Vòng Luân hồi
Tỳ kheo Khantipalo (1970)
Phạm Kim Khánh dịch (1994)
Nguyên tác: "The Wheel of
Birth and Death", Phra Khantipalo,
Wheel Publication Series No. 147-149, BPS, 1970
---o0o---
Đây
quả thật là lời dạy của Đức Thế Tôn:
Hai
pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể
hiểu biết phải được tận diệt: vô minh và ái dục; hai pháp có thể hiểu
biết phải được chứng ngộ: trí tuệ và giải thoát; hai pháp có thể hiểu
biết phải được phát triển: vắng lặng và minh sát.
Nền
tảng của vô minh có tám:
Không
hiểu biết sự khổ; không hiểu biết sự phát sanh của khổ; không hiểu biết
sự chấm dứt của khổ; không hiểu biết pháp hành dẫn đến sự chấm dứt khổ;
không hiểu biết dĩ vãng; không hiểu biết vị lai; không hiểu biết dĩ vãng
và vị lai; không hiểu biết pháp Tùy Thuộc Phát Sanh (Thập nhị Nhân
Duyên).
Nền
tảng của tuệ giác có tám:
Hiểu
biết sự khổ; hiểu biết sự phát sanh của khổ; hiểu biết sự chấm dứt của
khổ; hiểu biết pháp hành dẫn đến sự chấm dứt khổ; hiểu biết dĩ vãng;
hiểu biết vị lai; hiểu biết dĩ vãng và vị lai; hiểu biết pháp Tùy Thuộc
Phát Sanh (Thập nhị Nhân Duyên).
Thanh
bình thay, tuyệt hảo thay, sự dập tắt mọi điều kiện, sự tách rời ra khỏi
mọi nền tảng vật chất (để tái sanh), sự tận trừ ái dục, trạng thái không
dục vọng, chấm dứt, Niết bàn.
Này chư
Tỳ khưu, có cảnh giới ấy không đất, cũng không có gió, lửa, cũng không
có vô biên xứ, không có thức vô biên xứ, không vô sở hữu xứ, cũng không
có phi tưởng phi phi tưởng. Không thế gian này hay thế gian khác, không
mặt trăng cũng không có mặt trời.
Cảnh
giới ấy, này chư Tỳ khưu, Như Lai tuyên ngôn, quả thật không có đến,
không có đi, không có ở, không viên tịch, không phát sanh, không gì nâng
đỡ, không di chuyển, không đối tượng -- đó quả thật là chấm dứt đau khổ.
Và pháp
này quả thật thâm diệu, khó thấy, khó lãnh hội, thanh bình, tuyệt hảo,
ngoài phạm vi luận lý, tế nhị, và để cho bậc thiện trí chứng ngộ.
--
Bản dịch từ Tập Kinh Tụng Hoàng Gia (The Royal Chanting Book - Suatmon
Chabub Luang), do Ngài Sa Pussadevo,
Sải Vương thứ 9 nước Siam, sưu tập và được nhà xuất bản
Mahamakut, Bangkok, ấn hành.
LỜI MỞ ĐẦU
^
Hơn hai ngàn năm trăm năm về trước, trong
ngày trăng tròn tháng Visàkha, có một đạo sĩ du phương tên Gotama (Cồ
Đàm), vốn là Hoàng Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta), đông cung thái tử của
triều đại Sakỳa (Thích Ca), đã tự mình chứng ngộ và trở nên Toàn Giác do
công phu minh sát trọn vẹn và đầy đủ Chân Lý gọi là Pháp (Dharmma), tức
danh, phần tâm linh, và sắc, cơ thể vật chất này.
Sự giác ngộ, hay thức tỉnh của Ngài, gọi là
Chánh Biến Tri, đã tiêu trừ vô minh và ái dục, đã dập tắt tham ái, sân
hận, si mê, trong tâm, và làm cho "nhãn kích phát sanh, tri kiến siêu
phàm phát sanh, trí tuệ phát sanh, sự khám phá phát sanh, ánh sáng phát
sanh". Một công trình minh sát trọn vẹn và thấu đáo đi sâu vào danh và
sắc, nguồn gốc của danh-sắc, sự chấm dứt danh-sắc, và con đường dẫn đến
sự chấm dứt danh-sắc ấy. Và đó là thông suốt trọn vẹn và thấu đáo thế
gian, sự chấm dứt thế gian, và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian.
Sau bao nhiêu năm trường kiên trì cố gắng và trong suốt đêm chú tâm minh
sát, từ một người đi tìm chân lý Ngài trở thành "Người Hiểu Biết",
"Người Chứng Ngộ".
Về sau, khi có cơ hội giải thích sự khám phá
vĩ đại ấy, Ngài trình bày bằng nhiều phương cách khác nhau để cho mỗi
người nghe đều có thể lãnh hội. Và như thế, để giúp cho mỗi người, tùy
căn cơ và trình độ hiểu biết của mình, có thể đặt nhẹ gánh xuống bên
đường. Với trí tuệ siêu phàm Ngài thông suốt tận tường những gánh nặng
ấy là gì, mặc dầu lắm khi chính người mang gánh nặng trên vai lại không
hiểu biết gì về gánh nặng ấy, với tâm bi mẫn vô lượng, Ngài truyền dạy
Giáo Pháp cho những ai muốn bỏ gánh nặng xuống. Những gánh nặng mà con
người – đúng ra là tất cả chúng sanh – phải khuân vác quanh quẩn theo
mình ngày nay không có gì khác biệt với những gánh nặng của người ở vào
thời của Đức Phật. Bởi vì trong hiện tại cũng như vào lúc thời bấy giờ,
con người vẫn bị ái dục và vô minh đè nặng trĩu trên vai. Con người
không thấu đạt Tứ Diệu Đế và Thập Nhị Nhân Duyên, con người bám bíu, đeo
níu theo núi lửa và thuốc độc của ngày nay cũng như thuở nào, và con
người bị lo âu sợ sệt làm tiêu mòn, sụp đổ. Đức Thế Tôn, người đã thành
đạt mức châu toàn, dạy rằng:
"Thâm diệu thay, này Ànanda, pháp Thập Nhị
Nhân Duyên, pháp này quả thật thâm diệu. Vì không thông suốt và thấu
triệt Định Luật này, thế gian tựa hồ như một cuộn chỉ rối, một ổ chim,
một bụi tre rậm, một đám lát, vì không thông suốt và thấu triệt Định
Luật này, con người không thoát khỏi đời sống ở những cảnh giới thấp
hèn, không thoát khỏi trạng thái đau khổ và tuyệt vọng, và mãi mãi khổ
đau trong vòng luân hồi."
Tình trạng không thông suốt định luật Tùy
Thuộc Phát Sanh (Thập Nhị Nhân Duyên) là nguyên nhân của mọi phiền não
mà tất cả chúng sanh phải chịu. Đó là công thức quan trọng nhất mà sự
giác ngộ của Đức Phật đã trình bày một cách chính xác. Vậy đối với người
Phật tử, là phải nhìn thẳng vào trung tâm của pháp này. Đây là việc làm
tối quan trọng, tối cần thiết. Và nhìn vào, không phải bằng cách đọc
sách, đọc kinh, hay bằng cách trở thành một chuyên viên nghiên cứu về
Tam Tạng, và cũng không phải bằng cách tranh luận giữa quan niệm của
mình và kẻ khác, mà phải là quan sát và thấy rõ sự Tùy-Thuộc-Phát-Sanh
trong đời sống của chính mình, phải bám sát vào pháp gom tâm vắng lặng
và minh sát trong "danh" và "sắc" của chính mình.
"Người nào mà thấy pháp Tùy Thuộc Phát
Sanh, là người ấy thấy Giáo Pháp."
Bây giờ, hãy nhìn xem giáo huấn này liên quan
đến đời sống của chúng ta như thế nào? Dầu ở trong trạng thái hay cảnh
giới nào -- người hay không phải người – tất cả chúng sanh đều mưu tìm
hạnh phúc. Nhưng điều quan trọng cần phải biết là: yếu tố nào đem lại
đau khổ, để lẫn tránh, và yếu tố nào đem lại hạnh phúc, để cố gắng phát
triển và trau giồi. Đó là lập lại Tứ Diệu Đế bằng một lối khác. Đoạn đầu
của câu trên đề cập đến đau khổ, cái gì không bao giờ toại nguyện, mà
trong tiếng Phạn gọi là dukkha.
Dukkha (khổ) này là
Chân Lý Thâm Diệu (Diệu Đế) đầu tiên mà chúng ta kinh nghiệm một cách
liên tục, từng giây từng phút, nhưng thường thì chúng ta không ghi nhận
và không hay biết được. Và điều này – không ghi nhận và không hay biết –
không làm cho dukkha suy giảm chút nào! Trước tiên, có những đau
khổ phát sanh tùy cơ hội, như sanh, bệnh, lão, tử, vì những diễn biến
này không bao gồm trọn vẹn đời sống. Kế đó có những đau khổ thường
xuyên, như phải kết hợp với người mà ta không ưa thích, xa lìa người hay
vật hay hoàn cảnh mà ta ưa thích, không thành đạt những gì mong muốn. Và
đó là những việc thường xảy ra hằng ngày. Cuối cùng, để tóm lược, có sự
đau khổ liên tục, bao hàm tất cả các loại đau khổ (dukkha): đó là
ngũ uẩn thủ, tức chấp thủ vào năm nhóm: cơ thể vật chất (sắc), cảm giác
(thọ), tri giác (tưởng), sanh hoạt của tâm (hành) và thức. Đó là năm yếu
tố cấu thành chúng sanh. Nếu phải giải thích đầy đủ ở đây sợ e quá dài,
tuy nhiên, mỗi người đọc đều có thể được cung ứng dồi dào các loại đau
khổ ấy trong chính bản thân mình. Mỗi người phải tự chính mình, nhìn và
quan sát, nhận thức xem những gì mình đã kinh nghiệm trong đời sống có
đáng được thỏa thích hay không. Pháp này phải được "thông suốt trọn vẹn"
trong chính bản thân và trong chính đời sống của mình, nơi mà Diệu Đế
đầu tiên phải được khám phá.
Kế đó là những yếu tố đem lại sự bất toại
nguyện, đau khổ, tức không-hạnh phúc. Nơi đây cũng vậy, con người và đời
sống phải được quan sát thận trọng. Khi có những chúng sanh bị tôi sát
hại, khi tôi lấy một vật gì chưa được cho, khi tôi có hành động tà dâm,
khi tôi nói lời giả dối, khi tôi dùng những chất độc làm cho tâm trở
thành dễ duôi, bất cẩn, phóng dật – đó là những yếu tố đem lại hạnh phúc
hay bất toại nguyện? Khi tôi đem lòng tham muốn vật sở hữu của kẻ khác,
khi tôi để tâm chứa chấp những ý tưởng oán ghét, hận thù, khi vô minh,
tà kiến, và những quan kiến sai lầm khác làm chủ tâm tôi – đó là những
yếu tố đem lại an lành hay hoại diệt cho tôi? Có rất nhiều phương cách
để diễn tả các yếu tố tai hại ấy, nhưng tất cả đều bắt nguồn từ vô minh
và ái dục. Và vô minh và ái dục cũng chỉ là hai khía cạnh của mỗi một
việc. Đó là Diệu Đế thứ nhì, đề cập đến nguồn gốc hay sự Phát Sanh của
dukkha, đau khổ, bất toại nguyện. Khi ái dục hoạt động, khi vô minh
bao trùm sự hiểu biết của ta như đám mây mờ, lúc ấy chắc chắn chúng ta
đang kinh nghiệm đau khổ. Vì lợi ích cho ta và cho kẻ khác, lời giáo
huấn của Đấng Từ Phụ là ái dục ấy "phải được diệt tận".
Phần nhì của câu được nêu trên đề cập đến
hạnh phúc. Có nhiều loại hạnh phúc. Hai loại tùy thuộc điều kiện, được
chứng nghiệm đó đây trong thế gian và loại thứ ba, không tùy thuộc điều
kiện, không do điều kiện nào nâng đỡ hay hỗ trợ, "phải được chứng ngộ".
Tất cả chúng ta đều mưu tìm hạnh phúc. Vậy, hãy tìm xem ta phải cần
những gì? Đầu tiên, có loại hạnh phúc do vật chất tạo nên, phát sanh từ
quyền sở hữu và việc khéo xử dụng thủ đoạn với những điều kiện của cuộc
sống "ngoài đời". Loại hạnh phúc này, được gọi là àmisa sukha, quả thật
bấp bênh, không có gì chắc chắn vững bền, bởi vì tất cả những yếu tố
nâng đỡ, hỗ trợ nó đều tạm bợ và biến đổi không ngừng. Lại nữa, nó nằm ở
nơi thế tục, ở ngoại cảnh, chớ không phải ở trong tâm ta và như vậy, cần
phải có tài năng xảo quyệt kỳ diệu mới cứu ta thoát khỏi dukkha,
đau khổ. Và chúng ta không thể tránh khỏi những thất bại, thất vọng, bất
mãn, nếu cứ mãi mãi chạy theo loại hạnh phúc vật chất ấy. Đó là loại
hạnh phúc ngắn ngủi, nhất thời. Trên một tầng lớp cao thượng hơn nhiều
là hạnh phúc đến với ta bằng cách thực hành Giáo Pháp, được gọi là hạnh
phúc phi-vật-chất hay niràmisa-sukha, hạnh phúc tinh thần đạo đức. Hạnh
phúc này phát sanh đến người tạo đầy đủ mười thiện pháp là: bố thí, trì
giới, hành thiền, tôn kính bậc trưởng thượng, tạo công đức phục vụ, hồi
hướng phước báo đến người khác, nghe Giáo Pháp, dạy Giáo Pháp, và củng
cố quan kiến theo chánh pháp. Người thực hành Giáo Pháp này, thanh lọc
tâm như vậy, chắc chắn sẽ gặt hái hạnh phúc. Tuy nhiên, ta không thể mãi
mãi ỷ lại vào loại hạnh phúc này mặc dầu nó vững bền và cao thượng hơn
loại trước nhiều. Do quả báo của nó ta có thể hưởng một kiếp sống thật
lâu dài, nhàn nhã, giữa những vị Trời, hay sanh làm người có thật nhiều
may mắn. Nhưng, dầu ở cảnh Trời, dầu có được tuổi thọ thật dài đi nữa,
rồi cũng phải mạng chung, khỏi cần đề cập đến cảnh người. Vả lại, những
hậu quả của nghiệp, dầu tốt hay xấu, đều là vô thường, nghĩa là luôn
luôn biến đổi.
Như vậy ta không thể ỷ lại vào những quả ấy
để mưu tìm hạnh phúc thường còn, không biến đổi. Muốn có hạnh phúc
trường cửu phải tận diệt trọn vẹn nguồn gốc của dukkha, đau khổ.
Khi ái dục đã bị tiêu trừ tận căn cội, đau khổ không còn phát sanh được
nữa. Trái lại, nhờ trong sạch, từ bi và trí tuệ, ta đạt đến hạnh phúc
tối thượng của Niết Bàn, bền vững, không thể hoại diệt, không thể biến
đổi. Đó là Diệu Đế thứ ba, sự chấm dứt đau khổ, bằng cách diệt trừ nguồn
gốc của nó. Để thành đạt cái "cần phải được chứng ngộ" ấy có nhiều việc
phải làm, và những việc phải làm ấy phải theo một đường lối chân chánh,
do đó, Diệu Đế thứ tư, Đạo Đế. Đế này được gọi là Chân Lý của Con Đường,
và Con Đường này "phải được phát triển".
Con Đường gồm những thành phần của trí tuệ:
chánh kiến, chánh tư duy; những thành phần của giới đức: chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng; và những thành phần của pháp hành thiền định:
chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Nơi đây sẽ không giải thích
những thành phần này. Người thực hành Giới, Định, Tuệ chắc chắn sẽ có
những điều kiện để duy trì hạnh phúc. Nhờ thực hành như vậy hành giả có
thể đạt đến hạnh phúc tinh thần đạo đức gọi là hạnh phúc của Giáo Pháp,
hoặc hạnh phúc Tối Thượng, tùy theo mức độ tiến triển. Muốn thành đạt
hạnh phúc Niết Bàn cần phải gia công cố gắng thật nhiều để phát triển cả
hai lối thiền, thiền vắng lặng (samatha) và thiền minh sát (vipassanà).
Tứ Diệu Đế, hay bốn Chân Lý Thâm Diệu ấy –
khổ, nguyên nhân sanh khổ, diệt khổ, và con đường diệt khổ - là trung
tâm của Giáo Pháp, phải nằm trong lòng của mỗi ai muốn nhận thấy. Do
nhận thấy và hiểu biết thấu đáo Tứ Diệu Đế, hạnh phúc sẽ đến, nhưng cố
tìm cách lẩn tránh thì đau khổ sẽ phát sanh.
Bốn Chân Lý ấy, trình bày trong công thức
"Tùy Thuộc Phát Sanh", đã được giải thích bằng nhiều phương cách. Hình
thức giản dị nhất là:
"Có ái dục tức có đau khổ. Do sự phát sanh
của ái dục, đau khổ phát sanh.
Không có ái dục tức không có đau khổ. Do sự chấm dứt ái dục, đau khổ
chấm dứt."
Tuy nhiên, có thể giải thích dông dài và đầy
đủ hơn. Nguyên tắc quan trọng để thấu hiểu rõ ràng pháp Thập Nhị Nhân
Duyên, hay Phát Sanh Tùy Thuộc, là nhận định rằng tất cả những gì mà ta
chứng nghiệm đều do điều kiện phát sanh (duyên sanh). Hãy lấy thân này
làm thí dụ. Từ lúc mới lọt lòng mẹ là một trẻ sơ sinh, rồi dần dần lớn
lên, phát triển dần những đặc tánh để trở nên thuần thục cho đến khi bị
tuổi già bám vào, làm cho cơ thể tàn phế, cách này hay cách khác, và
cuối cùng, chết. Tiến trình điều hành sự trưởng thành và tàn lụi thật vô
cùng phức tạp và tương quan chằng chịt với nhau. Muốn giữ thân được trọn
vẹn, tối thiểu cần phải có y phục, thức ăn, chỗ ở và thuốc men. Nhưng
một khi những phản ứng hóa học bên trong (cũng phải tùy thuộc phát sanh)
bắt đầu tiến trình, dẫn đến tuổi già và hoại diệt, không có điều kiện hỗ
trợ nào từ bên ngoài có thể giúp gì hơn là làm cho tiến trình ấy chậm
trễ đôi chút. Cơ thể vật chất này, xem như một đơn vị, không thể phát
sanh từ không-nguyên-nhân (những tinh trùng vật chất là nguyên nhân trực
tiếp), cũng không thể phát sanh từ một nguyên nhân duy nhất. Quan sát tỉ
mỉ và tận tường, không có gì ta chứng nghiệm mà phát sanh từ một nguyên
nhân duy nhất hay không nguyên nhân. Trái lại, những gì ta thọ cảm đều
chằng chịt tùy thuộc lẫn nhau. Như sự thấy của ta chẳng hạn, phải tùy
thuộc ở nhãn căn, tức mắt, nhãn trần, tức vật để thấy, đối tượng của sự
thấy và hoạt động của nhãn thức, (ngoài ra còn có những yếu tố khác góp
phần vào như ánh sáng, không khí v.v…). Tương tự như sự thấy ấy, tai, âm
thanh, nhĩ thức; mũi, mùi và tỉ thức; lưỡi, vị và thiệt thức; thân, xúc
và thân thức; và tâm hay ý, tư tưởng, hay pháp, và ý thức. Tất cả những
gì ta thọ cảm đều nằm trong mười tám nguyên tố (hay giới) ấy, và ngoài
các nguyên tố ấy ta không còn biết gì khác.
Điều quan trọng cần nên nhận thức là phần lớn
những gì ta thọ cảm đều phát sanh tùy thuộc lẫn nhau và đều là hậu quả
của hành động nào chính ta đã làm trong quá khứ. Hạnh phúc mà ta hưởng
hay đau khổ mà ta chịu, mặc dầu đến với ta do những diễn biến của thế
gian vật chất bên ngoài (như động đất, bão, lụt, trời mưa, trời nắng
v.v…) vẫn thường phát sanh do những hành động có tác ý (nghiệp) của ta
trong quá khứ. Và trong hiện tại, với mỗi hành động có ý thức, ta đang
tạo nghiệp mới. Nghiệp này sẽ phối hợp với nghiệp sẵn có để đem lại quả
mà ta sẽ gặt hái trong tương lai. Như vậy, muốn thọ cảm hạnh phúc, muốn
gặt hái quả ngọt, ta phải gieo trồng từ bây giờ những hột giống tốt. Cây
có thể cho trái tức khắc, trong kiếp sống hiện tại, hay trong một kiếp
sống tương lai. Ta làm ra ta. Ta là người tạo ra ta, không có bàn tay
nào của ai khác. Và đấng Thần Linh Tạo Hóa không phải ai khác hơn là Vô
Minh, hay sự không hiểu biết. Vô Minh là đấng Tạo Hóa đã tạo nên bánh xe
luân hồi và những hình thức liên tục và khác nhau vô cùng tận của sự đau
khổ. Đấng Tạo Hóa ấy ngự trong tâm của tất cả những ai còn được gọi là
"phàm nhân", những chúng sanh trong tam giới (Dục, Sắc và Vô Sắc Giới).
Chúng ta sẽ trở lại vấn đề với nhiều chi tiết hơn.
LỊCH SỬ CỦA
BÁNH XE LUÂN HỒI
^
Pháp "Phát-Sanh-Tùy-Thuộc" hay Thập Nhị Nhân
Duyên được giải thích nhiều lần và được ghi chép ở nhiều nơi trong những
bài thuyết giảng của Đức Phật, nhưng Ngài không so sánh với bánh xe. Sự
so sánh này được thấy trong sách Visudhimagga (Thanh Tịnh Đạo) và các
bản chú giải khác. Mặc dầu kinh điển theo truyền thống Theravàda (Nguyên
Thủy) có nhiều đoạn nhắc đến, nhưng hình như pháp này không được mô tả
như một bánh xe. Nhưng ở miền Bắc Ấn Độ, và đặc biệt ở Kashmir, trường
phái Sarvàstivàda
(¹)
(Thuyết nhất thiết hữu bộ, hay thường gọi tắt là Hữu bộ) đã được thiết
lập vững chắc, ngoài ra nhiều kinh sách về Giới Luật và Vi Diệu Pháp
(Vinaya và Abhidhamma) cũng có một lối vẽ theo hình bánh xe để mô tả
giáo lý rất quan trọng của pháp Thập Nhị Nhân Duyên. Bánh xe ấy là đề
tài của bản khái luận này.
Danh từ Pàli Bhava-cakka hay
Samsàra-cakka, có khi được phiên dịch là Bánh Xe của Đời Sống,
có lúc cũng được gọi là Bánh Xe của sự Trở Thành (Bhava, Hữu) hay Bánh
Xe của Vòng Quanh Sanh Tử (Samsàra, Luân Hồi).
Bộ kinh Avadàna, thuật lại các tích truyện về
Đức Phật và các đệ tử, có một quyển mở đầu bằng tích truyện về bánh xe
này. Người đọc thấy rằng tích truyện về bánh xe nhắc lại thời Đức Phật
còn tại thế, và có ghi nhận rằng Ngài đã có cho vẽ hình bánh xe và cũng
có lời chỉ bảo về nội dung của bánh xe. Chắc chắn là vào thời ấy người
ta đã biết xử dụng bộ môn hội họa (đã có nhiều lần được ghi nhận trong
Giáo Pháp và Giới Luật). Ngoài ra, các sự kiện khác được nêu lên trong
lời mở đầu ngắn ngủi ấy đều thích hợp với tinh thần kinh điển Pàli. Theo
vài học giả, bộ kinh này đã được kết tập trước thời có dương lịch. Vậy,
nếu ta không tin rằng Đức Phật đã chỉ bảo lối vẽ bánh xe ấy thì ít ra,
bánh xe này cũng được vẽ ra vào khoảng hai ngàn năm nay. Hai ngàn tuổi
đầu âu cũng là một tập tục khả kính vậy!
Về những gì có tác dụng giúp ta thấu hiểu
giáo lý, lối diễn đạt những phương tiện lành (upàya-kosalla) này chắc
chắn là lâu đời nhất.
BẢN DỊCH
^
"Thủa ấy Đức Thế Tôn ngự tại thành Ràjagaha
(Vương Xá), trong vùng Trúc Lâm, chỗ nuôi sóc. Lúc bấy giờ Đức
Mahàmoggallàna (Mục Kiền Liên) thường đi viếng địa ngục trong một lúc
rồi viếng các cảnh thú và ngạ quỷ, chư Thiên và nhân loại. Đã nhận thấy
tất cả những đau khổ mà chúng sanh trong cảnh địa ngục phải chịu, những
hoàn cảnh sanh rồi diệt, những cảnh tàn phế, què tay, cụt chân v.v…, đã
chứng kiến cảnh những con thú này sát hại và cấu xé những con khác, đã
mục kích cảnh ngạ quỷ bị đói khát dày vò và cảnh chư Thiên bị sa đọa,
phải rời cảnh Trời, phải chịu hư hỏng và sụp đổ, và cảnh con người tham
ái chỉ đi đến bất toại nguyện và tuyệt vọng…, khi đã nhìn thấy các điều
ấy, Ngài Moggallàna (Mục Kiền Liên) trở về Jambudìpa (Ấn Độ), kể lại cho
hàng tứ chúng. Vị đại đức nào có một người bạn đồng tu, hay một môn đệ
bất mãn với đời sống thánh thiện thiêng liêng cũng đem đến Ngài, bụng
nghĩ rằng: "Ngài Mục Kiền Liên sẽ khuyên nhủ và dạy dỗ người ấy đầy đủ."
Và đúng như vậy, Đại Đức Moggallàna khuyên nhủ và dạy dỗ người ấy đầy
đủ. Thiêng Liêng một cách hoan hỷ và tinh tấn. Những người lỗi lạc trong
mấy nhóm ấy cũng chứng đắc các đạo quả cao thượng nhờ Ngài Moggallàna
khuyên nhủ và dạy dỗ một cách đầy đủ.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn đang ngự tại
Ràjagaha, có đông đảo hàng tứ chúng gồm chư tỳ khưu, tỳ khưu ni, thiện
nam và tín nữ ở quanh Ngài Moggallàna.
Đức Chánh Đẳng Chánh Giác, Chánh Biến Tri
cũng nêu lên những câu hỏi. Ngài hỏi Đức Ànanda (A Nan Đà) vì sao hàng
tứ chúng bao vây vị Đại Đệ Tử bậc nhì của Ngài. Đức Ànanda thuật lại
những kinh nghiệm của Ngài Moggallàna và bạch rằng Đức Moggallàna đã
thành công trong việc khuyên dạy các tỳ khưu bất mãn. Đức Thế Tôn dạy:
"Vị cao tăng Moggallàna (Mục Kiền Liên) hay một vị tỳ khưu khác, cũng
cao tăng như vậy, không thể ở khắp mọi nơi cùng một lúc để dạy dỗ đại
chúng. Vậy, nơi trước cổng chùa phải vẽ một bánh xe chia làm năm phần. "
Vậy, Đức Thế Tôn dạy phải vẽ một bánh xe chia
làm năm phần. Đến đây có sự ghi nhận rằng: "nhưng các vị tỳ khưu không
biết vẽ loại bánh xe nào".
Chừng đó, Đức Thế Tôn giải thích: "Năm cảnh
giới phải được diễn đạt – cảnh địa ngục, cảnh thú, cảnh ngạ quỷ, cảnh
người, cảnh chư Thiên. Những cảnh địa ngục, thú và ngạ quỷ phải được
diễn tả ở phần dưới (của bánh xe), phần trên vẽ cảnh người và cảnh chư
Thiên, Bốn lục địa cũng phải được mô tả là Pubbavideha, Aparagoyàna,
Uttrakuru, và Jambudìpa.(²)
Ngay trung tâm vòng bánh xe, tham, sân, si phải được tiêu biểu.
Một con bồ câu
(³)
tượng trưng tâm tham, con rắn tượng trưng tâm sân, và con heo tượng trưng
tâm si. Hơn nữa, phải vẽ hình tượng trưng chư Phật, có hào quang, chỉ
(con đường đến) Niết Bàn. Hạng chúng sanh tầm thường phải được mô tả như
bị chìm đắm (xuống những trạng thái thấp hơn) và trồi lên trở lại. Chung
quanh rìa là (phần giáo huấn) mười hai khoen của Thập Nhị Nhân Duyên,
theo chiều xuôi và chiều ngược.
Hình của bánh xe phải cho thấy rõ ràng rằng
mọi vật, mọi thời kỳ, đều bị lý vô thường nuốt mất và sau đó phải thêm
hai câu thơ:
"Hãy khởi hành, bỏ lại phía sau cuộc đi vô
định.
Hãy gom tâm chăm chú vào Giáo Huấn của Đức Phật.
Làm như Ngài, bậc Lãnh Đạo, như voi, voi chúa Nàlàgiri vững bước như thế
nào
Hãy làm như thế ấy, và hãy chiến thắng Tử Thần.
Người nào, trong Giáo Pháp và Giới Luật, đi con đường của mình,
Luôn luôn giác tỉnh, luôn luôn kiên trì cố gắng.
Người ấy có thể chấm dứt đau khổ ở đây,
Và bỏ lại sau lưng bánh xe của vòng sanh tử luân hồi"
Như vậy, theo lời thỉnh cầu của chư vị tỳ
khưu, Đức Phật truyền lịnh cho vẽ bánh xe luân hồi của vòng sanh tử
triền miên chia làm năm phần trên các cổng chùa.
Bấy giờ có những vị Bà la môn và những vị cư
sĩ đến hỏi: "Kính Bạch Đại Đức, hình vẽ ấy có ý nghĩa gì?"
Chư vị tỳ khưu trả lời: "Sư cũng không biết!"
Nhân cơ hội đó, Đức Phật khuyên dạy: "Phải để
một thầy tỳ khưu ở trước cổng chùa, chịu trách nhiệm tiếp đón khách và
giải thích hình vẽ".
Có những vị tỳ khưu được phân công (để tiếp
khách) mà không được chọn trước, những vị cuồng si, lơ đễnh, không thông
hiểu rõ ràng và không tạo công đức. Do đó có lời phản đối: "Chính các
thầy ấy cũng không thông hiểu, làm sao các thầy ấy có thể chỉ dẫn được
những người khách Bà la môn và cư sĩ (xem hình vẽ)? "
Đức Thế Tôn truyền dạy: "Phải đặt trước cổng
chùa một thầy tỳ khưu có đủ tư
cách."
(4) .
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA TẬP TỤC
^
Truyền thuyết Tây Tạng kể rằng Đức Thế Tôn
lấy hột lúa sắp ra những nét đại cương của bánh xe, khi Ngài đi qua một
cánh đồng. Dầu sự thật là như thế nào chăng nữa, ở Ấn Độ, ít ra tại chùa
Sarvàstivàda, bánh xe trang trí bên trong cổng chùa đã gây cảm xúc mạnh
mẽ trong tâm người hiểu biết ý nghĩa và gợi tánh tò mò cho những người
khác.
Sự tàn phá các di tích Phật Giáo ở Ấn Độ rộng
rãi đến độ không còn tìm được ở đâu những cánh cổng chùa có vẽ hình bánh
xe luân hồi. Chỉ còn vỏn vẹn một bức họa đơn độc ở động Ajanta, hang số
17, có lẽ còn cái gì có hình thù tương tợ như bánh xe. Trong bản dịch
được ghi nhận ở phần trên không thấy nhắc đến hình ảnh gì để diễn tả
mười hai vòng khoen của giáo lý Phát-Sanh-Tùy-Thuộc, và người ta nói
rằng về sau chính Ngài Nàgàrjuna (Long Thọ), một nhà truyền giáo vĩ đại
của đạo Phật mà nhiều câu thơ sẽ được trích đăng ở phần sau – sẽ bổ túc.
Từ Ấn Độ, cái mẫu bánh xe được Ngài Bande Yeshe đem đến Samye, ngôi chùa
đầu tiên ở Tây Tạng, và từ đó chính nhờ hệ phái Sarvàstivàda (Nhứt Thiết
Hữu Bộ) kiên cố bảo trì cho đến ngày nay. Do đó tập tục về bánh xe được
vẽ ngay phía trong tiền đình, đập vào mắt của tất cả những ai bước chân
vào ngôi chùa.
Truyền thuyết Tây Tạng đề cập đến hai loại
bánh xe, loại xưa và loại nay. Loại vẽ theo xưa căn cứ trên bản văn kiện
được dịch ở phần trên. Loại nay thì có thêm vào đó vài điểm mới. Nhà cải
cách tôn giáo trứ danh Je Tsong-khapa (1357), người sáng lập trường phái
Gelupgpa (Những Bậc Đức Hạnh, tức Hoàng Giáo Tây Tạng, mà Ngài Dalai
Lama là người đứng đầu) đã cho phép phân bánh xe ra làm sáu phần, thay
vì năm, và vẽ hình Bồ Tát Avalokitesvara (Đức Quán Thế Âm) thế vào hình
một vị Phật trong mỗi phần không phải cảnh người. Cả hai loại bánh xe
này đều có trong lối vẽ ở Tây Tạng. Cảnh thứ sáu mô tả hạng Asura (A Tu
La) đang gây chiến tranh với những vị Trời Dục Giới. Trong bản vẽ của
tôi (Đại Đức Khantipalo), tánh cách ma quỷ và lộn xộn ấy nằm trong một
phần riêng biệt của cảnh Trời. Sự kiện đưa vào cảnh giới một nhân vật
tượng trưng cho Đức Phật là để nêu cao đức từ bi vô lượng vô biên của
Ngài, vì Đức Avalokitesvara là hiện thân của tâm bi mẫn sáng suốt. Người
viết (Đại Đức Khatipalo) chọn lối diễn đạt xưa, hợp với bản văn được
dịch trên, vì nó hoàn toàn thích hợp với Giáo Lý Nguyên Thủy.
Tánh cách khủng khiếp và hung bạo của vòng
luân hồi – luôn luôn ở với ta trong mọi thời đại – đã được nhận thấy một
cách phũ phàng trong sự cướp đoạt xứ Tây Tạng của người Trung Hoa xâm
lăng. Các họa sĩ Tây Tạng còn giữ được nguyên vẹn tập tục cổ truyền cho
đến ngày nay và vẫn còn thực hiện những bức vẽ, trong hoàn cảnh khó khăn
của người tỵ nạn ở Ấn Độ. Tuy nhiên, đường lối trình bày Giáo Pháp cổ
kính này đáng được truyền bá rộng rãi hơn. Nơi tôn nghiêm thờ phượng của
người Phật tử nên có một bức tượng như vầy để nhắc nhở cho mình bản chất
quay tròn của bánh xe sanh tử triền miên luân chuyển này.
BIỂU TƯỢNG VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA BÁNH XE
^
Cái
Trục Của Bánh Xe
Bây giờ chúng ta hãy ghé mắt nhìn
sang bức họa "Pháp Luân" kèm theo quyển sách
nhỏ này. Bức này do tác giả (Đại Đức Khantipalo) thực hiện, dựa theo một
bức hình vẽ thuần túy Tây Tạng của Waddel. Trong bức này cảnh vật và
người đã được hiện đại hóa phần nào.
Phần nồng cốt của bức hình vẽ là trung tâm
điểm, đối với những ai còn mãi mãi sống trong vòng luân hồi. Như vậy, đó
cũng là nơi tốt nhất để bắt đầu diễn tả biểu tượng này. Ngay giữa bức
họa có một con gà, một con rắn, và một con heo, con này cắn đuôi con
kia, tiếp nối nhau chạy vòng quanh. Đó là ba con vật tượng trưng cho
lòng tham ái, sân hận và si mê. Được vẽ ngay trung tâm vì đó là căn cội,
là nguyên nhân, của tất cả những nghiệp bất thiện và do đó, cũng là căn
nguyên của mọi thọ cảm trong vòng luân hồi. Ngày nào mà còn tham, sân,
si, hiện hữu trong tâm thì ta còn bị thế gian vô thường chuyển biến chi
phối. Khi nó không còn nữa. Khi mà, nhờ thực hành Giáo Pháp, trí tuệ đã
được khai triển và đã tận diệt tham, sân, si, chừng ấy ta sẽ tìm thấy an
nghỉ, trạng thái vắng lặng, tịch tịnh không lay chuyển của Niết Bàn. Nên
ghi nhận rằng trong những bức họa của người Tây Tạng, ba con thú ấy được
vẽ trên nền xanh dương, có nghĩa là ba tệ hại này của tâm, mặc dầu có
năng lực hùng mạnh, nhưng quả thật là không có thể chất, hư vô, cũng như
tất cả những thành phần khác mà chúng ta thọ cảm.
Con gà màu đỏ chói lọi tượng trưng
lòng tham (lobha). Cái tham này nằm trong tất cả mọi ý muốn, dưới mọi
hình thức 'tôi muốn', 'tôi ước mong', 'tôi hy vọng', 'tôi phải có', 'tôi
sẽ có', từ hình thức thô kịch của lòng tham ái, bám níu vào những thể
vật chất, xuyên qua sự luyến ái đeo níu vào những quan kiến, những ý
niệm, dài dài đến những hình
thức tế nhị như các ấn chứng, phỉ lạc của người hành thiền. Màu sắc đỏ
chói của con gà biểu hiệu sự thiêu đốt của dục vọng. Dục vọng thật nóng
và không ở yên, như ngọn lửa, không bao giờ cho phép tâm của người ôm ấp
nó kinh nghiệm tình trạng vắng lặng, an tĩnh, thanh bình mát mẻ của
trạng thái buông bỏ. Con gà trống được chọn để tượng trưng cho lòng tham
vì theo sự quan sát chung, nó là con vật đầy tham ái và tự phụ. Mỏ con
gà gặm đuôi con rắn màu xanh lá cây, hàm ý rằng người không "thỏa
mãn" được lòng tham muốn và ái dục mênh mông như biển cả của mình có
khuynh hướng nổi giận. Tâm sân (dosa) phát sanh dưới nhiều hình thức
khác nhau, khi ta không thành đạt những gì mong muốn, hay khi những gì
ta không muốn lại đến với ta. Loại tâm này cũng thật rất tế nhị ở nhiều
mức độ, từ căm hờn oán giận thô sơ, xuyên qua những trạng thái tâm thù
nghịch đối với người nào, đến sự phật lòng nghịch ý bên trong, bộc lộ ra
ngoài bằng những lời lẽ gian dối, tinh ranh, hay giận dỗi hơn nữa là
bằng những cử chỉ hung bạo. Màu xanh lá cây của con rắn diễn tả tánh
cách lạnh lùng, lãnh đạm, thiếu thiện cảm, đối với kẻ khác. Còn con rắn,
là một loài thú sát hại chúng sanh khác bằng chất độc hay bằng cách siết
chặt lại, và đó đúng là cái gì mà trạng thái sân gây nên cho người dung
dưỡng, bảo trì nó trong tâm. Cuộc sống của chúng ta có thể nhiễm chất
độc của con thú tai hại ấy nếu ta không biết thận trọng tiêu trừ nó.
Phía dưới vòng trung tâm ấy là con heo nặng
nề, mỏ gặm đuôi con gà tham ái, còn đuôi của chính nó thì bị con rắn sân
hận cắn. Con heo màu đen, tượng trưng tâm si (moha). Cũng như các bạn
đồng loại của nó, con heo này ở khắp nơi, thích ngủ nhiều, ăn uống hàm
hồ và thường không quan tâm đến việc sạch sẽ chút nào hết. Đây là một
biểu tượng rất đúng cho tâm si, vì tâm si ngăn cản, không để chúng ta
hiểu biết chân chánh điều nào có lợi và điều nào làm cho ta sụp đổ. Tình
trạng nặng nề của heo gợi cho ta ý niệm hôn trầm của thân và tâm, được
gọi bằng những danh từ khác nhau như đần độn, ngớ ngẩn, dã dượi, những
lo âu và phóng dật với hoài nghi cũng phát sanh từ căn si. Người bị tâm
si tràn ngập không biết được tại sao phải giữ mình không làm điều ác vì
người ấy không có tâm sáng suốt để thấy được những gì lợi ích cho chính
mình mà cũng không có tâm bi mẫn để thấy những gì lợi ích cho kẻ khác.
Tấc cả đều bị bao trùm dưới lớp si mê, hay ảo tưởng. Người ấy không biết
hay không tin tưởng rằng hành động có tác ý (nghiệp) sẽ đem lại hậu quả
tương xứng cùng một loại. Hoặc nữa, người ấy bị quan kiến sai lầm của
mình dẫn dắt tách rời ra ngoài con đường của Giáo Pháp. Khi người ta
không thành đạt những gì mà mình mong muốn – xuyên qua tâm tham hay tâm
sân – thì lấy làm buồn, và sự đau khổ vì tham dục ấy là đau khổ vì si
mê, vì bị tâm si làm mờ ám, mê muội, không nhận ra bản chất vô thường
của vạn pháp. Từ con heo đen tối sanh ra con gà đỏ chói lọi và con rắn
màu xanh lá cây.
Trong bức họa, ba con thú vào bậc nhất ấy
được trình bày con này cắn đuôi con kia, hàm ý rằng chúng quả thật mật
thiết dính liền với nhau, không thể tách rời ra được. Chẳng hạn như
không thể có con quỷ tham ái mà không có những con quái kia kín đáo bám
sát theo đuôi. Khi có con gà tức phía sau đuôi ẩn tàng có rắn và có heo.
Chí đến bên trong những nhân vật chỉ có một trong ba căn cội ấy phát
triển nổi bật, hai con kia vẫn kín đáo ẩn tàng hiện hữu, trong khi phần
đông những người gọi là "bình thường" vẫn có một loại quân bình không
lành mạnh của ba con thú ấy trong tâm, luôn luôn sẵn sàng gieo ảnh hưởng
mỗi khi có cơ hội thuận lợi. Ba con thú ấy không ngừng hoạt động trong
tâm của những ai còn là phàm nhân (puthujjana), và luôn luôn gây mầm cho
chúng ta thọ nhiều cảnh khổ. Chính ta phải tự quán chiếu, nhận thức xem
các con thú ấy có kiểm soát tâm mình hay không.
Vòng trung tâm
Từ trung tâm của bức tượng, vòng
tròn đầu tiên chia ra làm hai phần (không thấy trong bổn của người Tây
Tạng), một phần nền trắng và một phần nền đen. Trong phần nền trắng có
bốn người đang đi lên: một thầy tỳ khưu tay cầm đèn (ánh sáng của Pháp
Bảo) soi đường đi trước. Theo sau đó có một nữ tu sĩ đắp y trắng, và sau
nữa là một người đàn ông và một người đàn bà, mặc thường phục theo thời
bấy giờ. Bốn nhân vật ấy tượng trưng hàng tứ chúng – đoàn thể Phật Giáo
– gồm có Tăng, Ni, Thiện Nam và Tín Nữ. Đó là hình ảnh của những ai thực
hành chân chánh con đường tạo thiện nghiệp bằng thân, khẩu, ý. Bốn nhân
vật ấy tượng trưng cho hai hạng người, "những
người đi từ tăm tối đến ánh sáng" và "những người đi từ sáng đến sáng".
Hạng trước là những người có nghiệp xấu trong quá khứ, sanh ra trong
cảnh nghèo khổ, khó khăn, tuy có ít cơ hội, nhưng tận lực cố gắng thực
hành Giáo Pháp, vì lợi ích cho chính mình và cho kẻ khác. Vậy, từ cảnh
ngộ tối tăm, những người này đi đến nơi sáng lạn vì hậu quả của nghiệp
hiện tại sẽ tốt đẹp, vui vẽ, hạnh phúc. Hạng thứ nhì, "đi từ sáng đến
sáng" là những người đã thành đạt khá nhiều lợi ích và có nhiều cơ hội
trong kiếp sống hiện tại nhờ nghiệp tốt đã tạo trong quá khứ. Trong hiện
tại, những người này tiếp tục con đường đi lên bằng cách gia công thêm,
thực hành Giáo Pháp.
Thực hành Giáo Pháp là thế nào? Có hai danh
sách, mỗi bên gồm mười yếu tố đáng lẽ phải được giải thích nơi đây,
nhưng vì khuôn khổ một quyển sách nhỏ chỉ cho phép trình bày tóm lược
những nét đại cương. Danh sách thứ nhất gọi là "Mười Con
Đường
Tạo Thiện Nghiệp
(5) ", trong ấy ba liên quan đến thân, bốn đến khẩu, và
ba đến ý. "Con Đường" ở đây có nghĩa là "đường lối hành động", và
"thiện" có nghĩa "không làm suy sụp tâm của chính mình và tổn hại đến
tâm của người khác". Những hành động mà ta phải tránh không nên làm là
giết hại sanh linh, lấy của không được cho và phẩm hạnh không trong sạch
về tình dục. Trong lời nói, bốn hành động phải tránh là nói dối, nói đâm
thọc, nói thô lỗ và nói nhảm nhí. Ba hành động của ý phải tránh là tham
ái, sân hận và tà kiến. Người tránh được mười điều trên là thực hành
thập thiện nghiệp, con đường chân chánh, con đường thiện, con đường
trắng, đúng theo những giai đoạn tu tập đầu tiên trong Giáo Pháp.
Mười yếu tố thứ nhì được gọi là "Mười
Lối Tạo Phước Báu
(6)
" Puñña, công đức, hay phước báu, là những hành động có khả năng thanh lọc
tâm. Danh sách mười yếu tố này không đi song song với danh sách trước.
Ba yếu tố đầu là đường lối căn bản và ba phần sau là phần phụ thuộc. Ba
yếu tố căn bản là bố thí (dàna), trì giới (sìla) và phát triển tâm hay
hành thiền (bhàvana), và bảy yếu tố còn lại được xem là những khía cạnh
khác nhau của phần trước, gồm hành động tôn kính bậc trưởng thượng, phục
vụ, hồi hướng phước báu đến người khác, nghe Pháp, dạy Pháp và củng cố
chánh kiến. Đó là những hành động dẫn đi lên, đi đến thiện hạnh và đến
mức trưởng thành trong Giáo Pháp, cho ta mà cũng vì lợi ích của kẻ khác.
Những ai đi trên con đường ấy ắt hướng bước
tiến về ánh sáng, có thể tái sanh vào hai cảnh giới, hoặc người hoặc
cảnh những chúng sanh "sáng ngời rực rỡ" – chư Thiên trong tam giới:
Dục, Sắc và Vô Sắc. Một đời sống có thực hành chân chánh và tốt đẹp
thường tạo nghiệp đưa vào hai cảnh ấy, gọi là sugati, cảnh hữu phước.
Nhưng Đức Thế Tôn không có tuyên bố rằng mỗi ai có một nếp sống như thế
nào nhất định phải tái sanh vào cảnh kia. Điều ấy không phải chỉ tùy
thuộc ở mức độ thực hành Giáo Pháp mà còn tùy thuộc nơi cảnh tượng phát
hiện trước mắt khi sắp lâm chung. Vào phút cuối cùng, nếu lơ đễnh lãng
quên ta cũng có thể lọt vào ba cảnh bất hạnh và rất khó thoát ra. Vòng
luân hồi quả thật nguy hiểm, cho đến những người có cuộc sống hầu như
trong sạch cũng phải hết lòng thận trọng. Được sanh vào hai cảnh hữu
phước là quả lành của thiện nghiệp, hay puñña, phước báu. Và tâm càng
trong sạch cảnh giới được sanh vào càng thanh cao và hữu hạnh.
Trong phần đen của vòng tròn, chúng sanh trần
truồng, ngả nghiêng ngã ngửa một cách hỗn độn, vô trật tự. Trạng thái
trần truồng tượng trưng cho tánh không biết hổ thẹn khi làm điều bất
thiện, và trạng thái vô trật tự hàm ý điều ác luôn luôn đưa đến trạng
huống tan rã, hỗn độn. Ngả nghiêng có nghĩa là những người ấy đang ngã
té và đang đi xuống vì đã có hành động thấp kém hơn loài người. Những
người này hướng về trạng thái thích ứng với hành động của họ, nghĩa là
thấp kém hơn loài người. Trong nhiều bức họa của Tây Tạng, những người
này bị cột trói chum lại với nhau và trong một góc có con quỷ cái đang
xô họ xuống. Con quỷ cái ấy chính là ái dục (taņhà, một danh từ thuộc về
giống cái). Lẽ dĩ nhiên, ái dục không ở bên ngoài người đi trên con
đường ác mà chính ở trong tâm họ. Trên con đường này có hai hạng người.
Hạng đi từ "ánh sáng vào bóng tối", và những người đi từ " bóng tối đến
bóng tối". Hạng người trước có cơ hội tốt trong đời nhưng không biết
cách xử dụng, hoặc nữa, họ đã lợi dụng những cơ hội tốt đẹp ấy để làm
điều bất thiện, và như thế, họ đã hoang phí những quả phúc đã tạo trong
tiền kiếp mà không tạo thêm được gì trong hiện tại để tích trữ cho tương
lai. Thay vì tạo nghiệp tốt, do tâm si, họ lại chọn đường lối tích trữ
nghiệp xấu ở hiện tại để rồi sẽ phải gặt hái lo sợ và sầu muộn trong
tương lai. Những người đi từ "đen tối đến đen tối" không có được những
ưu điểm của hạng người trước. Họ sanh ra trong hoàn cảnh thiếu thốn đủ
mọi mặt do nghiệp xấu quá khứ, và chính quả dữ ấy đưa đẩy họ vào những
cảnh khổ, và trong cảnh bất hạnh họ càng tạo thêm nghiệp xấu.
Hai hạng người này đi dài theo con đường của
Mười Ác Nghiệp, thường được gọi là thập bất thiện nghiệp, gồm: sát sanh,
trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói đâm thọc, nói thô lỗ cộc cằn, nói nhảm
nhí, tâm tham ái, tâm sân hận và tà kiến. Những người ấy không thỏa
thích trong việc tạo phước báu, trái lại, bẩm tánh của họ là bỏn xẻn,
không giới hạnh, tâm buông lung không trau giồi, không phát triển, ngã
mạn, ích kỷ, luyến ái vào sở hữu, tham lam, không bao giờ nghe Pháp và
chắc chắn là không bao giờ nói Pháp. Trong lúc ấy thì tâm của họ ở trong
tình trạng hỗn độn với những quan kiến và ý niệm trái ngược nhau.
Trong đời sống, những người ấy mải miết theo
đuổi hành động bất thiện. Đến lúc lâm chung "tánh chất người" bên trong
họ đã bị tiêu diệt hầu hết, nên họ phải rơi vào ba trạng thái thấp kém
gọi là cảnh giới bất hạnh, duggati. Kể theo thứ tự của mức độ suy sụp
của họ và tăng trưởng đau khổ mà họ phải chịu, ba cảnh giới ấy là cảnh
ngạ quỷ, cảnh thú và cảnh địa ngục. Quả đúng thật như trường hợp: "Hành
thiện, quả lành. Hành ác, quả dữ" – theo một tục ngữ của người Thái. Hai
phần của vòng đầu tiên này cũng là sự diễn đạt một đoạn được lập đi lập
lại mỗi khi chấm dứt một tích truyện Avadàna:
"Vậy, này chư Tỳ Khưu, nghiệp hoàn toàn đen
mang quả hoàn toàn dữ. Nghiệp hoàn toàn trắng mang quả hoàn toàn lành.
Và nghiệp hỗn hợp mang quả hỗn hợp. Do đó, hãy tránh tạo những nghiệp
hoàn toàn đen và nghiệp hỗn hợp. Hãy gia công cố gắng tạo nghiệp hoàn
toàn trắng. Vậy, này chư Tỳ Khưu, phải tự mình tu tập."
Năm
Phần
Hai cảnh giới hữu phúc và ba cảnh
giới bất hạnh bao gồm toàn thể các cảnh giới mà chúng sanh có thể tái
sanh vào. Trong phần lớn các bức vẽ ở Tây Tạng có thêm cảnh giới thứ
sáu, chia cảnh Trời làm đôi, cảnh của các vị Trời (Deva, chư Thiên) và
cảnh Asura (A Tu La), những người chống đối các vị Trời. Sau đây là phần
diễn tả các cảnh giới ấy và
đề cập đến lý do tại sao, bằng cách nào chúng ta sanh vào đó. Sự tái
sanh vào một cảnh giới chỉ là hậu quả. Dưới đây là nguyên nhân.
Một người mãi làm ác trong đời
sống, hay đã phạm một trọng tội,
đến lúc lâm chung ắt sẽ thấy cảnh tượng có liên quan đến những hành động
ác đã làm trong quá khứ, hoặc thấy cảnh giới mà hành động bất thiện hay
nghiệp xấu quá khứ chuẩn bị mình đến. Khi cơ thể vật chất không còn
thích hợp để làm nền tảng nâng đỡ đời sống, tâm người ấy sẽ tạo một cơ
thể mới mà ta nói là vô hình, hay ma quỷ, một thể chất tế nhị mà mắt
người không thể trông thấy và chừng ấy, người kia bắt đầu thọ cảm những
khổ đau của cảnh giới mà họ đang ở trong đó. Nhưng, trong trường hợp mà
nghiệp người ấy đưa họ vào cảnh thú, thì lúc lâm chung họ thấy những
cảnh thú và bị lôi kéo vào bào thai hoặc trứng của loài thú.
Nghiệp đưa vào cảnh thú là hành
động nặng nề những gì mà loài người chia xẻ với loài thú như ăn, uống và
tình dục. Nếu con người tăng cường tánh chất thú bên trong mình để trở
thành con-người-thú" thì không thể trông chờ
gì khác hơn là tái sanh vào cảnh thú. Chúng sanh trong cảnh người mà chỉ
khao khát và thỏa thích trong dục lạc thô kịch như vậy đã chôn sâu gốc
rễ tai hại của tâm si vào lòng mình, tất nhiên đã tạo cho mình cái tâm
"thú", sẽ không có "tánh chất người", cái tinh hoa chánh yếu của loài
người, để có thể ngăn ngừa một tai họa tương tợ, bởi vì không có
cái gì như một linh hồn "người" trường tồn bất biến. Muốn canh
phòng, giữ mình khỏi phải rơi vào cảnh ngộ ấy, con người phải bảo vệ
"tánh chất người" của mình, tức là những điều kiện của loài người
(manusa0dhamma), nghĩa là năm giới. Chìm đắm xuống dưới mức phẩm hạnh
của năm giới là chìm đắm xuống dưới mức độ bình thường của loài người.
Một khi đã tái sanh vào cảnh thú rồi ắt không còn đường lối nào dễ dàng
để trở lại cảnh người nữa. Như Ngài Nàgàrjuna (Long Thọ) viết:
"Từ cảnh thú vượt lên đến cảnh người còn khó hơn là con rùa mù mà
thấy được một cái ách trôi giạt bềnh bồng trên mặt biển mêng mông. Vậy,
đã là người, hãy thực hành và thành đạt quả
lành của Giáo Pháp."
(7)
Nghiệp đưa vào cảnh địa ngục, trạng thái đau
khổ và đáng sợ nhất, thường là những hành động gồm tâm sân, tâm sát hại,
hành hạ, dày xéo và hung bạo với chúng sanh. Con người tự đưa mình vào
trạng thái cực kỳ đau khổ của địa ngục vì đã làm cho căn sân trở nên vô
cùng hùng mạnh bên trong mình. (L.K. 59)
Đằng
khác, chúng sanh trong cảnh người mà để cho căn tham của mình tăng
trưởng quá độ, sống bỏn xẻn, luyến ái sở hữu, ích kỷ, tất sẽ đi đến cảnh
giới vô hình có lòng ái dục thật mạnh đến
đỗi
không bao giờ thỏa mãn được. Vì lẽ ấy chúng sanh này được gọi là ngạ quỷ,
tức quỷ đói, chúng sanh cảnh âm luôn luôn ở trong trạng thái đói.
Tuy nhiên, đôi khi có người tạo
nhiều nghiệp ác trong đời sống nhưng đến giờ phút lâm chung lại thành
thật quay về tinh thần đạo đức. Trong trường hợp này, nếu tâm được tập
trung vào Giáo Pháp và nhờ niềm tin nơi Tam Bảo thanh lọc, người như thế
ấy có thể tái sanh vào cảnh người trở lại, hay cũng có thể vượt lên cảnh
giới chư Thiên. Còn nghiệp ác đã tạo, mặc dầu sẽ không có cơ hội để trổ
sanh quả trong cảnh giới hữu phước mà người ấy đã được sanh vào vẫn còn
đó, với đầy đủ khả năng tạo quả rất dữ lúc nào hội đủ cơ duyên thuận
lợi. Chuyện ngược lại, cũng có thể xảy ra. Những người tốt và cao
thượng, nhưng trong giờ phút lâm chung lại lơ
đễnh
nhớ lại một vài hành động ác nhỏ đã làm, hay thấy trở lại cảnh tượng xấu
trong một kiếp quá khứ. Kết quả là để tâm ô nhiễm phát sanh và dẫn đến
các cảnh giới vô phước.
Nhưng đó là những trường hợp hiếm
hoi. Thông thường, ai đã theo con đường trắng sẽ tái sanh vào cảnh người
hay cảnh Trời. Căn bản của cảnh người là thực hành năm giới, vì đó là
mức độ bình thường của loài người. Năm giới ấy là: tránh sát hại sanh
linh, tránh lấy của nào chưa được cho đến, tránh những hành động sai lạc
về tình dục, tránh nói dối, và tránh dùng những chất say, như rượu mạnh
và ma túy, làm cho tâm phóng dật. Những ai đã tránh những điều tương tợ
là đã thật sự sống như một con người, đã tăng cường nền tảng
"người" trong tâm và sẽ tái sanh trở lại làm người với nhiều đặc tánh tốt
đẹp, có được nhiều cơ hội để tiến bộ cũng như có nhiều tài sản và tư hữu
vật chất khác.
Đường lên các cảnh Trời là con đường của
những ai đặc biệt cố gắng sống đời trong sạch và thu thúc, có nhiều tâm
từ đối với tất cả chúng sanh và nhờ đó, thanh lọc tâm được phần nào
trong công trình hành thiền. Đến giờ phút cuối cùng, vì đã thực hành đầy
đủ Thập Thiện Nghiệp và Mười Phương Cách Tạo Phước (Puñña), tâm thỏa
thích và an tĩnh, tùy theo những mức độ tu tập khác nhau của người ấy,
sẽ đưa họ vào một trong những cảnh Trời khác nhau, tương xứng với mức độ
tâm trong sạch và an trụ đã thành tựu.
Những trường hợp có thể xảy đến ấy đều nằm
trong phạm vi của tâm. Mà đặc tánh của tâm là luôn luôn biến chuyển,
theo chiều này hay hướng kia, do nghiệp tốt hay xấu. Chính "thức nối
liền" hay "thức tái sanh", tức chập tâm đầu tiên trong một kiếp sống, sẽ
quyết định loại danh-sắc, lục căn, của chúng sanh mới và cảnh giới mà
trong đó chúng sanh ấy gặt hái hậu quả của nghiệp đã gieo trồng trong
quá khứ. Còn tri giác sẽ tùy theo đó mà thay đổi – như câu nói trứ danh
sau đây diễn tả:
"Cũng như những chúng sanh khác nhau tri
giác khác nhau trước tô nước:
Đối với chư Thiên, đó là sinh khí.
Với người, chỉ là nước lã để uống,
Trong khi đó, đối với loài ngạ quỷ,
Nước ấy tựa hồ như máu, như mủ,
Đối với Long Vương và loài cá,
Đó là môi trường để sống.
Cùng nước ấy, đối với các Ngài Phạm Thiên
Ở cõi Không Vô Biên Xứ, đó chỉ là không gian.
Như vậy, bất luận gì, sống hay chết,
Bên trong hay ở ngoài một người
Đều được nhận thức khác nhau
Tùy theo quả báo của nghiệp."
Đọc xong những câu như trên chúng ta đã
thoáng nhìn thấy bề sâu thầm kín, bí ẩn, của tâm và chân lý của những
kinh Phật ngôn mở đầu Kinh Pháp Cú:
"Tâm dẫn đầu các pháp (tâm sở);
Tâm là chủ. Tất cả (các tâm sở) đều do tâm tạo…"
Trở về bức họa. Trong cảnh giới của chư Thiên
– Deva, hay những chúng sanh sáng ngời rực rỡ -- những đền đài bằng bạc
và cây cối bằng bảo ngọc chiếu lòa của các vị Trời Dục Giới được trình
bày ở phần dưới. Bức họa của Tây Tạng vẽ nhiều chi tiết hơn về thế gian
vô cùng đẹp đẽ này, trong ấy cũng có một loại tình dục tế nhị. Đã đặt
nền tảng của cuộc sống trên nhục dục ngũ trần như thế gian loài người,
các vị Trời Dục ấy phải trả cái giá của nó – đó là sự xung đột. Luôn
luôn có tranh chấp, những trận chiến lập đi lập lại, với hàng Asura (A
Tu La), những chúng sanh chống đối chư Thiên, những chúng sanh trước kia
cũng ở cảnh Trời nhưng vì bản tánh gây gổ phải bị rơi xuống và bây giờ,
bị lòng ganh tỵ thúc đẩy, cố gắng quày trở lên xâm chiếm cảnh này. Trong
bức họa của tôi (Đại Đức tác giả) hạng chúng sanh này chiếm một phần
cảnh giới chư Thiên, mặc quân phục và trang bị bằng cả khí giới cũ lẫn
khí giới mới. Nhưng không phải họ chỉ gây chiến với chư Thiên không mà
còn đánh lẫn nhau nữa. Do đó cũng có sự bất phục tùng giữa họ với nhau
được diễn tả. Theo bức họa Tây Tạng, sau khi bị chư Thiên, dẫn đầu là
Vua Trời Đế Thích bên cạnh một thớt voi, đánh đuổi chạy, họ sống trong
một thế gian riêng biệt. Hạng chúng sanh này chỉ biết có sức mạnh mà
thôi, vì lẽ ấy có hình Đức Phật xuất hiện ở cảnh giới này cầm trên tay
một cây gươm để thị oai và như vậy, sau đó chúng có thể đến nghe Pháp.
Ngược lại, hình ảnh của Đức Phật ở cảnh chư Thiên thì được vẽ tay cầm
ống sáo. Tiếng nhạc du dương sẽ đưa chư Thiên đến nghe Pháp vì người ta
tin rằng chúng sanh ở cảnh này không thích nghe nói chuyện suông!
Phía trên cảnh chiến tranh loạn lạc của những
vị Trời Dục Giới có các vị Phạm Thiên của Sắc Giới và Vô Sắc Giới, những
vị đang thọ hưởng hạnh phúc của thiền, vô cùng phỉ lạc, hay tâm xả hoàn
toàn, vô cùng cao thượng. Bức họa Tây Tạng vẽ vị Phạm Thiên lộng lẫy
trong một ngôi đền, bên góc trái. Về cảnh Trời rực rỡ ấy, Ngài Nàgàrjuna
(Long Thọ) lưu ý như sau:
"Này Đại Vương, mặc dầu những cảnh Trời ấy
Có những khoái lạc bao la để cho thọ hưởng,
Cảnh tử biệt càng đau khổ.
Hằng suy niệm như thế,
Người cao thượng không mong muốn
Thọ hưởng lạc thú tạm bợ của cảnh Trời."(L.K. 98)
Và Ngài viết tiếp như sau:
"Người từ cảnh Trời, chết đi
Mà không còn phước báu dự phòng
Phải chịu tái sanh – tùy nghiệp quá khứ --
Vào cảnh thú hay ngạ quỷ
Hoặc nữa, hóa sanh vào địa ngục. " (L.K. 59)
Những vị Phạm Thiên trong cảnh Vô Sắc Giới có
tuổi thọ dài không thể tưởng tượng và sống trong trạng thái Không Vô
Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Vì
các Ngài không có hình thể vật chất nên không thể diễn tả. Tuy nhiên,
dầu ở trong trạng thái vô phỉ lạc ấy, các Ngài vẫn không trường tồn vĩnh
cửu mà cũng phải chết một ngày nào.
Giữa đám người, phần trái và bên trên, trong
cả hai bức, trọn tất cả diễn tiến của đời sống được mô tả: sanh (xe đẩy
trẻ con), già, bệnh (dấu hiệu bệnh viện), chết (xác chết trong nghĩa
địa). Tuy nhiên, trong bối cảnh của tình trạng đau khổ ấy, con người có
thể hiểu được Gíao Pháp. Đức Thế Tôn, nhân vật tiến bộ nhất trong đám
người, được diễn tả ngồi trên cao, trong một khu rừng, truyền dạy Giáo
Pháp cho năm vị đệ tử đầu tiên. Trong bản vẽ nguyên thủy mà tôi theo
đúng, Đức Phật chỉ xuất hiện ở cảnh người, chứng tỏ rằng được sanh vào
cảnh người là một đại hạnh, đại phúc, vì ở đây có cơ hội thông hiểu Giáo
Pháp một cách thâm sâu. Những nguyện vọng đạo đức của con người được
tượng trưng bằng một ngôi đền Ấn Độ Giáo, một Thánh Đường Thiên Chúa
Giáo, một đền thờ Hồi Giáo, trong lúc ấy cảnh chiến tranh và một quán
rượu, hai khuynh hướng của con người thiên về sân và tham. Bức họa Tây
Tạng cho thấy nhiều sinh hoạt thường ngày như cày bừa ngoài đồng và
nhiều người trèo lên phía trên, nơi ấy có một ngôi chùa mà các người kia
cố đến để nghe thuyết Pháp. Ở giữa, Đức Phật đang đứng, tay ôm bình bát,
chỉ cho nhân loại con đường thanh bình an lạc dẫn đến trạng thái tịch
tịnh châu toàn của Niết Bàn. Trong bức vẽ của tôi (Đại Đức tác gỉa), con
đường Giáo Pháp vững chắc ấy được diễn tả từ miệng Đức Phật thốt ra.
Trên con đường ấy, một thầy tỳ khưu đưa tay cho người cư sĩ nắm lấy và
dẫn dắt người ấy thoát ra khỏi vòng luân hồi bằng Bát Chánh Đạo. Về điểm
này, Đức Nàgàrjuna viết:
"Mặc dầu được tái sanh vào cảnh người,
Con người dễ duôi, tự dấn thân vào những con đường bất thiện.
Còn cuồng dại hơn kẻ điên cuồng
Phải ăn những đồ ói mửa, nước tiểu và phẩn
Trong một cái chén bằng vàng có cẩn ngọc ngà châu báu.
Tái sanh vào cảnh người còn khó được hơn." (L.K. 60)
Cảnh ngạ quỷ hay peta (phía dưới bên mặt
trong bức vẽ của tôi, bên trái trong bức họa Tây Tạng) luôn luôn đói và
khát, luôn luôn thèm ăn uống, nhưng đến khi cầm đến thức ăn hay thức
uống thì nó trở thành lửa nóng hay vật hôi thúi. Trong cảnh này tôi có
vẽ một mặt trăng to lớn và một mặt trời nhỏ bé vì có câu:
"Vì hạng ngạ quỷ thiếu phước, nên đối với
họ,
Mặt trăng nóng bức vào mùa Hè.
Vào mùa Đông, mặt trời lại lạnh buốt.
Khi chúng nhìn vào cây thì thấy cây trơ trọi
Và những dòng sông đang trôi chảy
Bỗng dưng khô cạn, khi chúng ghé mắt vào." (L.K. 95)
Kế đó, trên không trung có một ngạ quỷ đang
làm mồi cho đàn chim dày xéo, như Đức Moggallàna (Mục Kiền Liên) đã có
lần trông thấy. Một ngạ quỷ khác nằm "nghỉ ngơi" trên tảng đá bên cạnh
gốc cây trơ trọi, cảnh tượng mà Đức Thế Tôn thường dung để diễn đạt tiện
nghi đơn độc của cảnh giới này. Trong khi ấy, hai ngạ quỷ khác bị chìm
sâu dưới nước, mực nước vừa lóm đóm phía dưới môi. Trong cảnh đói khát
vô cùng khắc nghiệt, chúng không làm sao hớp được một ít nước cho đỡ dạ,
mặc dầu mực nước đã gần đến môi. Quả thật hình phạt của Tantalus là
trạng thái hiển nhiên trong cảnh ngạ quỷ! Tất cả chúng sanh trong cảnh
này đều có bụng sình lên binh rỉnh, cổ thật ốm thon và miệng nhỏ như đầu
mũi kim. Trong kinh điển Tây Tạng, sự đau khổ của họ được diễn tả còn tệ
hại hơn nữa. Chúng phải chịu đói khát cùng cực, nhưng không được chút gì
để ăn uống, sự đau khổ của họ càng tăng thêm gấp bội vì các thức ăn uống
ấy trở thành những lưỡi gươm dao trong bụng. Đức Phật mang vật thực của
chư Thiên xuống cảnh giới "dồi dào đau khổ" để làm dịu bớt tình trạng
đói khát cùng cực của chúng sanh ở đấy. Theo lời của Ngài Nàgàrjuna:
"Đức Phật đã có tuyên ngôn về nguyên nhân
nào
Đưa chúng sanh vào cảnh giới ngạ quỷ
Để phải chịu đau khổ.
Đó là vì, khi ở cảnh người, người ấy không bao giờ bố thí,
Hoặc có cho ra, cũng cho với tâm bỏn xẻn.
Hành động như thế ấy, người ấy tạo nghiệp phải sanh vào cảnh ngạ quỷ."
(L.K. 97)
Ở cảnh thú, bức họa Tây Tạng vẽ về Đức Phật
tay cầm quyển sách, khuyến khích chúng sanh ở đó đi vào Giáo Pháp, chỉ
rằng loài thú có rất ít khả năng hiểu biết, và cần trí tuệ. Bức vẽ của
tôi diễn đạt cảnh khổ đau của cảnh giới này theo sự mô tả của Ngài
Nàgàrjuna:
"Vậy, nếu bạn phải sanh vào cảnh thú
Thì đau khổ quả thật nhiều –
Sát hại, bịnh hoạn, đâm chém., hút lộn lẫn nhau
Lại còn bị trói buộc, đánh đập nữa.
Không có hành động thiện, không có đời sống ôn hòa,
Loài thú sát hại, gây chết chóc lẫn nhau
Mà không ân hận.
Giữa đám thú, có con bị giết để lấy
Trai, ngọc, hay lóng xương,
Có những con khác
Được đánh giá bằng thịt, bằng da của nó,
Những con khác nữa,
Bị cưỡng bách làm công việc của loài người
Dưới lằn roi vọt, gậy gộc hay móc sắt.
Chúng bị đánh đập để làm việc." (L.K. 89-90)
Trong thế gian của loài thú, thọ cảm thông
thường là "đau khổ, nhức nhối, khắc nghiệt", và tình trạng được diễn tả
trong bức vẽ của tôi bằng cảnh tượng "kẻ đi săn và người bị săn". Chim
chóc trên trời bị săn bắn trong lúc con kên kên đang ăn miếng mồi của
nó. Con ong đang vùng vẫy trong lưới nhện, tượng trưng kiếp sống khủng
khiếp của loài côn trùng. Trong khi ấy, những con thú lớn hơn, trâu thì
bị ép buộc phải cày, nai thì làm mồi cho thợ săn, và con sư tử đang ăn
một con vật khác làm mồi cho nó. Số phận của loài cá cũng không khá hơn.
Cá nhỏ làm mồi cho cá lớn hay bị mắc câu, hoặc bị vướng vào lưới của
loài người. Phần bên dưới của cảnh giới này, gần với cảnh địa ngục, có
con cắc kè. Bức họa Tây Tạng diễn tả những hình ảnh sống khác nhau của
loài thú có vẽ, dưới mặt nước, đền đài của Long Vương, nửa người nửa
sấu.
Cảnh địa ngục – dĩ nhiên không phải một trạng
thái trường tồn vĩnh cửu – có những khủng khiếp mới của thời hiện đại
chúng ta. Những con đường xe lửa chạy thẳng vào một trại tập trung. Và,
từ các ống khói của trại tập trung này tủa ra những làn khói đen, vừa ảm
đạm thê lương vừa rùng rợn. Trong khi ấy nhân viên của một lực lượng an
ninh bí mật, đồng phục chỉnh tề, ép buộc một loại âm hồn của địa ngục
trần gian phải nuốt những giọt sắt nấu chảy thành chất lỏng. Dưới mắt
nhân viên quan sát, một dòng suối gọi là Vaitaranì đốt cháy tận xương
những người đang quây quần lặn hụp trong ác xít pha lẫn máu từ những núi
người to tướng, ầm ĩ kêu la. Dầu cảnh đau khổ hành hạ nào mà chúng sanh
ở cảnh địa ngục phải chịu, dầu thể xác có bị dày xéo hay tàn phế đến
đâu, hay bị nghiền nát cách nào, những chúng sanh ấy còn phải tồn tại
lâu dài để nhận lãnh những cảm giác "cực kỳ đau đớn, nhức nhối và khắc
khổ", không giảm dịu, không ngừng nghỉ.
"Cũng như hạnh phúc cao thượng nhất đến với
ta
Do sự chấm dứt mọi dục vọng –
Không có hạnh phúc nào cao thượng hơn!
Cùng thế ấy, không có tội khổ nào khủng khiếp
Như cảnh bất hạnh ở địa ngục A Tỳ (Àvici),
Một cảnh khổ liên tục không gián đoạn –
Không có trạng thái đau khổ nào bất hạnh hơn!" (L.K. 85)
Trong bức họa, ở phía trước là cảnh những
chúng sanh trước kia phá hoại, làm hư hỏng người trong trắng vô tội. Các
chúng sanh này bị mấy con sâu to tướng đụt khoét trong khi lặn hụp trong
một thứ nước hôi thúi bẩn thỉu. Bên trái là một rừng gươm đao bén nhọn,
thay vì cây cối xanh tươi. Chúng sanh ở cảnh này phải leo trèo trên gươm
đao ấy và bị cắt đứt, đâm thủng, rất thảm thê. Người ta nói rằng đó là
cảnh tượng đặc biệt mà người tà dâm tự tạo cho mình. Những người tạo
nghiệp sát hại này hay hành hạ sanh linh thì được thấy bị treo trên cây
nọc, trong khi ấy có con chim mỏ cứng như thép đang rỉa ruột gan người
trước kia say mê đá gà. Đức Nàgàrjuna cũng có mấy dòng thơ để mô tả cảnh
giới thấp nhất và cùng cực nhất này:
"Kẻ sát nhân bị xử phải chịu
Suốt ngày, chỉ trong một ngày thôi,
Ba trăm ngọn gươm đâm xuyên qua mình để đền tội.
Sự đau khổ ấy cũng không sánh được
Với cảnh khổ dễ chịu nhất ở địa ngục.
Cảnh khổ đau ở địa ngục có thể kéo dài
Cả trăm a tăng kỳ.
Không giảm dịu, không gián đoạn, không thể chịu được,
Ngày nào mà quả xấu của hành động ác
Chưa hết nghiệp lực, chưa thể chấm dứt. " (L.K. 86-87)
Jetsun Milarepa, nhà đại hiền thánh và thi sĩ
Tây Tạng, đã nói có cảnh Trời, cảnh địa ngục và các cảnh giới khác, ca
hát lên những câu:
"Kẻ sát nhân, lòng đầy tham dục
Chí đến cha mẹ và thầy tổ cũng không tha,
Người cướp bóc kho tàng của Tam Bảo,
Vu oan và phỉ bang vô lối bậc Cao Quý,
Và chỉ trích Giáo Pháp là tà đạo,
Những kẻ tạo nghiệp ác ấy sẽ bị thiêu đốt
Và không dứt phải chịu dày
xéo trong địa ngục…"
(8)
Những ai hiện đang xâm phạm dân tộc Tây Tạng
và Giáo Pháp của họ có thể ghi nhận điều này!
Bản trình thuật tóm tắt năm cảnh giới tái
sanh (pañcagati) có thể kết luận bằng lời kêu gọi:
"Nếu đầu, tóc, hay quần áo của bạn bị lửa
bốc cháy
Ắt bạn vội vã dập tắt lửa.
Hãy nhanh chóng dập tắt lửa ái dục
Đang quay tròn bánh xe luân hồi.
Ái dục là nguồn cội của đau khổ,
Không còn cách nào làm hơn! " (L.K. 104)
VÒNG
NGOÀI CỦA BÁNH XE
^
Sợi
Xích Mười Hai Khoen
Bây
giờ, chúng ta hãy mô tả Vòng Ngoài, cái niềng của bánh xe, tượng trưng
mười hai giai đoạn của Thập Nhị Nhân Duyên, hay pháp
Tùy-Thuộc-Phát-Sanh. Đó là những giai đoạn, những vòng khoen nối liền
toàn thể chúng sanh vào trạng thái luôn luôn trở thành và đau khổ.
Có một tập tục cổ truyền vững chắc
giải thích vòng Thập Nhị Nhân Duyên bằng cách phân làm ba thời kỳ: quá
khứ, hiện tại và tương lai. Hiện tại là thời gian duy nhất thật sự có,
và hiện tại do quá khứ xây đắp,
uốn nắn. Chính trong hiện tại chúng ta tạo nghiệp bằng thân, khẩu, ý, để
trổ quả trong tương lai. Trong mười hai "giai đoạn nối liền" (hay
nidàna, vòng khoen), quanh tròn vòng bánh xe, có đầy đủ những gì xảy ra
trong đời sống và đó là giải đáp cho tất cả những câu hỏi liên quan đến
kiếp nhân sinh. Tuy nhiên, giáo lý Tùy-Thuộc-Phát-Sanh, trung tâm điểm
của Giáo Pháp và Giới Luật, không phải là một đề tài để biện luận mà
phải được khảo sát và nhận thức trong chính bản thân mình và ở người
khác, và cuối cùng có thể tri giác trong tâm của chính mình, vì ở đó tất
cả những Chân Lý của Giáo Pháp trở nên rõ ràng minh bạch sau thời gian
thực hành. Nhưng, những ai không thực hành Giáo Pháp thì được gọi là
những người "nâng đỡ thế gian". Các người này để cho vô minh quay tròn
bánh xe, lần đến già, đến chết. Đức Thế Tôn hằng khuyên nhủ và nhắc nhở
chúng ta không nên làm "người nâng đỡ thế gian", trái lại, hãy thực hành
Giáo Pháp nhằm dập tắt tham ái, sân hận, si mê và do đó chấm dứt vô
minh, chấm dứt sanh, già, bệnh, chết.
Giờ đây, chúng ta hãy sơ lược duyệt qua mười
hai vòng khoen của sợi dây xích ấy.
Vòng Khoen Đầu Tiên: VÔ MINH (Avijjà)
Danh từ Pàli "Avijjà" là " không hiểu biết
trọn vẹn", đầy đủ, chớ không có nghĩa là "không hiểu biết gì cả". Sự
"không hiểu biết" ở đây rõ ràng đặc biệt, không liên quan đến đường lối
hiểu biết hay đề tài được hiểu biết theo nghĩa thông thường. Không hiểu
biết ở đây là không hiểu biết Tứ Diệu Đế. Vô minh là không trông thấy rõ
ràng Tứ Diệu Đế trong tâm mình và trong đời sống của chính mình. Trong
những kiếp sống quá khứ chúng ta không màng tìm thấy dukkha, khổ
(1). do đó chúng ta không thể tiêu trừ nguồn gốc của khổ (2), ái dục, và
ái dục thúc đẩy ta cố tìm sống nữa, sống thêm, thêm nhiều kiếp nữa, tìm
thêm khoái lạc, tìm khoái lạc thêm nữa. Sự chấm dứt đau khổ (3) mà có lẽ
trong quá khứ chúng ta đã có thấy thoáng qua nhưng không nhận thức được,
bây giờ ta lại đến đây, trong kiếp sinh tồn hiện tại – dĩ nhiên là đang
mang nặng niềm đau khổ. Và trong quá khứ chúng ta không biết đặt chân
trên con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ (4) và chúng ta không khám
phá ra lối vào Dòng Suối (Nhập Lưu). Hiện thời chúng ta đang trả cái giá
đã để lãng quên, cái giá dễ duôi trong quá khứ. Và sự không hiểu biết,
hay vô minh, này không phải là một loại nguyên nhân đầu tiên trong quá
khứ, bởi vì chính trong hiện tại của nó vẫn còn nằm trong tâm ta. Tuy
nhiên, cũng như chúng ta sẽ thấy, do vô minh ấy chúng ta đã chuyển động
bánh xe quay tròn, mang lại cho ta hết sanh rồi lão và tử, triền miên
như thế, cùng với những hình thức đau khổ (dukkha). Những cái "tự
ngã " của tôi trong quá khứ, vốn lăn trôi theo luồng sinh lực liên tục
của tôi từ vô lượng tiền kiếp, đã không kiểm soát được ái dục của nó và
như vậy, không thể cắt dứt cội rễ của vô minh. Trái lại, chúng nó còn
tạo thêm nghiệp mới mà trong hiện tại tôi đang thọ lãnh hậu quả.
Bức họa giúp ta thấu hiểu điểm này. Một thiếu
phụ mù (danh từ avijjà thuộc về giống cái) tay cầm cây gậy, tìm đường đi
xuyên qua một khu rừng cằn cỗi dẫy đầy những lóng xương. Hình như bức
họa đầu tiên vẽ một con lạc đà cái già và mù, lầm lủi bước chân theo
người dẫn đường. Lạc đà là một loại thú quen thuộc với những cuộc hành
trình dài đẵng và mệt nhọc, xuyên qua những vùng đất xa lạ. Người dẫn nó
chính là ái dục. Dầu muốn dùng hình ảnh nào để diễn tả vô minh, bức họa
cũng gợi cho ta tánh chất vô thủy (không có một khởi điểm) và tối tăm
của nó. Chúng ta là những người mù đã kéo lê bước chân, thênh thang từ
quá khứ đi vào hiện tại – và sẽ hướng về một tương lai như thế nào?
Tùy thuộc nơi sự hiện hữu của vô minh trong
tâm, đã có hành động có tác ý, hay nghiệp, hay abhisankhàra, đã được tạo
nên trong những kiếp quá khứ.
Vòng Khoen Thứ Nhì: HÀNH (Sankhàra, hành động có tác ý)
Hành động có ý chứa đựng một năng lực tiềm ẩn
sẽ trổ quả trong tương lai – hoặc ở phần sau của kiếp hiện tại, hoặc xa
hơn nữa, vào một lúc nào trong tương lai. Nhưng khả năng trổ quả vẫn
luôn luôn còn đó, dầu phải trải qua nhiều a-tăng-kỳ kiếp đi nữa. Vào lúc
nào cơ duyên cần thiết được hội đủ thì nghiệp quá khứ ắt trổ sanh. Bây
giờ, do vô minh hay sự không hiểu biết Tứ Diệu Đế, chúng ta đã tạo
nghiệp trong những kiếp sống quá khứ. Tới đây, chúng ta là những người
"nâng đỡ thế gian" và như vậy, đã tạo nghiệp, tốt hay xấu, thiện hay ác,
chúng ta duy trì cuộc sinh tồn liên tục trên thế gian.
Những chúng sanh như thế ấy, những người còn
bị màn vô minh gây trở ngại trong tâm, cũng giống như các anh thợ đồ
gốm. Anh thợ đồ gốm để hết tâm trong công việc tạo nên những món đồ tốt
đẹp như lọ, bình v.v… (thiện nghiệp) và đôi khi anh cũng thiếu thận
trọng, dễ duôi làm bể một món đồ hay, bằng cách này hay bằng cách nọ,
anh lỡ để hư hỏng một món khác (bất thiện nghiệp). Và anh để cho bùn đất
dính dơ tay chân, mình mẩy, cũng như tánh cách trong sạch của tâm đôi
khi bị bùn dơ của nghiệp làm lu mờ. So sánh chúng sanh tạo nghiệp với
anh thợ đồ gốm là thích đáng, vì danh từ "sankhàra" có nghĩa là "tạo
nên", "uốn nắn", "tạo nên một hình thể", "cấu hợp" và do đó thường được
phiên dịch là "vật cấu tạo", "pháp hữu vi". Nơi đây, trong pháp Nhị Thập
Nhân Duyên, sankhàra là hành, tức những hành động có tác ý.
Tùy thuộc nơi sự hiện hữu của những hành động
có tác ý trong quá khứ, phát sanh tâm thức gọi là "tâm-nối-liền". Và
thức này là nền tảng của kiếp sống hiện tại.
Vòng Khoen Thứ Ba: THỨC (Viññàna)
Phẩm chất của thức, hay thức-nối-liền, có thể
rất khác nhau, tùy nghiệp đã tạo ra trong kiếp quá khứ. Trong trường hợp
của những ai đang đọc quyển sách này, cái tâm "nhảy" vào kiếp sống mới
lúc bắt đầu thọ thai là một loại tâm-nối-liền có tánh chất người, phát
sanh như là kết quả của một cuộc sống nghiêm túc thọ trì năm giới, nền
tảng của một kiếp sống quá khứ có "tánh cách người". Nên ghi nhận rằng
thức-nối-liền là một tâm quả, nghĩa là một loại tâm phát sanh do một
nhân quá khứ, là hậu quả của một nhân quá khứ, chớ không phải cái gì mà
ta có thể kiểm soát. Nếu không tạo nghiệp nào thích ứng để tái sanh vào
cảnh người thì lúc chết sắp đến ta không thể muốn: "Bây giờ ta lại tái
sanh vào cảnh người một lần nữa! ". Thời gian mà ta có thể muốn là lúc
đang có cơ hội thực hành Giáo Pháp. Mặc dầu thức-tái-sanh trong kiếp
sống này đã qua, chính trong hiện tại, ngay giờ phút này, chúng ta có
thể thực hành Giáo Pháp để tạo thức-tái-sanh thuận lợi trong tương lai
một cách chắc chắn hơn – nói như vậy là nếu ta muốn còn tiếp tục đi nữa
trong vòng luân hồi.
Thức-nối-liền là thành phần thứ ba, cần thiết
để cấu tạo bào thai. Bởi vì, dầu có tinh trùng trong lòng mẹ đúng vào
thời kỳ sanh sản, mà không có một "chúng sanh" tái sanh vào đúng nơi và
đúng lúc thì không có bào thai. Trong bức họa có hình con khỉ, tượng
trưng cho tâm hay thức, nhảy từ cây này, kiếp sống cũ, chuyền sang một
cây khác, kiếp sống mới. Cây cũ đã khô cằn, nhưng cây mới mang nhiều
trái. Trái này có thể là quả lành hay quả dữ. Trong bức vẽ của Tây Tạng
có một con khỉ đang ăn trái, tức đang thọ hưởng hậu quả của những hành
động quá khứ.
Tùy thuộc nơi thức-nối-liền, phát sanh
danh-sắc.
Vòng Khoen Thứ Tư: DANH-SẮC (Nàma-rùpa)
Danh từ Rùpa (Sắc) đôi khi được dịch là thân
thì không mấy chính xác, nhưng cho ta một ý niệm tổng quát. Danh từ Rùpa
bao gồm nhiều ý nghĩa hơn là một cái thân. Nàma (Danh) gồm có cảm giác
(thọ), tri giác (tưởng), những sinh hoạt tâm linh (hành) và thức. Danh
và sắc là hai sự liên tục tương ứng trong ấy không có cái gì là vững
bền, thường còn, không biến đổi. Trong cuộc sống thông thường, một cách
ước định, ta nói "tâm của tôi", hay "thân của tôi". Dường như có một ý
niệm nào về quyền sở hữu, phảng phất đâu đó trong hậu cảnh, nhưng bậc
thiện trí thấu hiểu rằng có những định luật chi phối cả hai phần danh và
sắc. Cả hai, những trạng thái tâm và phần vật chất, luôn luôn chuyển
biến. Và chúng ta không thể ra lịnh, bảo tâm đừng bợn nhơ, ô nhiễm, hay
bảo thân phải ngưng trưởng thành, già nua và chết.
Tuy nhiên ta có thể uốn nắn tâm theo ý muốn,
thay vì để nó bềnh bồng trôi giạt trải qua suốt kiếp sinh tồn, mặc cho
lý vô thường đổi thay danh và sắc, hai yếu tố vốn không bền vững. Do đó,
trong bức vẽ, tâm được trình bày đang làm công việc chèo chống con
thuyền tâm-vật-lý (tức chúng sanh) trên dòng sông ái dục. Trong khi ấy,
sắc hay cơ thể vật chất, chỉ là khách đi thuyền, thụ động. Bức họa Tây
Tạng vẽ chiếc thuyền con đang vượt qua một dòng nước xoáy, trên thuyền
có ba (hay bốn???) người khách, Có lẽ những người khách này tượng trưng
các uẩn.
Với sự hiện hữu của danh sắc, phát sanh lục
căn.
Vòng Khoen Thứ Năm: LỤC CĂN (Salàyatana)
Căn nhà có sáu cửa sổ là biểu tượng thông
thường cho vòng khoen này. Sáu cửa, hay lục căn là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, ý. Đó là những căn cứ để thâu nhận tin tức khác nhau từ bên ngoài.
Và những tin tức này gồm sáu loại (lục trần) đối tượng của sáu căn là:
sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Ngoài lục căn và lục trần, chúng ta
không hay biết gì khác. Tất cả những gì chúng ta thọ cảm đều giới hạn
trong phạm vi của giác quan và đối tượng của giác quan – tâm được xem là
giác quan thứ sáu. Năm giác quan bên ngoài, chỉ thâu nhận ngoại cảnh
trong hiện tại. Nhưng giác quan thứ sáu, tâm, là nơi mà tin tức bên
ngoài được thâu thập, biến chế. Những tin tức này có thể trải dài từ
những hồi ức trong quá khứ đến những ước vọng, những lo âu trong tương
lai, cũng như những tư tưởng đủ loại có liên quan đến hiện tại. Thêm vào
đó, tâm có thể thâu nhận tin tức từ những cảnh giới ngoài phạm vi mà các
giác quan khác có thể hay biết, thí dụ như các cảnh Trời, cảnh ngạ quỷ
và cảnh địa ngục. Một cái tâm phát triển đầy đủ đến mức định (samàdhi)
có thể nhận thấy cảnh giới khác và chúng sanh ở các cảnh giới ấy.
Đã có lục căn, tức có xúc.
Vòng Khoen Thứ Sáu: XÚC (Phassa)
Đó là sự tiếp xúc giữa lục căn và lục trần.
Thí dụ, khi những điều kiện cần thiết đã hội đủ: có con mắt, có một hình
sắc để thấy, tức có đối tượng của nhãn quan, có ánh sáng, cùng lúc ấy
mắt đang hoạt động và người đang tỉnh táo, hướng cái nhìn vào đối tượng,
ắt có xúc. Và trong trường hợp này là nhãn xúc: hình sắc của đối tượng
(nhãn trần), đập vào sự nhạy thấy của nhãn căn. Cùng thế ấy, có những
xúc khác đối với mũi, lưỡi, tai, thân, ý. Tượng trưng thông thường của
vòng khoen này là người đàn ông và người đàn bà ôm nhau. Khi xúc phát
sanh, tức nhiên có thọ cảm.
Vòng Khoen Thứ Bảy: THỌ (Vedanà)
Khi có sự tiếp xúc bằng nhiều cách khác nhau
với lục căn tức có cảm giác, hay thọ, phát sanh. Thọ là phản ứng có tánh
cách cảm xúc. Có ba loại thọ: thọ lạc, tức những cảm xúc vui thích, hạnh
phúc, thọ khổ, những cảm xúc đau đớn hay khổ não, và thọ vô ký, tức cảm
xúc không vui, không buồn, không sướng, không khổ. Loại thọ đầu tiên lúc
nào cũng được vui vẻ đón nhận, đó là nên tảng của hạnh phúc. Loại thứ
nhì, không ai muốn có, là nền tảng của dukkha, đau khổ. Trong khi
ấy, cảm giác thứ ba là loại thọ vô ký, không nhưộm màu hạnh phúc hay đau
khổ, mà ta thọ cảm rất thường trong đời sống, nhưng ít khi để ý đến. Tất
cả những thọ cảm đều tạm bợ, phù du, có tánh chất đổi thay, bởi vì không
có trạng thái tâm, hay tâm sở, nào có thể liên tục tồn tại một cách quân
bình. Dầu những hạnh phúc mà ta cho là ở mức độ cao nhất cũng chỉ tồn
tại nhất thời, rồi phải nhường chỗ lại cho một cái gì khác. Vậy, mặc dầu
là hạnh phúc căn cứ trên những cảm giác vui thích, bản chất của nó là vô
thường tạm bợ và vì thế, chính nó là dukkha, đau khổ, bởi vì làm
thế nào hạnh phúc thật sự, không biến đổi có thể căn cứ trên cái biến
đổi, phù du, không bền vững? Vậy, hình ảnh của người bị mũi tên bắn vào
mắt đã diễn tả điểm này một cách mạnh mẽ.
Khi thọ phát sanh, (thường) ái dục cũng phát
sanh.
Vòng Khoen Thứ Tám: ÁI DỤC (Taņhà)
Đến đây, dòng diễn tiến liên tục do nghiệp
quá khứ làm nguyên nhân thúc đẩy. Nhưng, chính ái dục dẫn đầu trong việc
tạo nghiệp mới ở hiện tại. Trong hiện tại, và chỉ trong hiện tại, ta mới
có thể thực hành Giáo Pháp. Điều cần thiết ở đây là tâm chú niệm (sati),
vì nếu không có niệm thì không Giáo Pháp nào có thể thực hành. Và trong
lúc không thực hành Giáo Pháp, chúng ta sẽ bị sức mạnh của thói quen quá
khứ lôi cuốn đi. Cùng lúc ấy, ái dục và vô minh tiếp tục tăng trưởng bên
trong chúng ta. Khi giữ tâm chú niệm, ta có khả năng và phương tiện để
hiểu biết "đây là cảm giác vui thích", "đây là cảm giác đau khổ", "đây
là cảm giác không đau khổ cũng không vui thích". Tự quán chiếu và ghi
nhận như thế về những thọ cảm sẽ giúp ta thấu hiểu và hay biết lúc nào
có tham, sân, si liên hợp với những cảm giác ấy. Với sự thấu hiểu và hay
biết như thế, ta có thể phá vỡ bánh xe sanh-tử và thoát ra khỏi vòng
luân hồi. Nhưng nếu không thực hành Giáo Pháp, chắc chắn những thọ cảm
kia sẽ tiếp tục dẫn dắt ta đến các ái dục khác và quay cuồng ta theo
bánh xe đầy dẫy đau thương, như Ngài Nàgàrjuna dạy:
"Ái dục chỉ ngọt ngào ở lớp mặt,
Bên trong thì khô cứng đắng cay –
Làm cho người ta thất vọng như trái kimpa.
Chúa của những bậc chiến thắng dạy như vậy.
Những vòng khoen như thế ấy từ chối –
Nó trói buộc thế gian
Vào bên trong vòng rào của ngục tù luân hồi." (L.K. 23)
"Nếu quần áo hay tóc tai bạn bốc cháy
Ắt bạn vội vã dập tắt lửa,
Hãy nhanh chóng dập tắt lửa ái dục –
Chính ái dục vận chuyển bánh xe quay cuồng vô cùng tận
Ái dục là nguồn cội của khổ đau.
Không còn cách nào làm hơn nữa!" (L.K. 104)
Danh từ taņhà, ái dục (Bắc Phạn là trisnà) có
nghĩa là khát khao. Nới rộng ra, danh từ này bao hàm ý niệm "khát khao
những thọ cảm". Vì lý do ấy, ái dục được tượng trưng bằng một người say
rượu, thấm chất men, ngất nghểu ngả nghiêng, và trong bức vẽ của tôi có
thêm vào ba chai rượu – ái dục đeo níu theo Dục Giới, ái dục đeo níu
theo Sắc Giới và ái dục đeo níu theo Vô Sắc Giới.
Nơi nào có ái là có thủ.
Vòng Khoen Thứ Chín: THỦ (Upàdàna)
Thủ là tăng cường và nới rộng ái dục. Và ái
dục hướng về bốn mục tiêu: thọ hưởng dục lạc, có những quan kiến đi ra
ngoài Giáo Pháp, những nghi thức tôn giáo lầm lạc thiên về van vái
nguyện cầu, và bám níu vào ý niệm có một linh hồn trường cửu. Khi bốn
khuynh hướng này trở thành những năng lực hùng mạnh trong tâm của ai thì
người ấy không thể thỏa thích trong Giáo Pháp. Bởi vì tất cả năng lực
của họ đã chuyển về chiều hướng ngược lại với Giáo Pháp, xuôi về chiều
hướng của
dukkha, đau khổ. Phản ứng chung là tăng gia nỗ lực để tìm an vui và
hạnh phúc giữa những gì đã được ấp ủ bám níu vào. Do đó trong cả hai bức
họa đều có vẽ một người cố vươn mình lên để hái thêm trái, mặc dầu cái
giỏ của mình đã đầy.
Vòng Khoen Thứ Mười: HỮU (Bhàva)
Nơi nào có Thủ ắt có Hữu. Với tâm bị ái dục
và sức cố bám (thủ) đun lên sôi sục, con người càng tận lực cố gắng để
tìm bảo đảm thêm, bằng nhiều lối sống khác nhau do đó, chất chứa, đổ
thêm nhiên liệu, vào ngọn lửa đau khổ. Một người thường không biết gì
đến
dukkha, đau khổ, thì mong muốn nuôi dưỡng ngọn lửa ấy. Nhưng lối hành
động của người Phật tử là không châm thêm nhiên liệu, để cho ngọn lửa
lụn dần, bằng cách chấm dứt tiến trình của Ái và Thủ, và như vậy là tận
diệt vô minh từ gốc rễ. Nếu còn muốn ở nán lại trong vòng luân hồi, ta
phải chuyên cần tinh tấn và làm thế nào cho sự "trở thành của ta" hướng
về chiều hướng chân chánh. Nên nhớ rằng từng giây từng phút, từng khoảnh
khắc, chính cái nghiệp của ta uốn nắn "sự trở thành" ấy. Và chiều hướng
chân chánh là nhắm về sự trong sạch, theo con đường trắng của sự thực
hành Giáo Pháp. Điều này sẽ giúp đỡ ta trong mọi trạng huống mà ta trở
thành – hay không trở thành – đến lúc kiếp sống này chấm dứt, khi mà các
nẻo đường dẫn đến những cảnh giới khác nhau sẽ rộng mở trước mặt ta. Và
ta sẽ trở thành cái gì, tùy theo pháp hành của ta, và tùy theo chập tư
tưởng cuối cùng của ta như thế nào.
Một cách thích đáng, Hữu được tượng trưng
bằng người thiếu phụ có mang.
Trước sự hiện diện của Hữu, một kiếp sống mới
phát sanh.
Vòng Khoen Thứ Mười Một: SANH (Jàti)
Cũng như mọi người đều có thể tưởng tượng, sự
sanh được diễn tả bằng cảnh bà mẹ đang lâm bồn, một công việc đau đớn..
Đây cũng là cơ hội để nhắc nhở rằng dukkha, đau khổ, là điều mà
không có kiếp sống nào có thể tránh khỏi. Dầu tương lai sẽ như thế nào,
nếu ta không thể ngưng được vòng quay tròn của bánh xe luân hồi ngay
trong kiếp sống này thì chắc chắn sẽ có một kiếp tương lai. Và cái tương
lai ấy sẽ phát sanh do những điều kiện của nghiệp hiện tại. Tuy nhiên,
không nên nghĩ rằng bởi vì sẽ còn sống nữa trong tương lai, hãy để chừng
ấy sẽ thực hành Giáo Pháp. Không có gì bảo đảm rằng trong tương lai kiếp
sống ấy sẽ còn giống như kiếp này. Vả chăng, ở tương lai ấy ta cũng sẽ
sống trong hiện tại và sẽ hẹn một kiếp sau khác nữa. Vậy, chờ đợi không
ích gì! Ngài Nàgàrjuna dạy rằng tốt hơn ta hãy tận diệt lấy ta:
"Nơi nào có sanh, tức nhiên
Có sợ, có già nua và khốn khổ,
Bịnh hoạn, ham muốn và hoại diệt,
Đó cũng là một khối các đau khổ khác.
Khi sự sống không còn đến nữa
Tất cả các vòng khoen khác cũng chấm dứt." (L.K. 111)
Lẽ dĩ nhiên, nơi nào có sanh ắt có lão tử.
Vòng Khoen Thứ Mười Hai: LÃO và TỬ (Jarà-maraņna)
Do cái vốn vô minh và ái dục đầy đủ bên
trong, ta có thể chắc rằng sau kiếp sống này sẽ còn nhiều kiếp sống
khác. Nhưng cùng với sanh cũng còn nhiều cảnh tử biệt. Sự sanh sẽ thỏa
mãn lòng tham. Cái chết sẽ đem lại bất toại nguyện. Nhưng không thể có
cái này mà không có cái kia. Có sanh phải có tử. Tuy nhiên, đó là con
đường buông lung lơ đễnh. Con đường của Giáo Pháp sẽ đưa đến trạng thái
Bất Diệt, vượt ra ngoài sanh và tử, vượt ra khỏi mọi khổ đau.
Bức họa Tây Tạng vẽ một cụ già khiêng trên
vai cái thây chết đã được băng bó cẩn thận, đem đến bãi tha ma. Bức họa
của tôi thì trình bày ông lão nhìn vào một quan tài trong đó có người
chết. Lời khuyên dạy của Đức Nàgàrjuna là:
"Như vậy, hãy chuyên cần tinh tấn:
Bất luận lúc nào, hãy cố gắng đi sâu vào
Trung tâm của Tứ Diệu Đế,
Bởi vì cho đến những người tại gia cư sĩ
Cũng sẽ vượt qua cơn ngập lụt (tinh thần)
Bằng cách thông suốt Bốn Chân Lý ấy. " (L.K. 115)
* * *
Đó là những nét đại cương, sơ lược diễn tả
tác hành của bánh xe mà chúng ta đã cố bám vào để tự làm khổ mình và tổn
hại kẻ khác. Chính chúng ta là người tạo nên bánh xe ấy. Chính chúng ta
vận chuyển nó. Nhưng nếu muốn, và nếu gia công vào công trình ấy, cũng
chính chúng ta là người có thể làm cho bánh xe ấy dừng lại.
Con
Quỷ
Cả hai bức họa đều vẽ Bánh Xe nằm trọn vẹn
trong nanh vuốt của một con quỷ đáng sợ. Trong bức vẽ của tôi, tên của
con quỷ ấy được khắc rõ ràng trên mão của nó để người khác khỏi lẫn lộn
với loài quỷ khác. Nó không phải là con quỷ tầm thường, bởi vì tên nó là
Vô Thường. Và cái mão chỉ rằng oai quyền của nó bao trùm toàn thể vũ
trụ, bất luận cảnh giới nào của thế gian. Nó cắn xé nghiến ngấu tất cả.
Và tất cả, từ địa ngục đến cảnh Trời, đều vỏn vẹn nằm trong bàn tay đầy
móng vuốt của nó. Cái mão trên đầu nó được trang trí bằng năm sọ người,
tượng trưng đặc tánh vô thường của ngũ uẩn, tức năm nhóm thành phần cấu
tạo chúng sanh. Mắt, tai, miệng của nó đều phun lửa để diễn tả lời dạy
của Đức Thế Tôn trong thời Pháp thứ ba của Ngài, trong đó có đoạn "mắt
nổi lửa" v.v… Phía trên hai mắt của ác quỷ còn có con mắt thứ ba, ngụ ý
rằng đối với hạng điên cuồng, lý vô thường là kẻ thù nghịch. Nhưng với
bậc thiện trí, chính luật vô thường có mang đầy đủ đồ trang sức như vòng
tai và các thứ, cố làm ra đẹp, nhưng không thể được. Cùng thứ ấy, thế
gian này cố gắng bộc lộ, chưng bày ra ngoài vẻ đẹp của mình, nhưng càng
nhìn kỹ ta càng thấy vẻ đẹp ấy phai tàn. Trong vài bức họa Tây Tạng,
dưới bánh xe có một lớp da cọp để trang trí cho quỷ Vô Thường, tượng
trưng cái gì đáng ghê sợ. Trong bức vẽ của tôi, đuôi con quỷ khoanh tròn
lui tới vô cùng tận. Cùng thế ấy, chúng ta đã được sanh ra, đã có sống,
rồi chết, rồi sanh trở lại, mãi mãi vô cùng tận, trong vòng xoay tròn
của bánh xe luân hồi. Đôi khi trong hành động của chúng ta là thiện, lắm
lúc là bất thiện, và chúng ta đã gặt hái quả lành hay dữ của tất cả
những hành động ấy.
Một
Vài Nét Khác
Toàn thể bánh xe sôi sục trong nóng bức và bị
bao trùm giữa ngọn lửa của tham, sân, si, như Đức Thế Tôn nhiều lần nhắc
nhở trong các bài Pháp của Ngài.
Trong cả hai bức họa, bên góc mặt, phía trên,
có hình Đức Thế Tôn đứng bên kia bờ ngụ ý là Niết Bàn. Người Tây Tạng vẽ
Đức Phật chỉ tay lên mặt trăng, trên đó có con thỏ, tượng trưng cho sự
khước từ, con đường thực hành Giáo Pháp và con đường thoát ra ngoài bánh
xe. Trong bức vẽ của tôi, Đức Thế Tôn đang giảng giải bản chất của vòng
luân hồi và khuyên dạy chúng ta nên thận trọng. Phía sau Ngài có vầng
hào quang, tượng trưng cho sự siêu thoát tinh thần và trí tuệ oai nghi
hùng dũng mà Ngài đã thành tựu. Ta có thể diễn tả bằng nhiều cách khác
nhau, nhưng cuối cùng, trí tuệ và tình trạng siêu thoát ấy đã vượt ra
ngoài giới hạn của những gì mà ta có thể hiểu biết. Phía trên cùng, vào
góc trái của bức họa Tây Tạng, có hình Avalokitesvara (Đức Quán Thế Âm),
hiện thân lòng bi mẫn, xem như con đường và mục tiêu của những ai có chú
nguyện noi theo con đường của Bồ Tát.
Bức vẽ của tôi trình bày Con Đường của Giáo
Pháp, tượng trưng bằng tám hoa sen dẫn đến bánh xe Pháp Bảo. Tám hoa sen
là tám chi của con Đường cao thượng, Bát Chánh Đạo. Hai chi đầu, chánh
kiến và chánh tư duy là phần Tuệ. Ba chi kế, chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng, là phần Giới, và ba chi sau cùng, chánh tinh tấn, chánh niệm
và chánh định, là phần Định, tức phần thực hành thiền định. Ngay trung
tâm của bánh xe Pháp Bảo là suññata – hư không – một danh từ khác để
diễn tả Niết Bàn. Chung quanh đó là mười tai hoa sen, tượng trưng cho
mười pháp Ba La Mật (parami), rất cần thiết để hoàn mãn thành tựu. Mười
pháp ấy là: bố thí, trì giới, xuất gia, trí tuệ, quyết định, tinh tấn,
nhẫn nại, chân thật, tâm từ, và tâm xả. Từ trục của bánh xe tủa ra tám
cây căm, tượng trưng pháp hành của chư vị A La Hán, những người hoàn
toàn tuyệt hảo. Con đường tám nẻo này, thay vì vừa đủ tốt đẹp, trở thành
tuyệt hảo. Bên trong vành bánh xe có ba mươi bảy viên ngọc, tượng trưng
ba mươi bảy yếu tố có khả năng đưa đến Giác Ngộ (ba mươi bảy bồ đề tâm).
Vòng ngoài vành có bốn nhóm, mỗi nhóm gồm ba viên ngọc, tượng trưng Tứ
Diệu Đế, và trong mỗi Đế, ba lối nhìn thấy của Đức Thế Tôn khi Ngài
chứng ngộ.
KẾT LUẬN
^
Bức họa này khuyên dạy và nhắc nhở chúng ta
nhiều điểm trong Giáo Pháp đúng theo ý muốn của chư vị Pháp Sư thời xưa.
Nếu chúng ta thường xuyên suy niệm về các điểm này, nó sẽ giúp ta thông
suốt bản chất thật sự của vòng luân hồi. Nương theo sự trợ giúp ấy, và
nhờ công phu thực hành của chính ta, một ngày kia chúng ta sẽ nhận chân
được pháp Tùy-Thuộc-Phát-Sanh bên trong mình. Khi đã trải qua suốt các
giai đoạn ấy, chúng ta sẽ có thể hưởng tất cả hương vị dồi dào của Giáo
Pháp, không phải xuyên qua sách vở hay mhưng cuộc thảo luận, cũng không
phải nhờ người khác giải thích…
Đức Thế Tôn dạy:
"Người nào thấy pháp Tùy-Thuộc-Phát-Sanh,
thấy Giáo Pháp.
Người nào thấy Giáo Pháp, thấy pháp Tùy-Thuộc-Phát-Sanh."
_________________
Ghi chú:
(¹)
Đây là một trong mười tám chi nhánh của hệ phái Hinayàna (Tiểu Thừa) mà
ngày nay đã không còn.
^
(²)
Bốn lục địa này không có trong bức họa kèm theo sách và trong những bức
họa Tây Tạng (Tibetan) hiện đại. Bốn lục địa là những lục địa nằm vào
hướng đông, hướng tây, hướng bắc và hướng nam của xứ Ấn Độ, trong bản đồ
thời xưa.
^
(³)
Trong các bức họa thời hiện đại, luôn luôn là con gà trống.
^
(4)
Bản dịch do Đại Đức Tỳ Khưu Pàsàdiko, được
trích từ chương mở đầu sách Sahasodgata Avadàna, Divyyàvadàna 21,
Mithila Edition, trang 185.
^
(5)
Dasa kusala kammapatha, mười phương cách tạo
thiện nghiệp (thập thiện nghiệp).
^
(6)
Dasa Puñña kiriya vatthu, những hành động có
tác dụng thanh lọc tâm.
^
(7)
"The Letter of Kindheartedness" do tác giả
Àcariya Nàgàrjuna, trong quyển "Wisdom Gone Beyond", Social Service
Association Press of Thailand, Phya Thai Road, BangKok, Siam.
^
(8)
Xem "Sixty Songs of Milerapa", được nhà xuất
bản BPS, Kandy, ấn hành theo loại Wheel, số 95-97.
^
Hình
vẽ bánh xe, của Tỳ kheo Khantipalo
^
-ooOoo-
Hình vẽ bánh xe,
của Tây Tạng
^
---o0o---
Chân thành cảm ơn Đạo Hữu Bình
Anson đã gởi tặng sách này.
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục