Tính Luân Lý Của
Việc Tạo Sinh
Phó Tế Nguyễn Văn
Tâm, DCCT
1. Dữ kiện
Phương pháp thụ tinh nhân tạo đã
có từ năm 1776 do tu sĩ Lazzaro Spallanzani (1729 - 1799) áp dụng cho
thú vật và đã thành công mỹ mãn. Thế kỷ 19 và 20 đã áp dụng rộng rãi
phương pháp thụ tinh nhân tạo. Ngày nay, ở Mỹ có 95% súc vật được thụ
tinh nhân tạo. Nhưng, công nghệ sinh sản chỉ thực sự bắt đầu phát triển
từ năm 1950 khi khoa học thành công trong việc làm đông lạnh tinh dịch
bò đực ở 79oC để thụ tinh với bò cái. Rồi đến ngày 26.7.1978, tại Anh
Quốc, khoa học tiếp tục thành công khi cho ra đời đứa bé đầu tiên của
thế giới mang tên Louise Brown từ phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm.
Tới năm 1990 đã có tới 15.000 trẻ được sinh ra theo phương pháp này.
Tại Việt nam, ngày 19.8.1997, Bộ Y
tế Việt Nam đã có quyết định chính thức cho phép bệnh viện Phụ Sản Từ
Dũ, phối hợp với bệnh viện Archet 2 ở Nice - Pháp, thực hiện công nghệ
thụ tinh trong ống nghiệm cho những cặp vợ chồng hiếm muộn. Lúc bấy giờ,
tuy có hàng ngàn người gởi thư đến bệnh viện Phụ sản với sự mong mỏi có
được một đứa con, nhưng Bệnh viện chỉ mới bước đầu nhận khoảng 100 cặp
vợ chồng để theo dõi và áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Và
20 năm sau khi đứa bé Louise Brown sinh ra, thì tại Bệnh viện Từ Dũ,
Sài-gòn, ngày 30.4.1998, ba em bé đầu tiên cũng đã chào đời theo phương
pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Tính đến tháng 11.2001, tại Bệnh viện
Phụ sản Từ Dũ đã có 414 em bé được sinh ra theo phương pháp này.
Nhưng, năm 1997 là một có䴠mốc mà
nghành y-sinh học đã gây chấn động và làm bàng hoàng cả thế giới qua một
bản tin, đó là vào ngày 24.12.1997, tiến sĩ Ian Wilmut của Viện Nghiên
Cứu Khoa Học Roslin thuộc Ai-len, công bố trên tờ báo Nature một bản tin
dật gân: Một con cừu bảy tháng tuổi có cơ cấu sinh học giống hệt một con
cừu khác, đã được tạo ra và nuôi dưỡng bằng phương pháp sinh sản vô tính
(Cloning).
Phương pháp mà các khoa học gia đã
thực hiện tạo sinh vô tính được tiến hành qua 5 giai đoạn:
1. Lấy tế bào từ tuyến vú của một
con cừu cái có tên là Finn Dorset để nuôi sống trong một ống nghiệm.
2. Lấy trứng của một con cừu cái
khác có tên là Blackface, rút bỏ nhiễm sắc thể di truyền (AND) để biến
cái trứng đó thành một trứng trống rỗng.
3. Bằng xung điện kết hợp tế bào
của Finn Dorset và trứng rỗng của Blackface để thành một phôi thai.
4. Cấy phôi thai này vào tử cung
của một con cừu cái thứ ba.
5. Con cừu cái này mang thai và đẻ
ra một con cừu con giống hệt cừu mẹ Finn Dorset.
Con cừu con được tạo sinh ra bằng
phương pháp sinh sản vô tính có tên là Dolly, đúng là tên của cô ca sĩ
nhạc đồng quê của Mỹ, Dolly Parton. Tiến sĩ Wilmut cho biết trong 23
năm, với 277 lần thí nghiệm, ông đã tạo được 29 phôi sống được hơn sáu
ngày rồi bị chết. Duy nhất có con cừu Dolly được sinh ra. Ông nói rằng
nếu pháp luật cho phép, bằng bất cứ tế bào nào của cơ thể con người như
từ máu, da, thịt, phèo, phổi, tim, gan... phương pháp sinh sản vô tính
có thể tạo ra những con người như bản sao của chính mình, và có khả năng
tạo ra hàng loạt theo ý muốn. Những tế bào còn tốt của những xác ướp có
thể được nhân bản và làm tái xuất hiện những vua chúa tiền nhân.
Tiếp theo, điều đáng chú ý nhất là
ngày 25.11.2001, một công ty tư nhân, gọi là Advanced Cell Technology có
trụ sở ở tiểu bang Massachusetts - Hoa Kỳ, tuyên bố trên truyền hình là
họ mới thực hiện phương pháp sinh sản vô tính một phôi người đầu tiên
(the first human embryo). Ðiều này đã gây một chấn động trên thế giới,
gồm cả đời lẫn đạo. Ngay lập tức, Tòa Thánh Vatican, và Ðức Thánh Cha
Gio-an Phao-lô II đã lên tiếng chỉ trích và cảnh báo việc làm thiếu tính
cách đạo đức của công ty nói trên. Tất cả các sứ điệp trên được ghi lại
đầy đủ trong bản tin của Zenith News, phát hành hôm 26.11.2001 - số
ZE01112602 và ZE01112606.
2. Những phản
ứng của thế giới
Khi con cừu ra đời bằng phương
pháp vô tính, thế giới đã có những phản ứng khi lo ngại người ta sẽ áp
dụng phương pháp sinh sản vô tính cho con người. Ngày 11.3.1997, Hội
Ðồng Âu Châu đề nghị các Bộ trưởng Ngoại Giao trong khối sớm đưa ra văn
bản cấm sinh sản vô tính. Văn bản này là phụ bản kèm theo Công Ước Âu
Châu về quyền con người sinh-y-học và được ký chính thức ngày 4.4.1997
tại Tây Ban Nha.
Tổ chức Y Tế Thế Giới WHO lên án
và xem xét lại vấn đề này vào ngày 25.4.1997 nhân dịp họp tại Genève.
Trong tờ Nouvel Observateur ra
ngày 12.3.1997, Giáo sư Jean Fz. Mattei là nhà di truyền học thuộc Ủy
Ban Ðạo Ðức của Pháp đã phát biểu rằng: "Ðiều kỳ diệu là một khi người
ta càng đi sâu vào lãnh vực nguyên tử, sinh học, di truyền học của loài
người, thì lại càng sáng tỏ hơn một chân lý rằng con người không phải là
một hệ thống máy móc. Khi người ta thay đổi một quả tim, một đôi mắt, bộ
ngực,... thì vẫn không đụng chạm đến nhân tính. Nhân tính kỹ thuật không
thể dập tắt, thay đổi hay nhân ra hàng loạt được. Nhân loại là cái gì
còn lại sau khi đã loại bỏ hết những gì thấy được, thay đổi được"
Trả lời câu hỏi: "Vì đâu con người
sợ hãi những bản sao?", giáo sư Mattei nói: "Tôi nghĩ rằng không thể cấm
đoán một kỹ thuật như vậy. Các bộ luật làm ra vì mục đích lâu dài, còn
kỹ thuật thì phát triển không ngừng. Cho ra đời các điều luật chỉ để
chữa cháy thì không cần thiết. Ðiều cần làm ngay là ngăn chặn những nguy
cơ lạm dụng công nghệ. Nhân bản ra hàng loạt hoàn toàn trái với quan
niệm của tôi và vấn đề nhân cách". Hãng tin CNN đã thăm dò ý kiến trong
số 1005 người thì chỉ có 7% đồng ý cho áp dụng sinh sản vô tính cho con
người; 91% không đồng ý; 19% cho rằng phương pháp này không trái ý Chúa;
74% cho là trái ý Chúa.
Tờ Time, số phát hành ngày
19.2.2001 nói rằng hiện nay, ý kiến chung ở Hoa kỳ không tán thành việc
phát triển dòng vô tính. Mới đây, một cuộc trưng cầu dân ý cho thấy rằng
90% những người trả lời cho rằng phát triển dòng vô tính là một ý kiến
sai lầm. Theo thông tấn AFP, ngày 12.3.1997 đã xảy ra cuộc tranh cãi về
việc sinh trai hay gái theo ý muốn, do bác sĩ Rainsbusy chủ trương, bảo
đảm 100% với giá cả 16.000 USD. Người ta đã lên án bác sĩ này là hạng
người vô đạo đức, hạng người đốt nhà thờ, làm mất sự quân bình phái tính
và cướp quyền của Ðấng Tạo Hoá.
Tờ New York Times cũng nghiên cứu
vấn đề này trong số ra ngày 25.3.2001 và theo bác sĩ Brigid Hogan, một
giáo sư về sinh học tế bào thuộc Trung Tâm Y Khoa Ðại Học Vanderbilt ở
Nashville, bang Tennessee và là một điều tra viên của Viện Y tế Howard
Hughes thuộc Hoa Kỳ, thì "đứng về phương diện đạo đức học, chúng ta
không thể nào bênh vực được cho phát triển dòng vô tính con người trong
hoàn cảnh hiện nay."
Tờ Guardian tường thuật hôm
29.3.2001 rằng một khoa học gia khác, ông Ivan Wilmut, nhân vật hậu
thuẫn cho cuộc phát sinh con cừu Dolly bằng dòng vô tính, đã lên án việc
áp dụng dòng vô tính trên con người vì tỷ số thất bại rất cao khi áp
dụng trên súc vật. Ông Wilmut nói: "Thật là vô cùng thô bạo đối với các
bà mẹ và con của họ". Trong một bài đăng trên tập san Science ở Hoa-kỳ,
Ông Welmut tố cáo dự định ứng dụng phát triển dòng vô tính trên con
người của những chuyên gia về hiếm muộn Ý là Antinori và Hoa-kỳ là
Zavos. Ông Wilmut cảnh cáo rằng, bốn năm thử nghiệm trên súc vật đã cho
thấy kỹ thuật phát triển dòng vô tính còn có nhiều thiếu sót gây nên một
số sẩy thai và tật bẩm sinh khổng lồ và không có lý do nào để tin rằng
hậu quả của phát triển dòng vô tính trên con người sẽ khá hơn.
Ông Daniel Callahan, sáng lập viên
Trung Tâm Sinh Ðạo Ðức Học đầu tiên ở New York vào thập niên 1960, đã
khuyến cáo: "Mọi kỹ thuật can thiệp vào vi tử đều liên hệ đến luân lý
đạo đức. Việc sản sinh vô tính tế bào gốc lấy từ bào thai xem như là quả
bom nguyên tử... Vì thế, nghiên cứu trong vòng luân lý đạo đức đáng được
kính trọng. Nhưng, những cuộc nghiên cứu tìm cách tránh né khía cánh đạo
đức luân lý, hứa suông những điều tốt đẹp, thì không đáng cho chúng ta
kính trọng. Mọi nghiên cứu về con người dù là ở giai đoạn nào, bào thai,
sơ sinh hay người lớn, bắt buộc chúng ta phải xem xét và đối xử con
người như một nhân vị, tôn trọng phẩm giá và nhân quyền của nó"
Tại nước Ðức, ngày 30.11.2001,
nhiều đại diện chính phủ Ðức đã lên tiếng phản đối việc thử nghiệm tạo
phôi thai người bằng nhân bản vô tính của Viện Công Nghệ Sinh Học ACT
của Mỹ, đứng đầu là bà Edelgard Bulmahn, Bộ trưởng bộ nghiên cứu liên
bang Ðức. Hiện nay, ở Ðức đã có đạo luật cấm tất cả các hình thức nhân
bản tế bào phôi, kể cả việc nhập các tế bào phôi thai phục vụ y học và
nghiên cứu khoa học.
Tại Ca-na-đa, ngày 4.2.2002, Viện
nghiên cứu y tế Ca-na-đa đã công bố những qui định mới cấm nhân bản vô
tính phôi người. Qui định mới cũng cấm các nhà khoa học Ca-na-đa nhân
bản phôi người hoặc tạo ra các phôi trong phòng thí nghiệm với mục đích
nghiên cứu. Tuy nhiên, qui định mới lại cho phép sử dụng những tế bào
phôi người đã có sẵn và những phôi bị loại bỏ để nghiên cứu tế bào mầm,
nhưng với điều kiện là phải được sự đồng ý của cha mẹ phôi thai.
Việc tổng thống Mỹ, George W.
Bush, bằng lòng thỏa thuận cho phép sử dụng ngân quỹ liên bang để tài
trợ cho việc nghiên cứu hơn 60 kiểu tế bào gốc khác nhau đã được thâu
hoạch từ các phôi (embryos), do phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm
(IVF). Mục đích nguyên thủy của các chuyên gia khi tạo nên các phôi này,
là nhằm để cấy cho các cặp vợ chồng hiếm muộn muốn có con, nhưng vì còn
số phôi sản xuất quá nhiều nên đã trở thành thặng dư, và đã được đông
lạnh trong một thời gian lâu dài, do đó đã được các chuyên gia nơi phòng
thí nghiệm quyết định sử dụng để lấy các tế bào gốc, thuộc nhiều loại
khác nhau. Nhưng quyết định của tổng thống Bush đã gây nên một sự bất
bình trầm trọng giữa Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ và Vị Nguyên thủ quốc
gia, được các cử tri Công Giáo phần đông ủng hộ trước đi đắc cử. Ðại
diện cho Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ, Ðức giám mục Joseph Fiorenza, thuộc
Tổng Giáo Phận Galveston-Houston, Chủ tịch Hội Ðồng Giám Mục Hoa Kỳ, đã
phát biểu như sau:
"Lần đầu tiên trong lịch sử của
đất nước Hoa Kỳ, chính phủ liên bang đồng ý ủng hộ việc nghiên cứu, mà
hệ quả của nó là việc hủy diệt những con người vô phương kháng cự, nhằm
mục đích đem lại lợi ích cho kẻ khác. Quyết định này cho phép các công
ty, các dịch vụ nghiên cứu tư nhân tại quốc gia của chúng ta, gia tăng
phát triển sự bất kính đối với sự sống con người. Cho nên, chúng tôi cầu
nguyện và hy vọng rằng tổng thống Bush sẽ trở về lại với nguyên tắc
chính trực, nhằm chống lại những cách thức hành xử coi sự sống con người
không hơn gì những vật thể, có thể được tận dụng cho các mục đích nghiên
cứu và sau đó thì bị hủy diệt".
Tại Nước Anh, ngày 20.6.2001, Hội
Khoa Học Hoàng Gia Anh Quốc đã đưa ra lời kêu gọi rằng chỉ có sách lược
bãi bỏ hoàn toàn dòng sinh vô tính (cloning) trên khắp thế giới mới ngăn
cản được việc tạo sinh ra trẻ em theo dòng vô tính mà thôi. Dựa vào
những thí nghiệm được trình bày cho Ủy Ban Thượng Viện Quý Tộc House Of
Lords về nghiên cứu tế bào, Hội Hoàng Gia nói rằng: "Cần có sự bài trừ
cấm cản trên bình diện quốc tế mới là cách giảm thiểu cơ hội cho những
cuộc thí nghiệm tạo sinh dòng vô tính tại các quốc gia khác".Tuy nhiên,
Hội Hoàng Gia cũng nói trong bản tường trình rằng việc cấm đoán này dành
đặc quyền miễn trừ cho phép thí nghiệm nghiên cứu trị liệu gọi là
"therapeutic cloning", có nghĩa là tạo sinh dòng vô tính những phôi
thai, rồi giết đi trước khi phôi thai hoàn toàn phát triển, nhằm lấy tế
bào gốc đó dùng cho việc trị liệu thay bộ phận. Về điểm này, các tổ chức
phò sự sống như các nhóm Công Giáo cũng kịch liệt lên án và chống đối.
Giáo sư Richard Gardner, là người
đứng đầu Hội Hoàng Gia Royal Society soạn bản tường trình nêu trên, nói
rằng: "Kinh nghiệm của chúng tôi với loài vật cho thấy hiện rõ ràng có
nguy cơ trầm trọng tạo nên những cá nhân tàn tật bất toàn nếu có ai đó
muốn cấy bào thai dòng sinh vô tính vào trong lòng bà mẹ cho phát
triển". Và ông còn cảnh cáo rằng: "Tiến trình thụ thai theo dòng sinh vô
tính thì thực là niềm mong đợi không thực tế chút nào... Thành quả của
tạo sinh vô tính không bao giờ có thể thay thế con người được cưu mang
trong tình yêu tự nhiên được cả". Bác sĩ nói thêm: "Ðang khi tạo vật do
dòng sinh vô tính về thể lý có thể rất giống với bản mẫu, thế nhưng hai
đương sự này sẽ khác biệt ít nhất là không như hai người sinh đôi đồng
dạng, trên bình diện cá nhân và những đặc tính về tâm thần"
Cũng tại Anh Quốc, ngày
22.11.2001, Bộ trưởng Y tế Anh, Alan Milburn, đã công bố dự luật mang
tên "Ðạo luật sinh sản vô tính người, cấm việc cấy ghép vào cơ thể người
phụ nữ những tế bào phôi được tạo bởi các phương pháp ngoài thụ tinh.
Người nào vi phạm có thể chịu mức án cao nhất tới 10 năm tù giam".
Mục sư Tin Lành Allen Verhey quan
ngại rằng rồi ra cha mẹ có cảm giác con cái họ là những sản phẩm được
chế tạo ra như hàng hoá. Quan hệ cha mẹ và con cái sẽ mất đi tính thiêng
liêng.
Học giả Donald Lopez Phật Giáo đặt
ra nghi vấn về ảnh hưởng của sinh sản vô tính trong tương quan với
thuyết luân hồi. Bởi vì, con người kiếp trước và con người kiếp sau
giống hệt nhau thì hết đầu thai và thưởng phạt của Thượng Ðế ra sao?
Học giả Sachedia, Hồi Giáo, lo
ngại về sự sinh sản này tách rời khỏi quan hệ giới tính thì không cần
hôn nhân nữa mà vẫn có cho ra đời hàng loạt người giống nhau như đúc.
Phó Tế Nguyễn Văn Tâm, DCCT
(Trích dẫn từ Ephata Việt Nam
số 77 năm 2002)
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục