mắt này không phải của tôi, tai này không phải của
tôi, mũi này không phải của tôi... Thân này
được tạo thành bởi bốn yếu tố, đất,
lửa, nước và gió, chúng tượng trưng cho những
đặc tính của vật chất, những đặc tính về tính cứng, tính mềm, sức ép,
sức căng, nóng và lạnh vân vân... Chừng nào năng
lượng của nghiệp còn kéo dài kiếp sống của tôi trong cỡi
đời này, thân này còn sinh tồn. Khi năng
lượng của nghiệp cho đời này hết, thì thân này chết và một cái
tâm mới được duyên hợp bởi cái tâm
cũ vào lúc chết. sinh ra trong thân mới. Nếu tôi
đạt được a la hán quả, không cần phải tái sinh nữa. Nếu tôi không có a
la hán quả, tuy nhiên, đã
sống cuộc
đời thiện, tôi không sợ tái sinh. Tôi có thể
có một cuộc sống mới làm người được
phú cho mọi điều tốt đẹp và thông minh hay một chúng sinh ở cảnh
trời và từ đấy tôi tiếp tục con đường phát
triển cho đến khi tôi đạt được Niết Bàn tối hậu, sự chấm dứt sinh
tử."
Suy ngẫm như vậy, người tu
thiền sẽ trở nên rất bình tĩnh và vững vàng. Người ấy sẽ trở nên rất an
lạc. Người ấy có thể mỉm cười ngay cả trước cái
đau đớn và với những người tập hợp
chung quanh. Với tâm rất an lạc, cảm giác
đau đớn của thân có thể chấm dứt. Người ấy có thể chết thanh thản và
an lành, nhẹ nhàng chút hơi thở cuối cùng.
NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT SUNG SƯỚNG
Khi Cấp Cô Ðộc, người nhân
đức và
đại ân nhân của Ðoàn Thể Tăng Già
sắp chết, Xá Lợi Phất, người Ðệ Tử lớn nhất của Ðức Phật, thuyết giảng
về sự không quyến luyến cho ông. Xá Lợi Phất nhắc Cấp Cô Ðộc là
đời sống chỉ là một tiến trình tùy
thuộc vào duyên hợp, và tâm và thân tạm bợ này không có gì
đáng để bám víu vào. Xá Lợi Phất
đưa ra một bản danh sách toàn bộ những
cái mà đời sống cấu thành, cho thấy
tất cả đều là duyên hợp phù du không
thể bám víu vào được. Ngài giảng:
"Cho nên Cấp Cô Ðộc không nên hiểu theo những dạng thức nhìn thấy và
mắt, âm thanh và tai, mùi và mũi, vị và lưỡi, xúc và thân, và ý thức tùy
thuộc vào tất cả những thứ này. Cấp Cô Ðộc không nên hiểu theo nhãn
thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Ông nên hiểu
bản chất vô thường của chúng và quan sát sự sinh diệt của chúng, không
bám víu vào chúng và hay không thích chúng.
"Tương tự như vậy, Cấp Cộ Ðộc
không nên hiểu theo sự tiếp xúc tùy thuộc vào mắt và hình dạng, tai và
âm thanh và vân vân... Ông không nên hiểu theo cảm nghĩ dù thích thú hay
không thích thú, cảm nghĩ nảy sinh tùy thuộc vào sự tiếp xúc. Ông phải
xem xét tất cả chúng bằng trầm tĩnh, hiểu biết thực chất của vô thường,
bất toại nguyện và vô ngã. Thân được tạo thành
bởi bốn yếu tố giãn nở, dao động, cố kết, và
nhiệt độ. Tâm được tạo thành bởi cảm
nghĩ, nhận thức, hoạt động tinh thần và
thức. Tất cả chúng đều vô thường và
lúc nào cũng thay đổi. Xá Lợi Phất khuyến
khích Cấp Cô Ðộc không nên luyến chấp vào một trong những thứ
đó. Không có gì trong thế giới này có
thể gọi là cái ngã thường còn. Trong ý nghĩa tối hậu, không có cái ngã
trong tâm và thân. Và cho nên không có gì
để Cấp Cô Ðộc bám víu vào."
Khi nghe
được Pháp sâu xa này, một niềm an lạc
và sung sướng lớn lao bao trùm Cấp Cô Ðộc. Và ông ta
đã khóc. Thị Giả của Ðức Phật, Ngài A
Nan có mặt lúc ấy tiến lại gần và hỏi Cấp Cô Ðộc tại sao ông khóc. "Có
phải vì ông đã không chịu nổi cơn
đau?" "Không phải", Cấp Cô Ðộc trả
lời. Không phải là như thế. Mà đúng hơn là
vì bài thuyết giảng của Xá Lợi Phất quá đẹp
đến nỗi đã làm cho ông xúc động sâu
xa. "Trong đời tôi, tôi chưa bao giờ
cảm xúc như thế. Cho nên đó là
lý do tại sao tôi khóc," ông nói với A Nan và Xá Lợi Phất. Những giọt
nước mắt của ông không phải là nước mắt phiền não mà là những giọt nước
mắt vui sướng – vui sướng vì nghe và hiểu
được Pháp sâu xa như thế.
Cấp Cô Ðộc hỏi tại sao Pháp như
thế không được thường thuyết giảng cho các
cư sĩ. Xá Lợi Phất trả lời vì người cư sĩ thường thấy khó lĩnh
hội Pháp sâu xa như thế, họ đều bị luyến ái
vào rất nhiều lạc thú sẵn có trong
đời sống. Cấp Cố Ðộc phản đối là
có những người có thể hiểu và lĩnh hội Pháp sâu xa này, và những ai
không
được nghe sẽ bị thiệt thòi. Ông thúc
giục Xá Lợi Phất thường xuyên thuyết giảng về không luyến chấp cho những
người khác như bài giảng mà ông vừa được
thuyết giảng.
Ít lâu sau, Cấp Cô Ðộc chết. Vì
lúc cuối cùng của ông rất an lạc và đã
sống một cuộc đời lương hảo, theo lời
Ðức Phật, ông được tái sinh ở cung trời
Ðâu-xuất. Khi một người đã
đạt được bậc thứ nhất của thánh quả (Tu-đà-hoàn)
người ta tin rằng Cấp Cô Ðộc có thể, trong bảy kiếp, sẽ
đạt giác ngộ hoàn toàn và do
đó sẽ giải thoát khỏi tái sinh.
Cũng có những câu chuyện về
những thầy tỳ kheo đắc quả A la hán (giác
ngộ hoàn toàn) trên giường lúc sắp chết. Cho nên những hành giả
du già ngày nay có thể thiền định đến lúc
cuối cùng, họ biết họ có thể thực hiện kiến thức tuệ giác, hiểu
thấu về vô thường, khổ đau và vô
ngã, và thậm chí
đạt được thánh quả vào lúc chết.
Một hành giả du già có thể trải
tâm từ, thương yêu-khả ái. Cả đến lúc sắp
chết, người ấy có thể trải những ý nghĩ thương yêu-khả ái
đến tất cả chúng sinh. "Nguyện cho tất
cả chúng sinh đều hạnh phúc. Nguyện cho
chúng sinh thoát khỏi tai họa và nguy hiểm. Nguyện tất cả chúng
sinh thoát khỏi khổ đau tinh thần .... khổ
đau thể chất... Nguyện cho họ quan tâm lẫn nhau trong hạnh phúc".
Chết với những tư tưởng thương yêu cho tất cả chúng sinh là một cách
chết cao thượng. Trong cuốn Visuddhimaga, một cuốn sách thiền kinh của
Phật Giáo, có nói rằng một người có thói quen trải tâm từ, sẽ chết rất
an lạc, như thể là ngủ thiếp đi một cách dễ
chịu. Và nếu người ấy không đạt được
thánh quả A la hán, và phải tái sinh thì cũng tái sinh vào cõi
trời.
Vâng, một người du già không sợ
chết. Người ấy có thể từ bỏ một cách thanh nhã thân và tâm vì biết rằng
sống hay chết chỉ là hai mặt của một vấn
đề, vì hiểu rằng trong khi chúng ta còn sống chúng ta
đang chết từng chập một, chết vào mỗi
lúc qua đi, và bị tái sinh vào mỗi
lúc mới đến. Các hiện tượng tinh thần và
thể chất không ngừng sinh và diệt. Không có gì
đứng nguyên dù chỉ một giây. Ðiều này
cũng đã chứng minh
được trong vật lý lượng tử nơi người ta thấy
rằng các hạt hạ nguyên tử triệt tiêu năng
lượng với mức 10 tới 22 lần chỉ trong một giây. Ðức Phật cũng nói
các hiện tượng tinh thần và thể chất không ngừng sinh ra và tan biến.
Chừng nào mà chúng ta chưa loại bỏ được
năng lượng nghiệp-tái sinh bằng cách nhổ tận gốc rễ những ô nhiễm của
tham sân và si, thì chúng ta vẫn tiếp tục phải tái sinh. Chết
trong sự sống này chỉ là sự chấm dứt của tuổi thọ cho thân và tâm trong
sự sống này. Nhưng ngay lúc mãn hạn của tâm vào lúc chết, không có
khoảng cách nào, một tâm mới nảy sinh nhập vào một thân mới theo nghiệp
hay những hành vi của chúng sinh ấy trong
đời trước. Cho nên người du già hiểu tâm lúc chết căn
bản không khác gì tâm ở mọi lúc nên không sợ hãi. Người ấy chấp
nhận cái chết trong chánh niệm và tự tại phù hợp với chỉ dẫn của Ðức
Phật.
LÀM CHO BẦU KHÔNG KHÍ THANH
THẢN
Khi tạo bầu không khí thanh
thản cho một người sắp chết, chúng ta phải biết sở thích của người
đó, những gì thích, những gì không
thích của người ấy. Thí dụ, người ấy thích hoa. Chúng ta nên có hoa
trong phòng bệnh cạnh giường. Người ấy có thể thích chết trong căn
phòng ấm cúng của mình, trong môi trường quen thuộc và thanh bình
với mình. Cho nên nếu có thể người ấy thích chết ở nhà hơn là ở bệnh
viện. Nhưng nếu không thể được và
cần
để bệnh viện săn sóc, chúng ta nên cố
gắng làm cho cảnh chung quanh trong bệnh viện càng riêng tư, ấm cúng và
thanh bình càng tốt. Một phòng riêng thì tốt nhất, nhưng không phải tất
cả mọi người có thể có đủ khả năng để trả
tiền. Dù bất cứ ở chỗ nào, chúng ta cũng cố gắng làm cho bầu
không khí càng thanh bình càng tốt.
Có thể có một hình ảnh nhỏ của
Ðức Phật mà người ấy thích ngắm. Nếu như vậy, chúng ta có thể
để bức hình bên cạnh hoa ở bên cạnh
giường. Thái độâ nghiêm trang thanh
thản ở hình Ðức Phật có thể làm cho an tâm. Nhìn vào bức hình này, ta
nhớ
đến trí tuệ và lời dạy của Ðức Phật.
Việc đó có thể cho nhiều an ủi và an
lạc, nhất là những lúc cần thiết. Căn phòng
phải được sạch sẽ và ấm cúng. Người
sắp chết có thể thích cái giường của mình hướng về của sổ
để có thể nhìn
được cây cối có thể làm cho tâm an
tịnh. (Thí dụ, Ðức Phật đã chọn cái
chết trong thiên nhiên giữa hai cây sala (tha la)
đang nở hoa tại rừng Câu Thi Na)
Nếu chẳng may người sắp chết
mất bình tĩnh và lộ vẻ sợ hãi, lo âu hay
đau đớn, thân nhân nên làm cho người ấy an tâm. Thí dụ như người
thân có thể cầm tay người sắp chết trong tay hay vuốt nhẹ vào trán, nói
năng ngọt ngào
để người ấy an tâm. Người vợ có thể nhắc nhở nhẹ nhàng người sắp
chết về Pháp, sự cần thiết phải giữ tâm bình tĩnh và hành thiền. Bà ấy
cũng có thể an tâm người sắp chết hãy đừng
lo lắng gì về bà hay con cái, rằng đã
có giáo lý của Ðức Phật và sẽ sống nương nhờ vào giáo lý ấy. Bà ấy biết
cách săn sóc cho mình và những
đứa con. Bà cũng có thể nhắc người sắp chết là tài sản, người
thân yêu và tâm và thân rốt cuộc cũng không phải là của chúng ta. Chỉ có
những hành vi của chúng ta mới là tài sản thực sự theo chúng ta. Bà cũng
nhắc nhở ông ấy về cuộc
đời lương thiện của ông, sự săn sóc của ông
cho gia đình, và tất cả những hành
động thiện mà ông đã làm. Nhớ
như vậy và hiểu rõ Pháp, người ấy có thể trở thành mạnh mẽ. Người ấy có
thể mỉm cười và thanh thản. Cái chết không còn làm cho người ấy sợ hãi.
Ðương nhiên những gì chúng ta
đã nói chỉ là một thí dụ cho một diễn
tiến có thể xẩy ra. Ðến lúc đó, không thể
có kịch bản nào được sửa soạn cho
việc này. Nhưng nếu ta hiểu Pháp ta có thể phản ứng Pháp theo
trực giác và theo hoàn cảnh lúc ấy, nói và làm
điều phải để giúp đỡ người ra đi một cách an bình.
Vào thời Ðức Phật, Nakulamata,
vợ của Nakulapita chỉ làm như sau: Bà đã
an tâm người chồng khi ông này sắp chết. Bà ta nói với chồng: "Anh thân
yêu, đừng chết với bất cứ nuối tiếc nào
hay luyến chấp bất cứ thứ gì. Giáo chủ của chúng ta, Ðức Phật
đã nói chết theo cách như vậy thật
không khôn ngoan chút nào."
Hiểu tính chồng, bà tiếp tục:
"Anh thân yêu, anh có thể nghĩ rằng khi anh
đi rồi, em không thể nuôi nấng con cái và giữ gia
đình êm ấm. Nhưng
đừng nghĩ như vậy, em rất khéo tay về cuốn
bông và chải len. Em có thể nuôi nấng con cái và giữ gia
đình êm ấm. Cho nên, hãy thanh thản."
Và bà ta
đã an tâm người chồng là bà sẽ giữ
đức hạnh và tu tập Phật Pháp cho
đến khi đạt được giác ngộ. Và nếu ai
nghi ngờ việc này, hãy để cho họ đi hỏi
Ðức Phật là người mà bà ta chắc chắn là sẽ bầy tỏ lòng tin tưởng ở
nơi bà. Nghe thấy những lời bảo đảm như
vậy, thay vì chết, Nakalapita cảm thấy khỏe hơn rất nhiều và
đã khỏi bệnh! Sau này, khi cặp vợ
chồng thắm thiết này đến gặp Ðức
Phật, Ðấng Thế Tôn đã nói với
Nakulapita rằng Nakulapita đã rất
may mắn có một người vợ như Nakulamata: "Ông thật hết sức may mắn có
người vợ như Nakulamata đã hết sức
thương yêu và từ bi với ông, bà đã
mong muốn ông
được hạnh phúc và có thể khuyên nhủ
ông trong lúc cấp thiết"
Thân quyến cũng nên ủng hộ
triệt để những gì có thể cho người
sắp chết. Như đã nói trước
đây họ không nên khóc vì khóc sẽ gây
khó khăn cho người chết. Nhưng nếu họ thấy
khó kìm hãm nổi mình thì hãy suy ngẫm về Pháp. Họ có thể suy ngẫm
rằng cái chết không thể tách rời sự sống. Khi có sự sống ắt phải có cái
chết. Ðó là điều chúng ta phải chấp nhận
một cách tế nhị. Ngoài ra khi thân đã
hư hoại và bệnh nặng, thì thật là mừng để
"thoát khỏi" nó. Nhận lấy một cuộc kiếp sống mới, người ấy sẽ khá
hơn. Suy nghĩ một cách khôn ngoan, thân quyến có thể giành lại
được sự tự tại và giúp
đỡ người sắp chết ra đi xứng đáng và
thanh thản.
CHẬP TƯ TƯỞNG CUỐI CÙNG
Chập tư tưởng cuối cùng hay lúc
chết được cho là rất quan trọng. Nếu
ta chết vì sợ hãi, giận dữ, tham lam hay bất cứ với trạng thái tinh thần
bất thiện nào, thì tái sinh xấu sẽ nảy sinh. Nếu ta chết trong thanh
thản, hiểu biết, với chánh niệm và trầm tĩnh, tái sinh tốt sẽ xảy ra.
Thường thường nếu ta có một cuộc sống thiện thì chập tư tưởng cuối cùng
đương nhiên sẽ là chập tư tưởng thiện.
Những hành vi thiện ta đã làm có thể
xuất hiện trước tuệ nhãn. Hay ta có thể có những ảo giác về
định mênh sắp tới, như nhìn thấy quang
cảnh ngoạn mục ở cõi trời và những người rất
đẹp. Trái lại nếu ta sống một cuộc đời tội lỗi thì những hành vi ác
đã làm có thể xuất hiện trước mắt ta
hay có những ảo giác về lửa địa ngục hay có
thể nhìn thấy những điềm xấu khác.
Trong đời sống tuy nhiên chúng ta không hẳn là tốt hay cũng không
hẳn là xấu, có một sự pha trộn xấu và tốt trong chúng ta. Nhưng nếu xếp
toàn bộ chúng ta là tốt thì chúng ta tin là sẽ có một tái sinh tốt.
Nếu chúng ta có một sự hiểu
biết rõ ràng về sống và chết, chúng ta có thể chết với sự vững vàng và
trầm tĩnh. Chúng ta có thể, như đã
nói, hành thiền cho đến lúc cuối cùng,
giữ vững chánh niệm và tự tại. Vì đã
sống một cuộc đời thường là thiện và
hơn nữa có thể giữ chánh niệm trong lúc trực diện với cái chết, chúng ta
chắc chắn được bảo đảm một tái sinh tốt –
lại là người tốt – hay chư thiên, một chúng sinh ở cõi trời. Cũng
có hy vọng là chúng ta có thể nhanh chóng, dù bất cứ tái sinh nào
đã xẩy ra, chấm dứt luân hồi, vòng
sinh tử, cho nên không còn phải tái sinh, chúng ta sẽ giành
được an lạc của Niết Bàn.
Ðôi khi có câu hỏi sau
đây: Cái gì sẽ xảy ra nếu không giữ
được chánh niệm, nhất là khi người ấy
không trải qua sự rèn luyện hành thiền nào? Chẳng hạn nếu người ấy chết
trong trường hợp hôn mê thì sao? Hoặc người ấy
đột nhiên bị chết
đột ngột trong một tai nạn xe cộ thì
sao? Theo sự hiểu biết của tôi về kinh sách
được dạy của Ðức Phật, tôi có thể nói rằng nếu ai
đã sống một cuộc
đời lương thiện, thì những cơ may là
chập tư tưởng tốt sẽ xuất hiện vào lúc chết và một tái sinh tốt sẽ nảy
sinh. Nghiệp của chúng ta là nơi nương tựa
đích thực của chúng ta (nghiệp quả), cho nên theo tổng số sức nặng
về những hành động thiện mà chúng ta
đã làm sẽ dẫn chúng ta
đến một tái sinh tốt. Ðó là lý do tại
sao chúng ta phải sống một cuộc đời thiện
trong lúc còn sống, và không chờ đến
lúc gần chết thì đã quá muộn.
Nhưng vì trong đời sống chúng ta đã
làm cả xấu lẫn tốt, có khả năng là
chúng ta có thể vụng nhớ đến những hành
vi xấu thay vì những hành vi tốt vào lúc chết. Cho nên giữ chánh niệm
quan trọng hơn tất cả; chánh niệm giúp ích nhiều. Với chánh niệm, những
tư tưởng xấu không thể thâm nhập tâm chúng ta và chúng ta có thể chết
bình tĩnh, thanh thản. Chánh niệm là một
đức tính tuyệt vời – có thể giúp chúng ta trong cả sống và chết –
tại sao chúng ta không trau dồi và phát triển nó trong khi chúng ta còn
sống?
---*---
Một tỳ kheo chuyên tâm chánh
niệm về cái chết thì lúc nào cũng siêng năng.
Vị tỳ kheo ấy nhận thức được sự tan vỡ ảo tưởng của tất cả các loại đang
trở thành (sự sống). Thắng được sự
luyến ái vào đời sống, vị tỳ khéo ấy
lên án tội lỗi. Vị ấy tránh tích trữ nhiều. Vị ấy không bợn chút
tham lam nào về vật dụng cần thiết. Nhận thức về vô thường phát triển
trong mình, theo sau là xuất hiện sự nhận thức về khổ
đau và vô ngã. Nhưng trong khi chúng sinh không phát triển chánh
niệm về cái chết không tránh nổi sợ hãi, khủng khiếp, và bối rối vào lúc
chết như thể
đột nhiên bị bắt bởi thú rừng, ma quỷ,
rắn, trộm cướp, hay kẻ giết người thì vị tỳ kheo ấy không một chút sợ
hãi, và không bi rơi vào bất kỳ tình trạng nào như vậy. Và nếu vị ấy
không
đạt được cái bất tử, thì ít nhất vị ấy
cũng đi về một định mệnh hạnh phúc khi thân
tan rã.
Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhimaga)
SUY
NGẪM VỀ CÁI CHẾT
Khi sống, thỉnh thoảng suy ngẫm
về cái chết là tốt. Thực ra suy ngẫm hàng ngày càng tốt. Ðức Phật dặn
chúng ta thường xuyên suy ngẫm về cái chết vì có rất nhiều lợi lạc
đạt được từ sự suy ngẫm này.
Trước nhất chúng ta phải hiểu
rõ rằng suy gẫm về cái chết không phải là chúng ta phải trở nên rầu rĩ,
sợ hãi, không lành mạnh hay ngã lòng, hay cảm thấy như tự giết mình.
Không, chắc chắn là không, chúng tôi muốn nói rằng chúng ta nên suy ngẫm
về cái chết một cách khôn ngoan, có thể sống một cách khôn ngoan và từ
bi hơn.
Thí dụ, bất cứ lúc nào tôi bị
khó chịu hay nản lòng, tôi phải (nếu tôi không quá vô tâm) suy ngẫm theo
những hàng chữ sau đây: Ðời sống
ngắn ngủi, chảng bao lâu chúng ta đều sẽ
chết. Cho nên cãi nhau hay tranh giành có ích gì? Giận dữ có
ích gì? Không có ý nghĩa chút nào cả. Tốt hơn là tôi giữ sự an lạc của
tôi. Tranh cãi hay giận dữ không giải quyết
được vấn đề. Nó chỉ gây ra thêm thù oán và bực mình. Nghĩ như vậy
tôi có thể bình tĩnh lại, kiềm chế mình để
khỏi bị kích động bởi những cảm nghĩ mạnh mẽ, và liên hệ với
người khác một cách lịch sự và khéo léo hơn. Ðương nhiên, không phải lúc
nào cũng dễ dàng, nhưng
đôi khi (có lẽ là nhiều lần) tôi
đã quên và bị kích thích của tài hùng
biện và xúc cảm, nhưng khi tôi tự nhớ lại về sự ngắn ngủi của
đời sống và cái vô nghĩa của nóng giận
đùng đùng,
tôi có thể bình tĩnh lại một chút và nói năng
một cách lịch sự và thận trọng hơn.
Tương tự như thế, khi tôi bị
dao động hay lo lắng về một việc gì
đó, tôi sẽ nghĩ rằng tất cả những lo lắng và
băn khoăn có ích gì. Cuộc
đời cứ tuần tự vi tiến, cái chết chờ đợi mỗi
người chúng ta. Không ai trong thế giới này có thể thoát chết. Tử
thần là người thực thi bình đẳng vĩ đại, và
là người san bằng chênh lệch trong xã hội. Cho nên, trong khi tôi còn
sống, tốt hơn là phải sống tốt hết sức mình, và
điều đó có nghĩa là sống theo Pháp,
sống trong chánh niệm, từ lúc này đến lúc
khác, từ ngày này đến ngày
khác, chỉ làm những điều tốt nhất mà
tôi có thể, cứ thế mỗi ngày. Suy nghĩ khôn ngoan như vậy, tôi có thể
kiểm soát những lo lắng, sống nhẹ nhàng và sung sướng hơn.
Hơn nữa, chúng ta có thể suy
xét rằng có hay không lo lắng tất cả chúng ta
đều phải già và chết. Cho nên chúng ta có thể già mà không lo lắng!
Làm điều đó sẽ là khôn khéo hơn.
Không ai là người không đồng ý là
chúng ta chắc chắn sung sướng hơn nếu không lo lắng. Mặt khác, tất cả
những lo lắng làm tổn thọ, khiến cho chúng ta phát bệnh sớm và chết.
Cũng bằng cách nghĩ này, chúng ta có thể kiểm soát lo lắng và sống một
cuộc
đời hạnh phúc hơn. Bởi vậy, suy nghĩ về cái
chết một cách khéo léo khiến cho chúng ta rộng lượng và nhẫn nại
hơn, tử tế và lịch sự hơn, cho cả chính chúng ta và người khác.
Rồi chúng ta có thể trở nên ít
bị ràng buộc vào của cải vật chất, ít tham lam. Vâng, khi chúng ta nhận
thức sâu xa cái ngắn ngủi của cuộc đời, và
không thành vấn đề chúng ta có thể có bao
nhiêu nhưng chúng ta không thể mang theo chỉ một xu khi chết
chúng ta sẽ trở nên ít keo kiệt hơn. Khi chúng ta rộng rãi một chút thì
bắt
đầu vui trong việc chia sẻ và cho
đi, thương yêu và quan tâm. Lúc
đó chúng ta sẽ nhận thức ra rằng đời sống
không chỉ là chỉ gom góp và tích trữ của cải. Chúng ta sẽ thích
rộng lượng hơn, chia sẻ và mang niềm vui và hạnh phúc vào cuộc
đời của những người khác. Mang niềm vui và
hạnh phúc cho người khác là làm cái cho đời
sống có ý nghĩa và đẹp đẽ.
Ðiều
đó mới đáng kể. Tình thương yêu và từ
bi nảy nở và thăng hoa trong chúng ta giống
như hoa nở đẹp của cây. Chúng ta trở nên thành những người thực
sự
đẹp, đắm mình trong từ bi,
đáp lại bằng tấm lòng không có bất cứ
sự kỳ thị giống nòi, giáo phái, tôn giáo,
địa vị xã hội vân vân... Ðời sống của chúng ta sẽ có một luồng
sáng mới và chúng ta có thể nói chúng ta thực sự hạnh phúc và
đầy tình người. Và khi cái chết
đến, chúng ta không có gì nuối tiếc.
Chúng ta có thể mỉm cười với cái chết một cách hạnh phúc và an bình.
KHI BỐN TRÁI NÚI ÐỔ XUỐNG
Ðức Phật có lần nói dùng lối so
sánh để gây ấn tượng cho chúng ta sự cần
thiết sống một cuộc đời có ý nghĩa. Ngài
đặt câu hỏi này với Hoàng Ðế Pasenadi:
"Này Hoàng Ðế, Ngài làm gì khi Ngài được
biết bốn trái núi lớn, một từ hướng Bắc, một từ hướng Nam, một từ hướng
Ðông và một từ hướng Tây, đang tiến về hướng
vương quốc của Ngài, nghiền nát mọi vật sống và không có gì thoát
khỏi?"
Hoàng Ðế Pasenadi trả lời:
"Bạch Ðức Thế Tôn, trong một thảm họa lớn lao như vậy, sự hủy diệt
đời sống con người quá lớn, và tái
sinh làm người rất khó đạt được, tôi có thể
làm gì để cứu vãn mà sống một
cuộc
đời ngay thẳng và làm những hành vi
thiện?" Ðức Phật đã làm cho vua hiểu
vấn đề: "Thưa Hoàng Ðế, tôi nói
để Ngài biết – tuổi già và cái chết
đang lăn vào Ngài. Vì tuổi già và cái
chết đang lăn vào Ngài, Ngài phải
làm gì?" Hoàng Ðế trả lời rằng trong hoàn cảnh như thế tất cả việc cấp
thiết là phải sống một cuộc đời lương thiện
và thực hiện hành vi tốt. Nhà vua thừa nhận tất cả uy quyền, uy
thế, của cải và lạc thú mà nhà vua hưởng như một hoàng
đế, có thể khi đứng trước cái chết chỉ là con số không.
Ví thế khi chúng ta suy nghĩ
một cách khôn ngoan về cái chết, chúng ta sẽ nhận ra rằng của cải, uy
quyền, uy tín và những lạc thú nhục dục không phải là mọi thứ. Chúng
không thể bảo đảm hạnh phúc cho chúng ta.
Nhiều người có chúng nhưng vẫn sống một cuộc đời sóng gió và bất
hạnh. Một số người hối tiếc đã hành
hạ, áp bức và làm hại người khác trong khi theo
đuổi điên cuồng những tham vọng trần tục của họ. Sau khi
đã tiến
được tới đỉnh, họ thấy là thành quả rốt cuộc không phải là thỏa mãn
mà thậm chí trống rỗng và vô nghĩa. Ðôi khi họ ước ao phải chi họ
đã có nhiều thì giờ hơn
để sống với thân quyến và bạn bè và
bộc lộ sự quan tâm và trìu mến hơn. Họ nuối tiếc
đã lơ là với người thân yêu. Một số
người đã
đạt được mức đô khá thành công, đã
thay đổi thái độ giữa chừng. Họ đã
dành nhiều thì giờ hơn cho người thân, bạn bè và xã hội và sửa soạn vì
điều thiện cao cả hơn, bỏ những tham vọng cao
nhất để bằng lòng với cái ít hơn.
Nếu chúng ta biết
được một số người giàu có và thành
công đã xáo trộn
đời họ ra sao, chúng ta sẽ học được một bài
học từ sự lầm lẫn của họ. Một hôm tôi đọc
cuốn sách với tựa đề "Những Người Giầu Có Nhất Trên Thế Giới Thua
Cuộc" .Tôi thấy đây là một cuốn sách
giáo dục. Tựa đềù hoàn toàn thích
đáng. Họ là những người thua cuộc
trong đời sống bất chấp của cải của họ.
Vâng, tôi đã học được khá nhiều Phật
Pháp trong cuốn sách đó, làm sao mà tiền bạc và thành công không
bảo
đảm hạnh phúc riêng cho họ. Thay vì họ
đã không hạnh phúc bất chấp của cải và
thành công của họ. Ðọc biết về những người giàu có và nổi tiếng như
Howard Huges, Mario Lanza, Elvis Presley, Marylyn Monroe và Aristotle
Onassis,
đã sống và chết ra sao, tôi không thèm
muốn như họ.
Những nhân vật
đầy quyến rũ như Elvis và Monroe chết
vì ma túy quá độ, sống qua câu châm ngôn:
"Từ nghèo khổ đến giàu có, và
từ giàu có đến rỗng không". Tất cả
của cải và thành công của họ không mang lại hạnh phúc mà họ tìm kiếm.
Hạnh phúc vẫn tránh né họ. Họ có vẻ khá tệ héo hon vì nóng giận cao
độ, phiền muộn, sợ hãi và trống rỗng.
Lấy trường hợp của một người phụ nữ thừa kế một gia tài vô cùng to lớn,
lấy chồng bẩy lần mà không tìm thấy hạnh phúc. Bà nói với người viết
tiểu sử của bà: "Tôi thừa hưởng mọi thứ trừ tình yêu. Tôi lúc nào cũng
tìm kiếm nó vì không biết nó là cái gì". Sáu cuộc hôn nhân
đầu kết thúc bằng ly dị và cuộc hôn
nhân cuối kết liễu bằng ly thân. Chung cuộc, mặc dù của cải lớn lao,
người ta nói bà chỉ là một người đàn
bà
đau khổ dễ bị thương tổn bị ảnh hưởng bởi cô
đơn. Bà chết vào năm 66 tuổi với một
vài người bạn bên giường mà không có người chồng nào
đến. Những chuyện bi thảm như vậy, tôi chắc
chắn, có thể cũng tìm thấy ở phương Ðông.
Ðương nhiên,
đề cập đến những người khác, chúng tôi không
có ý xem thường một cách tự cho là
đúng. Nhưng chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh tầm quan trọng về việc có những
giá trị thích đáng trong đời sống, hiểu bản chất của tình thương
và từ bi thực sự. Chúng tôi cũng không có ý lên án sự giàu có và thành
công hay nói rằng bạn không nên phấn đấu vì
chúng. Không, chúng tôi không nói như vậy. Chúng tôi hiểu rõ là chúng ta
phải thực tế và hiện thực. Chúng tôi hiểu rằng nếu các bạn
đang làm việc trên thế giới này thì lý
đương nhiên bạn cố gắng hết mình
để kiếm được càng nhiều của cải càng
tốt. Sau hết, nếu bạn muốn làm điều thiện và
giúp đỡ người khác, như xây dựng cơ sở từ
thiện, bệnh viện và trung tâm hành thiền, và cúng dường thực phẩm
cho các nhà sư và người nghèo túng, bạn cần phải có tiền. Cho nên chúng
tôi không nói là bạn không nên cố gắng làm một cư sĩ
để làm giàu cho chính bạn. Nhưng
đương nhiên, trong việc kiếm của cải,
bạn nên làm bằng phương tiện lương thiện, không làm hại người khác.
Nói một cách khác,
điều chúng tôi nhấn mạnh là sự
đúng mức về luân lý. Chúng ta cần có những
giá trị tinh thần, nhận thức sâu sắc là hạnh phúc không phải là
sự ham mê lạc thú mà là chia sẻ và quan tâm. Khi chúng ta có những giá
trị
đúng, chúng ta có thể sống có ý nghĩa và
mang niềm vui và hạnh phúc đến tất cả những
người ở trong môi trường đời sống của chúng ta. Khi chúng ta hiểu Pháp
nhất là chân lý về vô thường, khổ
đau và vô ngã, chúng ta không bám víu vào danh vọng hay lợi lạc.
Chúng ta có thể sống khiêm nhường và từ bi, chia sẻ của cải và thành
công, và tìm thấy niềm vui trong việc làm cho người khác hạnh phúc.
Nhưng khi chúng ta không hiểu thấu sâu xa về những gì cấu thành hạnh
phúc – mà hạnh phúc thực sự đến từ cái tâm
đã thoát khỏi tham, sân và si – rồi thì chúng ta không hiểu chúng
ta có thể làm
điều sai lầm, chúng ta nhất định bị chìm
vào vũng bùn nhục dục đi đến sự kết liễu
thống khổ. Cho nên điều quan trọng là
chúng ta hãy suy ngẫm cẩn thận về sự sống và cái chết, và lái vào
đúng hướng, con đường thích hợp.
Ý THỨC CẤP BÁCH
Suy ngẫm về cái chết cũng có
thể mang lại cái được gọi là
Samvega bằng tiếng Pali – một ý thức cấp bách có thể tiếp sức cho
chúng ta làm tất cả các điều thiện mà
chúng ta có thể làm được trước khi chết và
đặc biệt là hành thiền
để trải nghiệm được chân lý sâu xa hơn và
sự hiểu biết. Ðức Phật nói hầu hết mọi người tất tưởi vội vã ở bờ bên
này; họ không tìm cách vượt sang bờ bên kia. Ý Ðức Phật muốn nói chúng
ta tất cả đều bị vướng mắc vào những
mưu cầu khoái cảm trong những lạc thú trần tục của
đời sống. Chúng ta không tìm cách vượt khỏi phàm trần – vượt qua
sinh tử, để nếm rượu thần tiên của
hạnh phúc bất tử, Niết Bàn bất tử.
Niết Bàn là gì? Niết Bàn không
thể mô tả được mà mỗi người phải
trải nghiệm nó cho chính mình. Nhưng Ðức Phật
đã cố gắng đưa ra một số ý niệm về
Niết Bàn là thế nào. Thí dụ, Ngài mô tả Niết Bàn là cái bất sinh,
không nguồn gốc, không hình dáng, không
điều kiện, bất tử, hạnh phúc cao nhất, an lạc to lớn nhất. Niết Bàn
tượng trưng một trạng thái bất sinh bất diệt, không sinh hay tử. Nó
được mô tả như ngọn gió thổi tắt những ngọn
lửa của tham, sân và si, sự chấm dứt của tâm và vật, sự dập tắt
khổ
đau. (Ðể
đọc thêm về Niết Bàn, hãy
đọc cuốn "Bản Chất Của Niết Bàn",
tác giả Mahasi Sayadaw, phát hành bởi Tổ Chức Buddha Sasana Nuggaha,
Rangoon, Miến Ðiện)
Một người
đạt được trạng thái Niết Bàn, trạng
thái này có thể thực hiện được trong quá trình
thiền định, được gọi là giác ngộ.
Một người giác ngộ có thể là bậc A La Hán hay Ðức Phật. Sự khác biệt
giữa A La Hán và Ðức Phật là A La Hán đạt
giác ngộ, bằng cách lắng nghe một người giác ngộ khác trong khi
Ðức Phật
đạt giác ngộ bởi chính mình.
Người giác ngộ là người có thể
trực diện với những nỗi thăng trầm của cuộc
đời bằng cái tâm điềm đạm. Qua những thăng trầm, như thua và
được, thành công và thất bại, khen và
chê, đau đớn hay thích thú, nổi tiếng hay
mang tiếng, người giác ngộ vẫn thanh thản và không lay chuyển. Họ
tiếp tục lối sống ấy không phải là bị lừa dối hay không cảm thấy mà vì
đã được
giác ngộ và khôn ngoan; hiểu rõ bản chất thực sự của cuộc sống,
bản chất của hiện tượng vật chất và tinh thần, bản chất vô thường, bất
an cửa chúng và không có một hạt nhân hay cốt lõi nào có thể gọi là cái
ngã trong ý nghĩa tối hậu. Nếu họ không tham
đắm vào lạc thú, và thích đau đớn,
không phải là họ không cảm thấy chúng. Họ cảm thấy chúng nhưng
hiểu rõ bản chất thực sự của chúng nên họ không bị áp
đảo bởi chúng. Họ có thể chấp nhận cả đau đớn lẫn lạc thú khi chúng tới
bằng trí tuệ và trầm tĩnh.
Cũng vậy
đối với những hoàn cảnh trần thế khác
như khen chê, thua được. Nếu họ được khen
họ không kiêu căng hay tự cao tự
đai. Họ không hãnh diện. Nếu họ bị chê, họ không buồn phiền hay
ngã lòng. Ðiều ấy không thành vấn đề với
họ. Họ vững vàng và không xao xuyến vì biết mình
đã hành động đúng – không một vết
nhơ của tham sân và si, động cơ thúc
đẩy họ là thương yêu-khả ái và từ bi. Họ cũng không có ý thích
làm hại
đến con kiến hay con muỗi. Lương tâm của họ
trong sáng, tâm trí họ nhẹ nhàng và tự do. A La Hán sống kiếp
sống cuối cùng trên trái đất và khi
chết không bị tái sinh nữa. A La Hán chấm dứt như một ngọn
đèn, đạt
nirodha – sự chấm dứt. Người ây đạt Parinibbana (vô dư
Niết Bàn) – có nghĩa là người ấy đạt Niết Bàn
tối hậu, sự chấm dứt tất cả cuộc sống, đạt
được yếu tố an lạc tối thượng của Niết Bàn. Bởi vậy, A La Hán
trong thời Ðức Phật có câu sau:
Tôi thích thú không phải trong sự sống
Tôi thích thú không phải trong cái chết
Mà tôi chờ lúc ra đi của tôi trong chánh niệm và tự tại.
Một bài kệ khác như sau:
Vô thường là những thứ duyên hợp
Có bản chất sinh ra và mất đi
Ðã nẩy sinh rồi phải chết đi
Bình lặïng và chấm dứt là hạnh phúc thực sự.
Suy ngẫm về cái chết có thể
giải thoát chúng ta khỏi sự kìm kẹp của cám dỗ nhục dục. Chúng ta sẽ
không bị lừa dối bởi của cải vật chất mà hướng nguồn vui của chúng ta
vào một cuộc đời đáng hài lòng và bổ
ích vì sự phát triển trí tuệ và từ bi. Chúng ta
được khuyến khích hành thiền hoặc, nếu chúng ta
đã thực hành rồi, hãy tăng
gấp đôi nỗ lực đạt mục tiêu tối hậu giải thoát khỏi tất cả khổ
đau.
SUY NGẪM DẪN ÐẾN HIỂU BIẾT VÀ
CHẤP NHẬN
Suy ngẫm thường xuyên về cái
chết – về làm sao không thể tránh được và
tài sản đích thực của ta là những
hành vi – có thể khuyến khích chúng ta sống một cuộc
đời lương thiện đến mức khi chết chúng ta sẽ
không sợ hãi cái chết.
Hơn nữa khi một người thân của
chúng ta chết, không thể tránh khỏi là tất cả chúng ta
đều phải chết, phiền muộn không làm
đau đớn chúng ta khi chúng ta hiểu biết và
chấp nhận. Ðó không phải là vì chúng ta không
động lòng hay vô tâm. Không, chúng ta có một con tim, một con tim
dễ xúc cảm. Chúng ta có thể cảm động sâu xa
nhưng chúng ta cũng biết bản chất của sự sống, và có thể chấp
nhận cái chết đan dệt thành sự sống.
Giải thích người trí chấp nhận
cái chết ra sao, Ðức Phật nói: "Thấy bản chất của thế giới, người trí
không than van. Khóc lóc, rên rỉ sẽ chỉ dẫn
đến khổ đau và đau đớn hơn. Nó không
thể làm người chết trở lại. Người than khóc trở nên xanh xao và
ốm yếu. Người ấy đã làm ngược với
chính mình và sự than khóc của mình không
đem lại gì cả." Ðức Phật nói người khôn ngoan
đã thực sự nắm vững bản chất của cuộc sống,
đã "rút ra mũi lao phiền muộn và thất vọng". "Người ấy không có
sự bám víu. Vì đã
đạt được an lạc trong tâm, người ấy đã vượt qua tất cả phiền não.
Người ấy tự do."
Cho nên chúng ta nên suy ngẫm
về những khía cạnh sâu xa hơn trong những lời dạy của Ðức Phật
để chúng ta có thể trực diện với cái chết
không bị phiền não mà hiểu biết. Người ra
đi cũng không muốn chúng ta mất tự chủ. Họ
cũng không muốn chúng ta bị đau lòng mà hãy chấp nhận sự ra
đi của họ một cách thoải mái. Vì
đã tái sinh, họ
đâu còn hiện diện
để nhìn chúng ta khóc than. Khóc than
và phiền muộn của chúng ta không giúp gì cho họ cả. Cho nên cái
đó thật phù phiếm. Nếu chúng ta suy
xét sâu xa hơn, chúng ta có thể thấy phiền não của chúng ta là do luyến
chấp. Chúng ta không chịu nổi sự chia ly. Nhưng nếu chúng ta suy ngẫm
sâu xa hơn, và trở nên khôn ngoan hơn, chúng ta có thể chấp nhận cái
không thể tránh được. Thay vì phiền
não, chúng ta can đảm. Chúng ta có thể phản
ứng một cách có nghĩa lý, giả thử quyết định sống một cuộc đời cao
thượng và gương mẫu để tưởng niệm
hay tưởng nhớ người thân. Một người khôn ngoan chắc chắn không muốn
chúng ta than khóc cho người ấy. Trái lại người ấy muốn nói: "Nếu
bạn thực sự muốn tưởng niệm hay tưởng nhớ
đến tôi, xin hãy sống cuộc đời thiên,
làm những hành vi thiện, hãy tử tế với đồng
loại... Ðó là tất cả những gì tôi đòi
hỏi".
Khi Ðức Phật sắp nhập diệt,
người ta nói hoa trời và phấn hương gỗ đàn
hương từ trên trời rải xuống khắp thân Ngài
để vinh danh Ngài. Và nhạc trời cũng trỗi dậy. Nhưng Ðức Phật cho
thấy tất cả những thứ vinh danh Ngài như vậy không phải là
điều Ðức Phật muốn. "Không phải như
vậy mà Như Lai được vinh danh đến tột độ,"
Ngài nói. "Nhưng này A Nan, ai tôn trọng Pháp, sống
đúng Pháp, bước đúng con đường của Pháp, đó
chính là cách để vinh danh Như Lai
đến mức cao nhất. Cho nên này A Nan, các ngươi phải tự rèn luyện:
Chúng ta phải tôn trọng Pháp, sống đúng
Pháp, bước theo con đường của Pháp." Và tuy chúng tôi
đã nói trước
đây, chúng tôi muốn nói lại lần nữa: - Lời
dặn dò cuối cùng của Ðức Phật là: "Vayadhama sankhara.
Appammadena sampadetha.- Tất cả những gì duyên hợp
đều phải tan rả. Hãy gắng lên chuyên
cần (để giải thoát)."
THAN VAN KHÔNG THỂ TÁC ÐỘNG ÐẾN
TRO CỐT CỦA NGƯỜI CHẾT
Trong những kiếp trước, Ðức
Phật là một vị Bồ Tát (một vị Phật sẽ thành), cũng không biểu lộ phiền
não trước cái chết của những người thân. Ðức Phật có thể bằng tâm linh
nhớ lại những tiền kiếp của Ngài, và được
biết rằng có một kiếp Ngài là một nông dân, ngài không phiền não
khi mất một
đứa con trai duy nhất. Trái lại, Ngài
suy ngẫm: "Cái gì phải tan rã sẽ tan rã và cái gì phải chết sẽ chết. Tất
cả đời sống chỉ là tạm bợ và phải
chết." Khi một người Bà La Môn hỏi tại sao Ngài không khóc – phải chăng
Ngài có trái tim sắt đá, Ngài
không cảm động vì
đứa con của Ngài – vị Bồ Tát trả lời
rằng Ngài rất quí đứa con của Ngài,
nhưng phiền não không thể mang đứa con trở
lại được. "Không có than van nào có thể tác
động đến tro cốt của người chết. Làm
sao tôi phải phiền não? Nó đi theo con
đường mà nó phải đi".
Trong một kiếp khác Ngài không
khóc trước cái chết của người anh và đã
bị buộc tội là vô tâm, Ngài trả lời những nguời
đó không hiểu tám hoàn cảnh trần thế
mà tất cả chúng sinh phải đối diện, tức là,
được và thua, hạnh phúc và bất hạnh,
khen và chê, nổi tiếng và bị mang tiếng. "Vì ông không hiểu tám hoàn
cảnh trần thế, nên rên rỉ, khóc than. Tất cả mọi thứ hiện hữu chỉ là tạm
bợ và cuối cùng phải chấm dứt. Nếu ông không hiểu
điều này và vì cái vô minh của ông cho nên ông khóc và than van,
tại sao tôi phải theo ông than khóc?"
Trong một kiếp khác nữa, Vị Bồ
Tát không khóc trước cái chết của người vợ trẻ và
đẹp. Trái lại, Ngài suy ngẫm: "Cái gì
có bản chất tan rã thì phải tan rã. Tất cả những gì hiện hữu
đều vô thường", và ngồi xuống một cái
ghế gần đấy, Ngài dùng cơm như
thường lệ, cho thấy khả năng tuyệt vời lúc
nào cũng sống trong chánh niệm. Những người tụ tập chung quanh
Ngài hết sức ngạc nhiên và hỏi làm sao Ngài có thể giữ bình tĩnh vào lúc
như thế này. Phải chăng Ngài không
yêu vợ Ngài, một người rất đẹp đến nỗi kể
cả những người không biết bà cũng không cầm
được nước mắt? Vị Bồ Tát trả lời bằng bài kệ:
Vì sao tôi phải nhỏ lệ với em
Sammilllabhasini xinh đẹp kia ơi?
Em đi về cõi chết
Từ nay ta mất em .
Vì sao chàng trai yếu đuối than van
Những gì đối với hắn chỉ là vay mượn?
Hắn cũng hít vào hơi thở tử vong
Bị tước đi từng giờ bởi cái chết.
Lúc hắn đứng, hắn ngồi, đi lại hay nghỉ ngơi
Trong cái nháy mắt,
Cái chết xẩy tới ngay.
Ðời sống tôi cho là thứ không vững chắc
Mất bạn bè là chuyện không tránh được
Hãy trân quý tất cả những gì còn sống
Buồn phiền em cũng chẳng sống lại đâu.
(Lược dịch ý)
Những chuyện rất ngạc nhiên như
vậy về sự tự chủ của Bồ Tát rất đáng kính
sợ. Nó cũng dạy chúng ta phải suy ngẫm kỹ và sâu xa về giáo lý
để hiểu rõ chân lý của vô thường và
chấp nhận sự thật về cái chết. Có lẽ khi chúng ta
đau khổ vì mất người thân, chúng ta sẽ
suy ngẫm như vị Bồ Tát này và giữ được sự
điềm tĩnh.
CÁI CHẾT KHÔNG CÓ GÌ XA LẠ VỚI
CHÚNG TA
Một cách suy ngẫm khác về cái
chết để khắc phục được sợ hãi cái
chết, là coi cái chết không có gì xa lạ với chúng ta. Nổi trôi
đằng đẵng trong luân hồi, vòng sinh tử
bất tận, Ðức Phật nói chúng ta đã
chết
đi và tái sinh nhiều lần không kể xiết
– quá nhiều đến nỗi nếu chúng ta gom tất cả
xương khô lại cùng nhau, thì mỗi
đống xương đó có thể cao hơn quả núi cao nhất! Cũng vậy, Ðức Phật
nói nước mắt chảy trong luân hồi vì mất người thân nhiều hơn nước của
bốn
đại dương.
Ðúng, Ðức Phật nói, chúng ta
đã đủ đau
khổ nhiều, để hoàn toàn mỏi mệt về
đời sống, hãy tìm kiếm con đường để
ra khỏi cái mê cung khổ đau, con
đường để đi đến Niết Bàn bất diệt. Nhưng không may, chúng ta ít
trí nhớ nên không nhớ được kiếp nào
trong quá khứ. Làm sao mà đôi khi chúng ta
không thể nhớ nổi những gì chúng ta
đã làm ngày hôm qua! Cho nên chúng ta cứ tiếp tục sống một cách
tự mãn, không có ý thức khẩn cấp gì để trau
dồi trí tuệ để giải thoát chúng ta khỏi khổ đau. Tuy nhiên trong
thời Ðức Phật, có nhiều thầy tỳ kheo, kể cả Ðức Phật dã có thể nhớ lại
được tiền kiếp của mình. Ở thời nay
cũng có những chuyện của những người có khả năng
kỳ lạ nhớ lại tiền kiếp của họ. Francis Story và Bác Sĩ Ian
Stevenson đã viết những cuốn sách,
đưa ra tài liệu về một số những trường
hợp này.
Khi chúng ta suy ngẫm về tái
sinh chúng ta lợi trên hai phương diện:
Tóm lại chúng ta có thể coi cái
chết không có gì xa lạ với chúng ta. Chúng ta
đã gặp nó nhiều lần trước đây. Cho nên
chúng ta không cần đối đầu nó bằng sợ hãi.
Chúng ta có thể coi nó chỉ là một chuyển tiếp, sự thay
đổi từ cuộc sống này
đến một cuộc sống khác.
Chúng ta sẽ có
động cơ tìm cách ra khỏi luân hồi,
vòng sinh tử. Chúng ta có thể nghiên cứu giáo lý của Ðức Phật sâu xa
hơn. Chúng ta có thể phấn đấu mạnh hơn nữa
và thực hành những lời dạy của Ðức Phật,
để phát triển lòng vị tha, đạo đức và
thiền định.
CÁI CHẾT NHẤT THỜI
Trong một
đường lối khác nhìn cái chết là cái mà
ta trải nghiệm hết lần này đến lần khác. Vì
trong ý nghĩa tuyệt đối, sinh và
diệt liên tiếp xảy ra. Theo Ðức Phật, thức lúc nào cũng sinh ra và chết
đi. Khi thức này tan rã thì lập tức
thức khác nảy sinh và cứ thế tiếp diễn, vô tận, cho
đến khi và trừ phi chúng ta thực hiện
được Niết Bàn tối hậu. Những hiện
tượng về thân thể cũng sinh diệt không ngừng. Cho nên cái mà chúng ta có
chỉ là sự sinh diệt không ngừng của các hiện tượng thể chất và tinh
thần. Ở một mức độ nào
đó hồ như sinh và tái sinh luôn luôn
xảy ra. Trong tiếng Pali, nó được gọi là
khanika-maranam - cái chết nhất thời. Trong cuốn Thanh Tịnh Ðạo, nó
được nói đến như sau:
"Theo tuyệt
đối, chúng sinh chỉ có một thời gian sống
rất ngắn ngủi, đời sống chỉ tiếp tục chừng nào mà thức còn. Giống
như cái bánh xe, dù chạy hay ngừng luôn luôn dựa vào một
điểm trên chu vi của nó, dù vậy
đời sống của chúng sinh chỉ kéo dài
trong lúc thức còn. Chừng nào mà lúc này chấm dứt, thì chúng sinh cũng
chấm dứt. Vì người ta nói rằng: ‘Chúng sinh thuộc về chập quá khứ của
thức đã tồn tại, nhưng không tồn tại
trong hiện tại, và cũng chẳng tồn tại trong tương lai. Chúng sinh thuộc
về chập tương lai không tồn tại, cũng chẳng tồn tại trong hiện tại,
nhưng nó sẽ tồn tại trong tương lai. Chúng sinh thuộc về chập hiện tại
đã không tồn tại, nó chỉ tồn tại
trong hiện tại, nhưng nó sẽ không tồn tại trong tương lai.’"
(chuyển ngữ bởi ngài Nyanatikola theo cuốn Tự Ðiển Phật Giáo)
Trong phạm vi này, chúng sinh
chỉ là thuật ngữ qui ước. Phân tích đến cùng,
nó chỉ là một chuỗi thức sinh ra và chết
đi. Thức này chết đi thì thức
kia nảy sinh - tất cả là như thế. Và chúng ta gọi tiến trìnhï tiếp tục
này là một chúng sinh. Nhưng trong ý nghĩa tuyệt
đối, không có chúng sinh – không có sự thay đổi của linh hồn hay tâm, mà
chỉ có một chuỗi thức sinh ra và chết đi,
thức này tạo điều kiện cho sự sinh
ra của thức kia.
Hơn nữa cái chết thông thường
mà chúng ta trải qua vào lúc chấm dứt của tuổi thọ không chỉ là cái chết
tối hậu. Một thức khác tức khắc sinh ra nhưng trong một thân mới hay
cảnh giới mới theo tái sinh mà ta đi vào.
Chỉ khi ta đã loại bỏ
được những dấu vết tinh thần của tham, sân và
si, thì mới không có tái sinh. Suy ngẫm như vậy, chúng ta cũng có thể
đánh giá đúng bản chất của vô thường, khổ đau
và vô ngã. Và chúng ta có thể vượt qua cái sống và chết dễ dàng.
VẤN ÐỀ ÐÁNG SUY NGHĨ
Mỗi lần bạn nhìn vào tờ báo và
gặp mục lời cáo phó hay những thông báo về cái chết, bạn có suy nghĩ về
cái chết không? Bạn có dừng lại và suy ngẫm sự thật về cái chết của
chính bạn không? Bất cứ lúc nào cái chết
đến với những người khác, chúng ta không cảm thấy nhiều về việc đó.
Người chết có thể là người xa lạ với chúng ta. Khổ
đau không phải là của chúng ta, ngoài ra chúng ta
đã trở nên hoàn toàn tê liệt trước
những chuyện về cái chết – Chúng được đăng
trên báo hàng ngày. Ðọc tin người ta bị giết ra sao, nhất là
trong chiến tranh,sự sống dường như rẻ mạt. Dường như không có sự tôn
trọng gì
đối với sự sống. Nhưng khi cái chết đánh vào
người thân của chúng ta, chúng ta chịu đựng
ra sao? Và khi chúng ta trực diện cái chết của chính chúng ta,
chúng ta có sợ chết điếng không? Vâng, mặc
dầu chúng ta biết chết và các thảm kịch xẩy ra chung quanh chúng
ta, nhưng chúng ta sững sờ kinh ngạc và không thể chấp nhận nó khi nó
thực sự xẩy ra cho chúng ta.
Khi chúng ta
đọc "mục tưởng nhớ" trong báo chí,
chúng ta có thể thấy tuy một người đã
chết mấy năm qua rồi, nhưng người thân vẫn
còn khổ vì đau đớn bởi chia ly như
thể nó mới giáng xuống ngày hôm qua. Ðôi khi trong những thông
diệp, người hôn phối hay thân nhân công khai bầy tỏ buồn phiền mà họ vẫn
còn cảm thấy và nước mắt vẫn nhỏ xuống bởi người thân. Chúng ta hiểu
đó là tình người cảm thấy như vậy.
Nhưng Ðức Phật dạy chúng ta rằng con người chúng ta có thể tự tiếp thu
bằng trí tuệ và sức mạnh để chấp nhận sự
mất mát và chịu đựng một cách kiên
cường. Không phải là Ðức Phật muốn chúng ta vô tâm mà Ngài muốn chúng ta
có trí tuệ để chấp nhận sự mất mát và
hiểu biết sự phù phiếm của phiền não. Nhất
định Ngài không muốn chúng ta héo hon vì phiền não, trở nên gầy gò
và yếu đuối, mất tất cả lợi ích trong đời.
Ðặc biệt những người Phật Tử nên hiểu
điều này và do đó chấp nhận sự mất mát
một cách kiên cường.
Nếu người Phật tử cần thiết
đưa ra thông điệp với lời cáo phó hay để
tưởng nhớ trên báo, tại sao không để
những lời Pháp như: Vô thường là tất cả mọi thứ duyên hợp. Hãy
phấn đấu không mệt mỏi cho Niết Bàn
vôvi; hay suy ngẫm một caùch có ý nghĩa về cái chết: Giống như
hạt sương trên ngọn cỏ chẳng mấy chốc vào lúc mặt trời mọc sẽ biến mất
và không tiếp tục tồn tại được lâu; giống
như vậy đời sống của con người giống như hạt sương rơi rất ngắn ngủi và
phù du. Ta nên hiểu điều này một
cách khôn ngoan, hãy làm những hành vi thiện và sống một cuộc
đời đạo đức, không ai có thể thoát chết.
Hay nếu ta muốn có tính cách
riêng tư, sao không để một thông điệp như
sau: "Anh thân yêu, nếu anh có thể biết
được, anh sẽ hài lòng biết rằng con
cái lớn lên rất tốt đẹp. Em đã dạy
kỹ chúng về Pháp, quý trọng những giá trị quý báu của tình thương yêu và
lòng tốt, trí tuệ và hiểu biết. Em cũng dạy kỹ chúng
đừng bắt chước bạo lực và tham lam
thường thấy qua truyền thông như truyền hình và phim ảnh. Kết quả, chúng
rất hòa nhã và thân thương với mọi người. Về phần em, em vẫn giữ giới và
hành thiền. Em đang thực hành chánh
niệm hàng ngày và ẩn tu một hay hai lần một năm.
Em rất an lạc và phát triển trong Pháp. Em cố gắng không phiền
não, vì anh và em đã hiểu một chút
điều Phật dạy – đó là phiền não thật
phù phiếm: Nó không có ích gì. Và em biết anh cũng chẳng muốn em phiền
não, mà là sống một cuộc đời thiên
và gương mẫu.
"Tuy nhiên có những lúc, em
phải công nhận, khi em cảm thấy đau đớn,
khi em thấy nhớ anh kinh khủng, nhất là khi nghĩ
đến những lúc vui cùng nhau, hạnh phúc
mà chúng ta cùng chia sẻ, nụ cười ngọt ngào và ánh mắt sáng ngời của
anh, cách anh cười và chòng ghẹo. Vâng, khi em lạc vào trong cái nhớ
nhung quá khứ ấy, em phải công nhận em cảm thấy nước mắt muốn trào ra.
Nhưng anh thân thương, em có thể tự kiềm chế
được. Em có thể có chánh niệm. Em có thể quan sát cái đau đớn và
chấp nhận nó. Em có thể quan sát tư tưởng và tâm trạng em. Em có thể suy
ngẫm giáo lý của Ðức Phật và hiểu sự phù phiếm của phiền não. Em có thể
hạnh phúc và trông vào các phước báu – ít nhất chúng ta
đã có những giờ phút hạnh phúc bên nhau và bây giờ chúng ta có
con cái
để sống vì chúng. Em hiểu sự
đau đớn đến từ sự luyến chấp và thiếu
sự hiểu biết sâu xa về bản chất của tất cả cuộc sống. Cảm ơn Ðức Phật
đã dạy chúng ta về chánh niệm, dạy
chúng ta sống trong hiện tại, phải luôn luôn hạnh phúc, trông mong vào
phước báu, tắm mình trong hạnh phúc của một cuộc
đời đã sống lương thiện.
"Vậy thì, em biết lời nhắn nhủ
này đã dài rồi. Em cũng biết rằng
anh không ở đâu đây để nghe. Nhưng nó làm
cho em cảm thấy dễ chịu được bầy tỏ theo
cách này. Em cảm ơn anh về hạnh phúc mà anh
đã cho em, và em dành tất cả những hành vi thiện mà em
đã làm, và
đời sống thiện mà nay em
đã cố gắng sống, tất cả em dành cho kỷ
niệm ngọt ngào và thân thương của anh. Em cũng chúc anh, dù tái sinh tốt
thế nào, cầu nguyện anh hãy tiếp tục tu tập Pháp cho
đến khi anh đạt được Niết Bàn, sự chấm
dứt tất cả khổ đau, vân vân... và
vân vân..."
Thừa nhận
đây là một một thông
điệp khá dài mà tôi
đã hơi say mê một chút. Nhưng
điều tôi muốn nhấn mạnh nơi đây là chủ
đề của thông điệp, một chủ đề về hiểu biết và
chấp nhận. Ðó chỉ là đưa ra ý niệm về lời
nhắn nhủ cách diễn đạt Phật Giáo. Nó có thể được rút ngắn lại và
viết đơn giản hơn. Hay ngoại trừ mục đích
giáo dục của nó (có nghĩa dạy dỗ), lời nhắn nhủ có thể là không
cần thiết. Những cảm nghĩ như vậy có tính cách cá nhân và có thể
được giữ riêng tư. Khi ta hiểu thấu
Pháp, ta có thể tiếp tục sống một cuộc đời
thiện và mãn nguyện.
MỘT THẾ GIỚI KHÁC
THƯỜNG
Ðọc báo và tạp chí có thể cho
chúng ta nhiều cái đáng suy ngẫm. Bên
cạnh những cáo phó, có những chuyện ác liệt nhắc tới khổ
đau trên khắp thế giới, dẫu cho chúng
ta có thể chết lặng đi vì nó. Có
những vụ giết người, trộm cướp, hiếp dâm và chiến tranh, những vụ xung
đột tôn giáo, sắc tộc, xã hội và chính
trị, ô nhiễm, bệnh tật, chết đói, nghèo
túng, tra tấn, áp bức, khủng bố, tai nạn, tự tử và những thiên tai như
động đất, hỏa hoạn, lụt lội và bão tố.
Quả là một bản liệt kê dài và đáng buồn cứ
tiếp tục.
Ðồng thời bên cạnh những tin
tức có những bức tranh và quảng cáo trình bày những người hạnh phúc
đang hưởng thụ cuộc sống như thể không quan
tâm gì đến thế giới. Họ cười và
chụp hình đằng sau các xe sang trọng, những
lâu đài đồ xộ, những căn phòng
khách sạn lộng lẫy, những chai rượu, thuốc lá, nước hoa, mỹ phẩm,
đồ trang phục trình bày quyến rũ, và
đồ trang sức lộng lẫy. Họ đắm mình
trong những tiệc tùng, cuộc thi sắc đẹp và
biểu diễn thời trang với những người kiểu mẫu
đẹp và sành điệu diễu hành trên
lối đi của bục trình diễn. Sự tương
phản đặc biệt thật mỉa mai, khi bạn nhìn
thấy một cuộc biểu diễn thời trang lớn bên cạnh một bức tranh não lòng
của những trẻ em Phi Châu đáng thương chỉ còn
da bọc xương gần chết đói.
Người ta nói chúng ta là người
văn minh ghê tởm bạo lực và sự gây
đau đớn điên rồ cho người khác. Tuy
nhiên chúng ta có những trận đấu tranh tài
vô địch quyền Anh của hai võ sĩ khỏe
mạnh, vì món tiền lớn, cố hết sức giã vào
đầu nhau giữa những tiếng la hét tán thưởng rầm rộ của người xem, không
phải là không giống thời dã mãn của người La Mã khi những
đấu sĩ đánh nhau với sư tử hay với nhau để
giải trí cho những khán giả khát máu. Chúng ta có những người đấu bò,
điên lên, hành hạ và giết con bò chỉ
để mua vui. Và mọi người, hay ít nhất
những khán giả đông nghẹt tại đấu trường,
dường như nghĩ rằng đó cũng là trò vui.
Hút thuốc và uống rượu
đã gây thiệt hại rất lớn cho sức khỏe
của con người, tuy nhiên các hãng thuốc lá và làm rượu vẫn cứ cung cấp
bằng mọi cách, thậm chí thông qua các võ đài
thể thao, những sản phẩm chết người của họ. Hút thuốc
được mô tả một cách lố bịch là "gặp gỡ
sự dịu hiền" và uống rượu ngang bằng với thành công và uy tín giữa nhiều
việc khác! Cái gọi là các nước phát triển bán hạ giá thuốc lá và những
sản phẩm có hại khác cho các nước Thế Giới thứ ba, trong khi kiềm chế sự
tiêu thụ các sản phẩm ấy trong dân chúng của họ. Trong sự tham lam quá
quắt của cải của họ, các hãng xưởng sẵn sàng làm bất cứ cái gì, dường
như không có một chút băn khoăn nào
về tất cả những gì họ nói hay làm trong việc cung cấp các sản phẩm như
vậy. Các phương tiện truyền thông đại chúng
như báo chí và tạp chí, chấp nhận và phát hành quảng cáo vì tham
lam số tiền lớn mà họ mang đến, không thể
tự tha trách nhiệm của mình. Họ có nhân quyền cơ bản
để thi hành lương tâm xã hội bằng cách từ chối những quảng cáo có
hại nhưng họ chọn cách không làm thế.
Nhìn vào một tạp chí hàng không
bóng loáng, bức ảnh ông chủ tịch già một hãng bia ở Thái Lan
đã khiến tôi lưu ý. Mặc com lê và với
mớ tóc hoa râm, ông ta hãnh diện trình bày, trong phòng họp sang trọng
của ông, một dẫy chai bia sản xuất bởi hãng của ông. Ngay
đàng sau ông là một cái bàn thờ với
hình ảnh Ðức Phật chiếu sáng lấp lánh. Ta có thể nhìn thấy bàn thờ
đã được
bầy ở giữa phòng một cách rất ấn tượng. Vì chúng ta
đều biết Ðức Phật dạy về sự cấm rượu,
giới thứ năm mà tất cả người Phật tử
tán thành nói rằng: "Tôi nguyện giữ giới không uống rượu hay dùng ma
túy, vì nó là nguyên nhân làm mất sự lưu tâm". Cho nên người giữ giới
khó có thể thỏa hiệp với sự sản xuất và phân phối rượu hàng loạt,
được coi như một cách sống sai lầm trong
Ðạo Phật, với hình ảnh của Ðức Phật,
được trình bày một cách trang trọng trong phòng.
Sulak Sivaraksa, một nhà hoạt
động và phê bình xã hội Thái, viết
trong cuốn sách của ông, "Những hạt giống của Hòa Bình": "Sự thật
đáng buồn là Thái Lan có khoảng
250,000 nhà sư nhưng gái mãi dâm nhiều gấp
đôi. Ðiều này phát ngôn cho một hệ thống không hữu hiệu và phải
thẩm xét lại từ cội nguồn. Nếu chúng ta có thể quay về nguồn gốc tốt
đẹp của truyền thống Á Châu, chúng ta có thể
tạo ra một kiểu sống lành mạnh và hữu hiệu". Kể ra hai thí dụ sau
cùng, chúng tôi không có ý chỉ trích Thái Lan, mà chỉ là nhấn mạnh vào
cái dị thường. Thật ra, dị thường hiện hữu ở khắp nơi. Giống như ở Thai
Lan, những việc đó cũng thấy ở Phật
Giáo Miến Ðiện, Phật Giáo Sri Lankha, xứ sở của chúng tôi và ở bất kỳ
một xứ nào khác. Không ai có độc quyền.
Vâng, chúng ta có thể tiếp tục
dài dài với bản liệt kê những mâu thuẫn trên thế giới mà chúng ta sống,
chúng ta tin chỉ điều này cũng
đủ để thấy vấn đề. Vâng, phải chăng hồ như
chúng ta không phải là một xã hội có một trạng thái tâm lý bị
chia rẽ hay loạn tinh thần? giống như một Bác Sĩ Jekyll và ông Hyde.
Chúng ta biết cái gì là bất thiện, tuy nhiên chúng ta tha thứ và thậm
chí còn khuyến khích sự tăng trưởng của nó.
Rõ ràng, dù muốn dù không chúng ta bị vương mắc vào
đấy, và chúng ta lao vào theo ngọn
thủy triều. Ðược lập trình và bị tác động
bởi những người có thế lực trong phương diện truyền thông quảng cáo đại
chúng, chúng ta đáp ứng điều khiển và thông
điệp của họ. Mua cái này, mua cái kia.
Ăn cái này, ăn cái nọ. Mặc cái này,
mặc cái kia. Làm cái này, đừng làm
cái
đó. Cái này thô kệch và cái
đó có tính chất đàn bà. Cái này
đúng mốt và cái kia không. Ðây là lối
sống tuyệt vời; đó là xã hội giàu
sang
đi đây đi đó bằng máy bay phản lực, một thế
giới vui nhộn và tiêu khiển tuyệt vời.
Xin thứ lỗi cho tôi nếu tôi có
vẻ giống một người chỉ trích, một trò thể thao xấu, một nhà sư giận dữ
đứng trên bục diễn giả ngoài trời cao
giọng tuyên bố rằng ngày tận thế gần kề và
đe dọa một xã hội suy đồi bằng lửa
địa ngục. Nhưng bạn có thể đồng ý với tôi rằng có lẽ đó không phải là
một ý kiến xấu, nếu thỉnh thoảng, chúng ta lùi lại một phút và nhìn vào
tình hình thế giới, trạng thái tâm chúng ta và tình trạng cuộc
đời chúng ta. Một số trí tuệ có thể nẩy sinh
từ sự suy ngẫm đó. Chúng ta có thể đánh giá lại lập trường của chúng ta
và hướng đi mà chúng ta muốn
theo. Chúng ta theo đám đông hay chúng ta
bỏ hàng ngũ? Và giả dụ tôi xin mượn một vần thơ của Robert Frost:
Hai con
đường rẽ ra hai ngả trong rừng rậm và
tôi – tôi đi con đường ít người qua lại.
Và việc đó đã làm cho sự thể thay
đổi hoàn toàn. Vâng, khi hai con
đường rẽ hai ngả trong đường đời, bạn đi con
đường nào? Con đường ít người đi –
con đường của chánh niệm và trí tuệ, con
đường của tình thương và từ bi? Xin hãy nghĩ về việc này, vì nó có
thể làm sự thể hoàn toàn thay đổi.
Nơi đất và nước
Lửa và gió không tìm được duyên hợp,
Dòng thủy triều đang tắt dần
Vòng luân hồi không còn xoáy tít nữa
Tâm và vật sẽ ngừng không còn gì lại nữa
Ðức Phật
MỘT NỤ CƯỜI NGỌT NGÀO NHẤT
Khi chúng ta
đã đi đến
phần cuối cùng trong việc bàn luận về Thương Yêu và Cái Chết, tôi
phải nói rõ ràng tôi không chút nào tự nhận là chuyên gia về sự sống,
tình thương yêu hay cái chết. Nhưng tôi cố gắng chia sẻ một số suy nghĩ
về vấn
đề này với quý vị, những suy nghĩ về
cách sống và chết bằng tình thương yêu và hiểu biết trên
đường đời. Chính là
đề tài tôi
đã đưa
ra, và tôi còn tiếp tục đưa ra,
nhiều suy nghĩ về nó. Chính đề tài mà tôi tin rằng sẽ
đem lợi ích cho tất cả chúng ta – vấn đề sự
sống, tình thương yêu và cái chết. Ðương nhiên tôi không tự nhận
là khôn ngoan và tôi biết tôi cũng có nhiều nhược
điểm. Ðúng là giống như người có ý
định tốt đấy nhưng vẫn còn vụng về
trên đường đời. Tôi cũng vụng về và
vấp ngã trên đường đời. Nhưng mỗi lần tôi
tự đứng lên, phủi bụi đi, cố gắng
không than van hay khóc lóc, một lần nữa hướng mắt về đỉnh núi cao tít
trên bầu trời, và tiếp tục với cuộc hành trình của sự sống.
Tôi hy vọng rằng một số suy
nghĩ tôi chia sẻ nơi đây có thể giúp ích
một phần nào cho quý vị, chúng có thể soi sáng chút ít cho con
đường của quý vị. Nếu chúng có thể cho quý vị
một chút gợi ý và quyết tâm sống và chết bằng tình thương yêu và
hiểu biết nhiều hơn, thì tôi sẽ rất sung sướng. Nếu chẳng may, những
phần trong bài có thể làm mếch lòng quý vị trên bất cứ mặt nào, tôi cũng
xin quý vị lượng thứ cho. Là con người, chúng ta có thể chỉ cố gắng –
để phục vụ và chia sẻ. Chúng ta có ý
định tốt, và cái nhỏ nhoi mà chúng ta
có thể, bất chấp những hạn chế, tìm cách
đóng góp cho một xã hội tốt đẹp hơn,
đó là một điều hạnh phúc. Bất cứ lúc
nào tôi nhìn lại, nó cũng cho tôi một niềm vui và an ủi khi biết
rằng ít nhất tôi
đã cố gắng làm nhiều mặc dầu nó chỉ có
thể là một chút thôi.
Và khi tôi chết, có lẽ tôi có
thể nói với Thần Chết: Này Thần Chết, bây giờ ngươi cứ thử làm
đi, vì ta
đã sống và thương yêu, và ta đã
làm được chút gì cho
đồng loại của ta". Và trước khi tôi
lẳng lặng lẻn vào đêm tối, bạn có
thể nhìn thấy vết tích mờ nhạt của một nụ cười trên môi tôi.
Tôi sẽ mỉm cười.
Một nụ cười ngọt ngào nhất lúc này
Bạn sẽ thấy
Tôi ra đi rất an bình
vào đêm tối.
Bạn có thể mỉm cười
Với tôi không?
Và nói --
Chào Thần Chết
Tạm biệt cuộc đời.
CHÀO THẦN CHẾT,
VĨNH BIỆT CUỘC ÐỜI
Khi cái chết
đến, vì nó phải
đến, bạn làm thế nào
để đối đầu với nó? Bạn có thể cười, nụ cười
ngọt ngào nhất lúc đó: "Chào
mi - Thần Chết, Tạm biệt cuộc đời"?
Vâng, bạn có thể gặp thần chết
không chút sợ hãi mà còn can đảm và
hiểu biết không? Bạn có thể chào nó như bạn gặp lại một người bạn xa
nhau từ lâu, như thể một người nào đó gọi
bạn đã lâu rồi và bây giờ bạn nhìn thấy, từ nơi xa
đến? Rốt cuộc, chết không xa lạ gì với chúng ta; chúng ta
đã sống và chết nhiều lần không kể
siết, gặp hết tái sinh này đến tái sinh
khác, sống đi sống lại trong luân hồi, cái vòng bất tận của tử và
sinh. Vâng, cái chết, chúng ta có thể nói, chỉ là sự thay
đổi của sự tốn tại, chỉ là tiếp tục
chuyển động một lần nữa.
Cuốn sách này nhìn vào sống và
chết từ khung cảnh Phật giáo - làm sao chúng ta có thể sống
đẹp và chết
đẹp, làm sao chúng ta có thể làm
đẹp đời sống bằng những giá trị đẹp của tình
yêu thương, trí tuệ và từ bi, những thứ đó
dẫn ta đến một chung cuộc đẹp, một cái chết đẹp.
Tác giả, một nhà sư Phật giáo
Mã Lai, đưa ra cách giải quyết và
thái
độ Phật Giáo với giá trị chung và phổ
quát trước những câu hỏi muôn thuở về đời
sống. Ông hy vọng những lời của ông có thể cho quý vị một số gợi ý về sự
sống, tình thương yêu và cái chết.
"Nơi nào Phật Pháp đã
thăng hoa
dù ở thành thị hay thôn quê,
người ta sẽ có những lợi ích phi thường,
Ðất đai và con người
được bao trùm trong hòa bình.
Mặt trời và mặt trăng trong sáng và
rực rỡ.
Gió và mưa sẽ đến thuận hòa,
và không có thiên tai
Các quốc gia sẽ phồn thịnh và
không cần dùng đến binh sĩ và khí
giới.
Con người sẽ tuân theo đạo đức và
hòa hợp với qui luật.
Họ sẽ lịch sự và khiêm nhường,
Và mọi người đều thỏa mãn vì không
có bất công.
Không có kẻ trộm cướp hay bạo lực.
Người mạnh không bắt nạt người yếu
và ai ai cũng có được phần của mình"
Ðức Phật nói trong kinh Vô Lượng Thọ về
sự trang nghiêm, thanh tịnh, bình đẳng và
sự giác ngộ,
theo tông phái Ðại Thừa.
---o0o---
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục