Từ thời cổ đại con người đã tin rằng: ngoài
thân xác ra, con người còn có linh hồn. Linh hồn là phần linh diệu thâm
sâu nhất. Khi chết, thân xác trở nên bất động và
đi
vào hủy diệt còn linh hồn thì rời khỏi thân xác.
Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh thì
Hồn là phần tinh thần hay Linh tính của con người, là ý thức, tư tưởng
của con người.
Người Âu Mỹ gọi linh hồn qua từ Âme, soul
(Pháp, Anh, Mỹ) hay psyché (Hy Lạp) hoặc seel (Đức). Từ Âme được giải
thích là nguyên lý của sự sống, của tư tưởng hay của tất cả hai, khi
nguyên lý được xem như là một thực tại khác biệt với thể xác, qua đó hồn
hoạt động. Thực tại ấy có thể xem là vật chất hay không vật chất.
Theo người Daisetz Teeitaro Suzuki thì linh
hồn không thể được khái niệm như là một thực thể hay một đối tượng như
bất cứ một đối tượng nào khác mà ta đã thấy quanh ta. Linh hồn không thể
là cái có hình dạng hoặc có thể thấy được qua mắt người... bởi vì nếu là
hữu hình thì làm sao linh hồn đi vào thể xác được?
Đối với người Hy Lạp thì linh hồn chính là
cái tinh thần có nhiệt, cái giúp ta cử động hô hấp.
Theo Tự điển và Danh từ triết học của Trần
Văn Hiến Minh thì Hồn là nguyên sinh lực hội tụ nơi sinh vật. Linh hồn
là cái yếu tố quyết định quan trọng. Nhờ linh hồn mà sinh vật mới có sự
sống. Từ thời cổ đại xuất hiện thuyết nói về linh hồn đó là thuyết vạn
vật linh (hay thuyết linh hồn nguyên thủy: Animism). Theo thuyết này thì
tất cả mọi thứ trên quả đất từ con người đến con thú và ngay cả cỏ cẩy
đất đá cũng đều có linh hồn. Quan niệm này còn bàng bạc trong dân gian
và ta cũng đã thường gặp lại trong các câu như: "Hồn thiêng sông núi"
"Hồn nước"... Ngày nay, một số lớn người Á Châu, Phi Châu, Úc Châu và
nhất là các thổ dân vùng Hải đảo vẫn còn tin tưởng về thuyết đó. Tuy
nhiên, tùy theo tôn giáo, phong tục, tập quán mỗi quốc gia mà sự tin
tưởng của mỗi dân tộc có vài khác biệt, nhưng phần chính yếu thì vẫn
giống nhau đó là sự tin tưởng rằng có linh hồn. Người Việt Nam và Trung
Hoa còn chịu ảnh hưởng nhiều của nền văn hóa cổ xưa, họ quan niệm rằng
con người có ba hồn. Ba thứ hồn ấy là:Sinh hồn: phần đem lại sinh hoạt
lực cho thể xác. Giác hồn: giúp thu nhận và thể hiện các cảm giác và
những phản ứng. Linh hồn: là phần quan trọng nhất, đây là phần thâm sâu
vi điệu nhất của con người và cũng chính nhờ phần này mà sự luân hồi,
đầu thai, chuyển sinh được thực hiện thuận lợi.
Đối với người Ai Cập thì khi chết linh hồn
sẽ thoát khỏi thể xác như chim bay vì thể họ dùng hình ảnh một phi điểu
biểu tượng cho linh hồn thể xác thì tan rã nhưng linh hồn thì tường tồn
và chuẩn bị chuyển vào một cuộc sống mới khác qua một thân xác khác.
Việc ướp xác của người Ai Cập phần lớn chủ
đích muốn duy trì sự liên hệ giữa linh hồn và thân xác được lâu dài.
Đối với người Tây Tạng thì hồn là phần linh
diệu trú ngụ trong một phần gọi là thân xác. Thể xác chỉ có cái vỏ cho
hôn trú ngụ mà thôi. Hồn và xác liên hệ nhau qua một thể giống như sợi
dây đặc biệt có từ tính. Khi sợi dây ấy đứt chính là lúc hồn lìa khỏi
xác.
Đối với các nhà triết học thì từ cổ đại,
một số nhà triết học như Platon, Pythagore, Hereclite. Empedocles,
Aristote Epicure đề có nghiên cứu và
đề
cập nhiều đến linh hồn và coi linh hồn như là một thể quan trọng trong
sự chuyển hóa đời sống. Về sau có Plotin, Descartes, Pascal,
Shopenhauer, Ralph Waldl Emerson, Frederic William Henry Myers... tiếp
nối sự nghiên cứu, tìm hiểu cũng như tin tưởng vào sự hiện hữa của linh
hồn.
Plotin tin rằng: con người phạp tội, khi
chết linh hồn rời khỏi thân xác sẽ nhập vào một cơ thể khác để trải qua
một kiếp sống khác nhằm trả nợ những tội lỗi, sai lầm mà người ấy đã gây
ra trước đó. Như vậy, theo Plotin thì sự tái sinh hay đầu thai phát sinh
là do ở tội lỗi mà ra. Chính những sai lầm, những hành động từ trước của
ta đã gây ra những trừng phạt kế tiếp mà ta phải trả.
D. T. Suzuki ghi nhận rằng: sau khi chết,
linh hồn sẽ chuyển từ một thân xác này sang một thân xác khác thuộc cõi
thiên, nhân, động vật, thực vật...
Đối với c tôn giáo thì mặc dầu có khác nhau
về lý thuyết nhưng hiếm có tôn giáo nào phủ nhận về linh hồn.
Theo Ấn Độ giáo thì linh hồn là thực thể vô
cùng quan trọng đối với mọi vật thể sống. Linh hồn được gọi là Atman và
do đấng toàn năng Brahma tạo ra. Theo Ấn Độ giáo thì tất cả mọi loài
sống trên quả đất này đều có linh hồn. Linh hồn bất sinh bất diệt. Linh
hồn giúp sự tái sinh chuyển hóa. Linh hồn chuyển hoán từ thân xác này
qua thân xác khác để trải qua một kiếp sống khác, cứ thế cho đến khi đạt
được điều kiện để hợp nhất hay liên kết với Brahma mới thôi. Brahma được
hiểu như linh hồn của vũ trụ.
Theo quan niệm của Ky Tô giáo thì con người
là một linh hồn và vì con người là một linh hồn nên khi chết, linh hồn
cũng sẽ chết theo. Như vậy đối với Ky Tô giáo, linh hồn hiện hữa nhưng
nhưng linh hồn không thể biệt lập và riêng tư đối với thể xác. Tuy nhiên
cần lưu ý là, theo quan niêm Ky Tô giáo thì "linh hồn nào phạm tôi thì
sẽ chết (Ê Xê Chiên 18: 4 và 20) và
đến
ngày phán xét: "mọi người trong Mồ Mả nghe tiếng ngày và ra khỏi: ai làm
lành thì sống lại để được sống, ai làm ác thì sống lại để bị xét đoán...
(Giăng 5: 28 - 30). Như thế, khi một linh hồn chết đi (người là một linh
hồn) thì có thể trong tương lai, trong này phán xét, linh hồn ấy sẽ sống
lại và qua sự phán xét của Đấng tối cao, sẽ được sống đời đời hay chết
vĩnh viễn.
Đối với Khổng giáo thì con người là kết hợp
của thể các, hồn, khí và phách. Phách hay vía, không phải là thể xác
(như thể xác đối với tinh thần, mà là những nguyên lý của sự sống nhưng
hạ đẳng. Không thể xem phách là thể xác (corps) được, những thành ngữ
phổ biến trong dân gian chứng minh điều đó. Như vía độc: fluide vital
irefacte đốt vía (để trừ khử hơi hay khí độc, hay xui xẻo, hay: hồn phi
phách lạc (hồn hay phách, hay vía, hay khí rơi: hoảng hốt, sợ hãi (I'ame
s'envole, le suoffle tombe, épouvanté)... khi chết, chỉ có hình hài tan
rã, còn cái khí tinh anh sẽ vào trong vũ trụ.
Riêng đối với Phật giáo thì sinh vật, nhất
là con người, có cái năng lực vi diệu được chuyển từ kiếp này qua kiếp
khác. Cái năng lực ấy được gọi là Yid Kyi Mawpar Shespa, một danh từ ất
đặc biệt phức tạp mà thông thường được hiểu như cái gọi là Linh Hồn. Hai
chữ linh hồn đối với quan niệm Phật giáo thật ra chỉ là danh từ tạm dùng
mà tạm hiểu cho thuyết luân hồi chuyên hóa của kiếp người theo luật
Karma (nghiệp) để người bình dân dễ lĩnh hội mà thôi. Vì con người
thường hiểu nhầm chữ Linh Hồn với Thân Trung Ấm hay Thân Thức là phần
lìa khỏi thân xác sau khi chết. Tuy nhiên, để dễ hiểu khi giải thích sự
chuyển hóa của hiện tượng luân hồi, tái sinh, linh hồn được xem như cái
cầu nối, là cái chuyển sinh là cái để đầu thai, trả nghiệp. Vì thế nhiều
sách Phật giáo thỉnh thoảng vẫn thấy bóng dáng chữ Hồn hay Linh Hồn vì
một phần nào để giản dị hóa cho vấn đề là con người sau khi chết sẽ lại
tái sinh tùy theo những gì mà người ấy đã gây ra trước đó.
Sau khi con người trút hơi thơ cuối cùng
thì cái mà ta gọi là linh hồn tuy đã thoát khỏi thể xác nhưng lúc này
"linh hồn" còn như ở trong tình trạng tự do, chưa nhập vào một thân xác
mới, giai đoạn này phải trải qua một thời gian là 49 ngày. "linh hồn"
thuộc giai đoạn 49 ngày này được gọi là Thân Trung Ấm, một cái "thân"
khác với nhục thâ đã bất động là thân xác. Thân trung ấm còn được gọi là
Thần thức.
Phần lớn con người khi chết đều phải qua
giai đoạn trun âm này (ngoại trừ những người đã cósẵn đạo đức tu hành,
nghiệp quả lớn thì được sinh ngay lên cảnh giới cao còn những người ác
độc thì phải sinh vào địa ngục sau khi chết). Thân trung ấm có thể xem
như linh hồn, tuy không có hình hài, tai mắt... nhưng vẫn biết, vẫn
thấy, vẫn nghe và
đặc
biệt lại có thể đi thông suốt qua mọi vật, nhưng con người đang sống
không thể thấy được thân trung ấm.
Trong Luận Câu Xá (cuốn thứ 9) có một đoạn
mô tả về thân trung ấm như sau:
Thân trung ấm của chúng sanh nơi Dục giới
có kích thước bằng một đứa bé 5 đến 6 tuổi nhưng linh hoạt sáng suốt vô
cùng. Thức ăn chỉ toàn là mùi hương vì thế mà có tên là Càn thát ba
(nguyên văn: Dục giới trung hữa chi lượng, như tiểu nhi niên ngũ, lục
tuế, nhiên chư căn minh lợi, Dục giới chi trung hữa dĩ hương vi thực,
nhân chu xưng chi vi Càn thát bà) (theo T.T Thích chánh lạc Sống và
Chết).
Khi chết, thân xác không còn biết gì nữa.
Lúc ấy "linh hồn" đang ở vào trạng thái của thân trung ấm hay thần thức.
Thần thức sẽ rời khỏi thể xác. Thời gian tách rời ấy nhanh hay chậm còn
tùy vào nhiều vấn đề. Tổng quát có thể chia ra làm 2 trường hợp chính
sau đây:
1 Trường hợp thứ nhất: Thân trung ấm ngay
thân xác trường hợp này hiếm, chỉ có những bậc chân tu, đức độ, đã rủ
sạch được nghiệp quả.
2. Trường hợp thứ nhì: thân trung ấm rời
khỏi thân xác sau một thời gian hoặc sau nửa ngày, sau vài ngày hoặc lâu
hơn là 49 ngày.
Theo các vị Lạt Ma Tây Tạng thì hồn lìa
khỏi xác trong khoảng thời gian 3 ngày đầu sau khi chết rất quan trọng
vì hồn cò thể còn nuối tiếc thân xác và cuộc sống nên vẫn còn lẩn quẩn
không chịu rời.
Đối với trường hợp những người bị tai nạn,
bị giết hại một cách bất ngờ thì sự tách rời của "hồn": ra khỏi thể xác
lúc đó xảy ra quá nhanh, bất thình lình nên đã tạo nên một sốc lớn khiến
thể xác có những tư thế bất bình thường qua các phản ứng cơ thể với tác
nhân bên ngoài. Thể xác sẽ có những tư thế nằm, ngồi co quắp hay gương
mặt nhăn nhó, mắt mở trừng trừng, mồm há hốc. v..v...
Mới đây ký giả Báo Paris Match là Patrice
Van Eersel đã viết cuốn sách nhan đề "Ia source Noire", trong đó ông
trình bày những trường hợp đặc biệt về những người chết đi sống lại mà
những nhà khoa học, những giáo sư, bác sĩ tại các Đại Học Hoa Kỳ đã lưu
tâm nghiên cứu. Theo các nhà nghiên cứu này phần lớn những người chết đi
sống lại ấy đều không ít thì nhiều đã có những cảm nhận lạ lùng là
thấy... "hình như" họ đã thoát khỏi thân xác trong một khoảng thời gian
tương ứng với lúc họ mê man bất động. Điều đặc biệt là "họ thấy chính
họ" đang nằm chết. Nhà nghiên cứu những hiện tượng huyền bí Joe West Hoa
Kỳ) năm 1991 cũng viết cuốn sách nói về những điều bí mật lạ kỳ đáng lưu
ý ở nước Mỹ (Great American Mysteries) ông nghi nhận rằng: có đến hơn
3.000.000 người Mỹ đã trải qua những kinh nghiệm về sự rời lìa của chính
họ ra khỏi thân xác họ trong những trường hợp khác nhau như tai nạn,
bệnh tật, mổ xẻ... có người thấy rõ được mình, đã rời khỏi thể xác và
đi
khá xa đến những nơi mà khi mô tả lại đều trùng hợp với những gì kiểm
chứng sau đó từ thời gian, địa điểm, địa danh, sự việc xảy ra. v.v...
Bác sĩ Eugene E. Barnard (giáo sư thuộc nghành Bệnh Học Tâm Thần
(Psychiatry) ở Đại Học thuộc Bắc Carolina tin rằng: trung bình cứ 100
người trong chúng ta thì có một người đã có lần cảm nhận được điều đó.
Nhà Tâm bệnh học John Bjorkhelm đã khảo cứu hơn 3000 trường hợp về
những hiện tượng lạ thường mà khoa học không giải thích được, những sự
"xuất hồn và chu du nhiều nơi của một số người. Trường hợp nổi bật nhất
cũng là chứng cớ sôi nổi nhất đã do chính Văn Hào Emest Hemingway kể lại
trong lần bị thương nặng đến thập tử nhất sinh nơi chiến trường trong
trận thế chiến thứ 2. Ông đã thấy rõ ràng chính ông đã thoát ra khỏi cơ
thể của ông giống như như hình ảnh của việc lôi cái khăn tay ra khỏi túi
áo, rồi sau đó ông thấy chính mình trở lại, nhập vào cái tha6nn xác của
chính mình lúc hồi tỉnh... Chính sự kiện này đã là nguyên nhân thúc đẩy
ông viết cuốn: Giã Từ Vũ Khí (A Farewell to Arms), cuốn sách hấp dẫn
thuộc loại beest seller. Năm 1991 Jim Hogshire cũng thu thập các sự kiện
liên quan đến vần đề "hồn lìa khỏi xác". Đề tài Out of body đã được nói
nhiều trong cuốn Life after Death (Đời sống sau khi chết). Theo nhà
nghiên cứu hiện tượng vừa nói là Jim Hogshire thì các nhân chứng thường
là bác sĩ, y tá, bệnh nhân... không những chính bản thân của người bị
của người bị nạn thấy "hồn" mình thoát khỏi cơ thể mình vào lúc họ thiếp
đi vì tai nạn, mổ xẻ... mà ngay những người đang ở kề cận họ lúc đó cũng
có thể thấy được điều đó. Cô y tá Linda ở Floria đã kể rằng chính mắt cô
thấy rõ một khối mờ đục có dạng như sương khói thoát khỏi cơ thể một
người bệnh đúng lúc người ấy tắt thở. theo các bác sĩ và nhân viên làm
việc ở các bệnh viện cấp cứu (emergency) thì sự kiện vừa nêu không phải
là chuyện lạ lùng. Bác sĩ Josef Issels, (bác sĩ nổi danh về khoa ung thư
ở Đức) cho rằng: hiện tượng người chết "xuất hồn" là chuyện mới nghe qua
có vẻ kỳ bí và phản khoa học. Nhưng đó là một vấn đề trước mắt mà giới y
khoa cần phải lưu tâm. Nếu xét theo hiện tượng Vật lý thì hơi ra từ nắp
ấm nước cho thấy nước đã bắt đầu sôi thì khối hơi trắng đục thoát ra
khỏi cơ thể bệnh nhân cũng chỉ là dấu hiệu của sự chết bắt đầu. Cái khối
hơi ấy là hồn, là linh hồn hay gì đó thì cũng chỉ là tiếng gọi mà thôi.
Điều quan trọng là khoa học cần lưu tâm nghiên cứu xem đó là gì? Và phần
thoát ra khỏi cơ thể ấy sẽ đi đâu? Nhiệm vụ nó là gì?... " Có lần theo
lời thuật lại của chính bác sĩ Josef Issels thì một hôm đang ở bệnh
viện, ông vào phòng của một nữ bệnh nhân già, bà nhìn ông chăm chăm và
nói: "Bác sĩ có biết rằng tôi có thể rời khỏi thân xác tôi không? Tôi sẽ
cho bác sĩ một chứng cớ về vấn đề này..." Bác sĩ Josef lấy làm lạ chưa
kịp trả lời thì bà lại nói: "Ngay tại đây và ngay bây giờ, bác sĩ hãy
đến phòng số 12, tại đó sẽ thấy một người đàn
bà
đang
ngồi viết thư cho con..." rồi bà ta còn mô tả hình dạng của người đàn
bà
đó
và nội dung phần đầu của bức thư. Cho dây là một dịp thuận lợi là lùng
cho mình, bác sĩ Josef Issels vội vã đến ngay phòng sối 12 vừa lúc thấy
người đàn
bà ngồi viết thư... Bác sĩ Josef liền quay trở về phòng nữ bệnh nhân gài
thì bà
đã
chết. Theo bác sĩ Josef thì rõ ràng người bệnh này đã thấy được những gì
ở phòng số 12 cách phòng bà khá xa là nhờ một năng lực nào đó. Nếu đúng
như lời bà nói "tôi có thể rời khỏi thân xác tôi..." thì có thể ngoài
thể xác, bà còn có một thể xác nữa đã có thể rời khỏi bà
đi
tới đó. Cái thể mà người ta thường gọi là hồn ấy cò khả năng đi xuyên
qua tường, cây cối hay xuyên qua người khác...
Một trường hợp khác Jacky C. Bayne, quân
nhân Mỹ đã kể lại rất rõ (như đã nói từ trước) trong khi chiến đấu tại
Việt Nam (trong trận chiến ở Chu Lai) đã bị thương nặng và trong giờ
phút ngất xỉu ấy, anh ta thấy mình thoát ra khỏi thể xác và
đã
thấy rõ ràng thân xác mình ở trên bàn mổ...
Tuy nhiên, một số nhà khoa học không tin
vào những gì mà chính cả những đồng nghiệp của mình đã kể lại về cái
hiện tượng vừa nói. Bác sĩ Karl Osis, Giám Đốc Viện Nghiên Cứu Tâm Thần
ở Hoa Kỳ (người đã viết cuốn sách nói về những người chết trên giường
bệnh và những hiện tượng quan sát được qua những cái chết ấy bởi các
thầy thuốc và y tá (Deathbed Observations by Physicans and Nurses), mới
đây đã cho biết là hai nhà nghiên cứu các hiện tượng liên quan đến cõi
chết là W. F Barretl và bác sĩ J.H. Hyslop đã có những nhận xét thuộc
hiện tượng ảo giác (Hallucinations). Những ảo giác về người chết thường
bao gồm từ những cái nhìn mơ hồ của người sắp chết và cả người sống lúc
nhìn sự vật, nhất là sự vật ấy đượm nét siêu linh huyền bí. Thông
thường, đối với những người đang sống, chẳng có gì khác lạ đối diện gặp
gỡ nhau. Nhưng cũng là người quen biết ấy, gặp vào lúc họ sắp qua đời
hay trút hơi hở cuối cùng thì rõ ràng giữa người sống và người chết đã
có sự khác biệt hoàn toàn. Cái cảm giác ấy có ở hầu hết mọi người. Trong
giờ phút đó, cái cảm giác sợ hãi, xa cách giữa sự sống và sự chết nẩy nở
rất nhanh và sự nhìn, sự nhận định sẽ phần nào chịu ảnh hưởng của những
cảm giác vừa kể, được tăng cường đối với không khí huyền bí siêu linh
của sự chết làm dễ phát sinh những nhận xét thuộc về hiện tượng ảo giác.
Người yếu bóng vía có thể tưởng tượng ra nhiều hình ảnh phát sinh từ
người chết. Hiện tượng trông thấy linh hồn xuất ra từ thân xác người
chết cũng thuộc vào một trong những ảo giác. Như thế, rõ ràng nhiều nhà
khoa học đã cho rằng những gì mà nhiều người đã thấy, đã kể lại về sự
kiên xuất hồn ở người mới lìa đời chi là hiện tượng ảo giác mà thôi.
Ngược lại, những nhà khoa học đang nghiên cứu về hiện tượng xuất hồn
hiện nay mặc dầu chưa khẳng định hoàn toàn có hay không hiện tượng lìa
khỏi xác nhưng họ cũng không đồng ý với lập luận về hiện tượng ảo giác
mà một số nhà khoa học đã nêu ra. Theo họ, có thể sự nghi ngờ ấy chỉ là
đặc
tính của phần lớn các nhà khoa học mà thôi đó là
đặc
tính thận trọng Trong thực tế, những trường hợp lạ lùng có tính cách
siêu linh khó lý giải vẫn thưởng xảy ra và
được
thực rõ ràng.
Bác sĩ Crookall và F. W. H Myers đã sưu tập
hành trăm trường hợp về vấn đề liên quan đến cái gọi là "hồn lìa khỏi
xác" và họ phân ra hai trường hợp chính: Một là những kinh nghiệm đã
trải qua về hồn rời thân xác và hai là những tin tức, dữ kiện thu nhận
được thông qua những người ngồi đồng, những đồng tử (medium), giáo sư C.
J. Ducasse là một trong những nhà triết học và khoa học tự nhiên nổi
tiếng đã tìm cách lý giải những gì mà hiện nay giới khoa học đang bàn
cãi sôi nổi về sự kiện có hay không cái gọi là hồn hay linh hồn và sự
rời lìa của hồn khỏi xác khi chết. Theo giáo sư thì hiện nay, các nhà
nghiên cứu và ngay cả các nhà khoa học đã dấn thân vào lãnh vực tìm hiểu
sự thật của vấn đề. Họ đã thu thập vô số trường hợp có liên quan, những
mô tả về điều mà họ gọi là linh hồn, về sự liên kết giữa linh hồn và thể
xác qua một vật thể giống như một sợi dây, sự rung động đầy sức sống của
sợi dây ấy và cả trường hợp sợi dây liên hợp ấy đứt rời để cái gọi là
"hồn" tách lìa khỏi thể xác cũng được nhiều người mô tả, sự mô tả thường
đồng nhất và nhân chứng không phải chỉ có người lớn mà còn là trẻ con,
sự kiện mà chúng chưa bao giờ nghe, đã thấy hay đã đủ khả năng nghĩ tới.
Nhà phân tâm học Hippolyte Baraduc đã tận
mắt trông thấy một khối hơi thoát ra khỏi cơ thể người vợ ông khi bà này
trút hơi thở cuối cùng. Ông Baraduc đã chụp được bức ảnh lạ lùng này.
Một tài liệu sưu tầm về hiện tượng này đã
được tạp chí tiền phong 1991 đăng tải, theo đó, nhiều nhà khoa học đang
mạnh dạn bước vào lãnh vực nghiên cứu về linh hồn.
Như nhà khoa học Jan Lundquyst đã quyết tâm
tìm hiểu sự thật về vấn đề linh hồn khi ông trông thấy một thứ ánh sáng
màu xanh xuất phát từ cơ thể người vừa lìa đời. Bác sĩ phân tâm học
Elizabeth Kubler Ross thì khẳng định rằng: "trước đây tôi không tin về
những gì gọi là
đời
sống sau khi chết. Nhưng nay tôi đã có một vài chuyển hướng trong cách
nhận định của tôi về vấn đề này".
Sau đây là một số hình ảnh mà các nhà
nghiên cứu như các bác sĩ Raymond Moody Jr., Robert H. Elizebeth Kubler
Ross, Iair Stevenson, giáo sư Carey Williams chuyên nghiên cứu về những
gì sau cõi chết... đã thu thập được từ những người đã gần gũi với cái
chết hay đã có lần chết đi sống lại, đã trải qua một đoạn đường vượt qua
ranh giới cõi sống và cõi chết, nghĩa là bước đi một khoảng đường đi qua
bên kia cửa tử để rồi vì một lý do nào đó lại quay về... đã sống lại.
Trong một bài sưu tập về những hình ảnh của những người đã chết đi sống
lại đã mô tả, nhan đề "trở về từ cõi chết" đăng tải trong L.S. Tiền
Phong 1992, tác giả Thế Vỹ đã nêu ra ba trường hợp chính sau đây:
1. Một người tên là Iva Brawn, sinh sống ở
Lamiraada (Cali) đã bị tai nạn xe hơi khi băng ngang qua đường lộ. Người
này bị xe hất tung đi rất xa và ngất xỉu. Trong thời gian mê man như
chết đó, người này đã thấy nhiều hình ảnh lạ lùng: nguồn sáng từ đâu
chói lòa bao phủ và có tiếng nói phát ra từ ánh sáng đó "đừng sợ, con sẽ
không sao cả" sau 6 ngày hôn mê, người ta cứ ngỡ rằng bà chết nhưng rồi
bà sống lại và bà kể chuyện này cho người chồng nghe. Mấy năm sau, chồng
bà Iva Brawn mất và một năm sau bà Iva Brawn đang nằm ngủ bỗng nhiên
thấy chồng mình xuất hiện nói với bà rằng: "Cách đây mấy năm, mình có kể
cho tôi nghe những gì mà mình đã thấy trong vụ tai nạn xe hơi, nhưng tôi
không hiểu giờ đây, tôi đã hiểu nơi đây thật đẹp, nhất là nước. Mình
không thể tưởng tượng được là nước ở đây đẹp đến độ nào..."
2. Một phụ nữ tên là Sttooksbury kể lại rằng, bà bị chính người chồng
dùng dao quyết tâm đâm chết nhưng nhờ bề trên che chở, bà
đã
được sống lại trước sự kinh ngạc của các y bác sĩ ở bệnh viện.
Sttooksbury kể rằng: "lúc bị ngất đi và
được
mang vào bệnh viện ai cũng tưởng tôi chết vì máu ra quá nhiều, riêng
tôi, tôi cảm thấy như trôi vào một đường hầm tối đen... ở ngưỡng cửa
sinh tử, tôi đã trông thấy mẹ tôi đứng đó thật rõ ràng, bà
đưa
tay vẩy vẩy ra dấu bảo tôi hãy trở về: "Hãy trở lại đi, chưa tới lượt
con đâu!"
3. Bà Connie Zickefoose ở Cloverdale (tiểu
bang Ohio) kể rằng: lúc đó tôi đang ở trên bàn sanh, đầu óc tôi quay
cuồng rồi một màn đen phủ ập lên... tôi thấy mình đi trên con đường đầy
ánh sáng, hoa nở, hồ nước với cá lội muôn màu... Tôi vào một căn phòng,
trong đó có chúa Jesus. Chúa ân cần đặt bàn tay lên vai tôi và nói: "con
không vào được đâu! vì một khi con đã vào thì không thể ra được phải
nhanh lên vì ở đây không có thì giờ và trên cõi thế, giờ của con cũng
sắp hết rồi! thế rồi tôi trở lại, tôi thấy thân thể tôi rõ ràng ở trên
bàn sanh, mặt tái nhợt. Các bác sĩ đang yên lặng, có lẽ họ nghĩ tôi đã
chết, rồi tự nhiên họ reo lên vì biểu hiện sự sống nơi tôi đã thể hiện
qua cái máy gắn vào cơ thể tôi.
Trong cuốn "In search of the Dead" củ
Jeffrey Iverson tác giả Jeffrey đã nêu ra rất nhiều trường hợp của những
người chết đi sống lại kể về những gì họ đã thấy.
Kể từ khi cuốn sách Đời tiếp nối đời (life
after life) xuất bản năm 1975, hàng ngàn trường hợp liên quan đến vấn đề
tiếp cận đến những hình ảnh thấy được sau khi chết được báo cáo, phân
tích và nghiên cứu.
Bác sĩ Melvin Morse đã kể lại một trường
hợp có thật đã xảy ra như sau:
Vào năm 1982, một bé gái 7 tuổi bị rơi vào
một hồ bơi, khi vớt lên, thì bé gái này đã ngưng thở gần 20 phút đồng
hồ. Các bác sĩ cho rằng cháu bé này đã chết. Nhưng như có một phép lạ,
nhờ hô hấp nhân tạo, cháu bé đã tỉnh lại và sau đó kể những gì mà cháu
đã trải qua trong thời gian coi như đã chết ấy. Cháu cho biết đã gặp một
người mà cháu nghĩ rằng đó là Chúa Trời. Người hỏi: "cháu có muốn ở lại
đây không thì cháu bé trả lời muốn nhưng người lắc đầu; con còn mẹ, con
có trách nhiệm với người mẹ đang còn sống, vì thế con nên trở về..."
Ngoài ra cháu bé còn kể rằng cháu đã gặp
nhiều trẻ con và người lớn, những người này đi lại tự nhiên nhưng nét
mặt không vui và không rõ nét lắm. Ở đây có nhiều người tập trung như
chuẩn bị đi đâu đó có lẽ đang chờ tái sanh. Khi bác sĩ Melvin Morse hỏi
cháu bé rằng: cháu đã tỉnh lại lúc nào cháu biết không thì cháu bé trả
lời là khi nghe Chúa bảo con có trách nhiệm với mẹ đang còn sống hãy trở
về thì vừa lúc cháu tỉnh lại...
Bác sĩ Melvin Morse còn tiếp tục tìm kiếm
và phỏng vấn những trẻ con khác, những trẻ con đã có lần tiếp cận với
cái chết hay đã có lần chết đi sống lại. Điều kỳ lạ là nhiều trẻ nhỏ đã
mô tả lại cả những hình ảnh mà lúc đó chúng đang trong tình trạng hôn
mê. Như đã trông thấy các nhân viên bệnh viện làm việc ra sao, đẩy băng
ca mà trẻ đang nằm bất tỉnh vào phòng mổ, rồi bác sĩ đặt ống thở vào
mũi, rồi những cái máy hồi lực, đo nhịp tim... tuy bé không hiểu gì
nhưng mô tả khá linh động và bác sĩ Melvin Morse đã cố gắng thành lập
các nhóm khảo cứu gồm những nhà thần kinh học, những chuyên gia chuyên
chữa trị bệnh thần kinh (psychiatrists), neurologists... để tìm hiểu do
đâu mà khi bất tỉnh mê man thường phát sinh ra những hình ảnh lạ lùng và
thường hay trùng hợp, tương tự khi so sánh với những trường hợp như thế
với người khác. Sau một thời gian, một vài kết quả sơ khởi đã được nêu
ra. Những nhà nghiên cứu này nhận thấy rằng: Thùy thái dương ở não bộ có
vai trò quan trọng đối với hiện tượng vừa kể trên. Thùy thái dương (the
temporal lobe) được xem như vùng có những mật mã di truyền về những gì
gần gũi với cái chết. Khi bị kích thích điện não một thành viên trong
nhóm đã kêu lên "Ôi chúa tôi! tôi đã rời thân xác tôi rồi!" Phải chăng
trong thùy thái dương của não bộ có một vùng liên quan mẫn cảm với một
thể mà ta gọi là linh hồn. Nhưng nguyên nhân nào đã gây lên tác động ở
thùy này của bộ não? Tại sao khi hôn mê phần này sẽ được kích động để
biết linh hồn tách khỏi thể xác và những hình ảnh ở cõi giới khác xuất
hiện.
Một bệnh nhân tên Jack cũng đã kể lại những
gì mà mình đã trải qua khi anh đang ở trong giai đoạn hôn mê. Jack đã mô
tả những cảnh trí như vừa nói trên và anh ta đã theo tiếng gọi xuất phát
từ khối cầu sáng đưa anh xuyên qua nhiều phòng. Sau cùng khi trở lại
thân xác mình anh có ảm tưởng như có người nào đó ở cõi giới vô hình
đang đợi anh. Anh nghĩ rằng anh sẽ chết. Ngày mai người ta sẽ đưa anh
vào phòng mổ. Anh cố viết hai lá thư, một lá thư cho vợ và một lá thư
cho con. Anh có cảm tưởng những lời viết trong thư là những lời giã
biệt. Thế rồi anh khóc. Vừa lúc đó anh có cảm tưởng như ai đang ở bên
cạnh và có tiếng hỏi: Sao lại khóc? Anh có thích theo ra không? Anh trả
lời trong tâm trí mình: vâng tôi thích, tôi muốn ra đi! tiếng nói lại
văng vẳng bên tai: thế tại sao lại khóc? anh trả lời: tôi đang khóc vì
thương nhớ vợ và con, Tôi nghĩ khi ra đi, ai lo cho vợ con tôi...?! Có
tiếng đáp lời anh "Vậy là tốt, anh đã nghĩ đến người khác hơn là nghĩ
tới mình, anh sẽ được sống cho đến khi cháu bé trưởng thành.
Ngày hôm sau cuộc giải phẫu tuy có nhiều
khó khăn nhưng bác sĩ Cofeman và
đồng
sự đã cố gắng hết mình nên đã đem lại kết quả tốt lành, Jack hồi tỉnh...
Những trường hợp đáng lưu tâm:
Dưới đây là lời kể của một người đàn
bà
đã
phải trải qua một giai đoạn gần gũi với cái chết. Nhà nghiên cứu Verlyn
Klinkenborg chuyên phỏng vấn nhưng người đã đi vào cõi chết ghi lại lời
kể sau đây của một thiếu phụ:
"Tôi nhớ là mình đã bị sốt cao, nhiệt độ cơ
thể lên đến 106 độ (độ F). Tôi như bị loạn nhịp tim. Toàn thân cảm thấy
đau nhức, ớn lạnh nóng ran xen kẽ. Tôi cảm thấy đau đớn lạ thường. Tôi
bị nhiễm trùng đột ngột. Trong lúc ý thức tôi chìm đắm dần vào cơm mê
thì tôi nghe văng vẳng bên tai tiêng kêu... "tôi không thể, tôi không
thể kiểm soát nổi huyết của bà ta nữa rồi!" (có lẽ đó là tiếng kêu than
của bác sĩ đang theo dõi cơn sốt của tôi.
Rồi bỗng nhiên torng khoảnh khắc, tôi thấy
vô số những phần nhỏ li tu xuất hiện tràn đến, tôi lâng lâng và cảm thấy
nhẹ bỗng một cách lạ thường và tôi thoát ra khỏi cơ thể của chính tôi dễ
dàng như cởi bỏ bộ áo choàng và cùng lúc như trút lại đàng
sau cơn đau khủng khiếp mà trước đó đã hành hạ tôi. Tôi như bay lên phía
góc của trần nhà trong căn phòng bệnh viện. Từ đó tôi thấy phía dưới các
bác sĩ, các cô y tá đang lăng xăng lo cứu mạng sống của tôi. Một bác sĩ
lộ vẻ bối rối, nét mặt lo âu thực sự vỉ có lẽ tôi đã chết dưới nhận định
của ông và của mọi người đang có mặt trong phòng. Tôi nghe tiếng bác sĩ
làu bàu như nguyền rủa cái gì đó và vô tình ông ngước nhìn về phía góc
trần nơi tôi đang ở đó, nhưng chắc chắn là ông ta không trông thấy được
tôi. Một thoáng sau, tôi bắt đầu trôi dần vào một vùng sâu thẳm lạ lùng,
có thể ví đó là một đường hầm có miệng hun hút như cái giếng với những
lớp mây màu xám đục bao phủ nhưng tôi vẫn có thể thấy được mình đang
xuyên qua những lớp mây giăng phía trước... Tôi nghe bên tai tiêng gió
vun vún tôi như lướt đi mặc dầu lúc đó tôi không còn có thân xác nữa vì
thân xác tôi đang năm trên giường với tấm ráp phủ lên thân mình.
Lúc bấy giờ tôi cảm thấy nỗi kinh dị lạ
lùng đến cùng với vầng sáng, những tia sáng vàng rực rỡ và tôi hòa vào
những ánh sáng ấy. Tôi có linh cảm rằng mình đang đi vào nơi tận cùng
của thế giới, đang qua một nơi trung gian của thế giới tôi đang sống với
thế giới khác... tôi muốn tiếp tục tiến sâu vào nơi chan hòa ánh sáng lạ
kỳ ấy nhưng lại như có cái gì đó níu kéo tôi dừng lại. Tôi bỗng sực nhớ
đến hai con tôi. Tôi không thể xa chúng, tôi phải săn sóc chúng.
Thế rồi tôi lại thấy những chấm nhỏ li ti
xuất hiện lần thứ hai y như lúc tôi vừa bị rơi vào đường hầm hun hút.
Tôi nghĩ mình đang quay về đường cũ. Tôi đến gần thể xác mình và nhập
vào cái thân xác bất động ấy. Sự việc có vẻ tự nhiên và dễ dàng như lần
tôi thoát khỏi thân xác mình. Tôi cảm thấy mình có sức nặng và bỗng
nhiên cảm giác đau đớn lại đến... vừa lúc tôi nghe có tiếng động xôn xao
và có tiếng kêu lên: "Bà ta đã sống lại rồi kìa!". Sau đó, bác sĩ cho
tôi biết là
đứa
con tôi vừa mới chào đời đã chết...
Từ đó, tôi luôn luôn giữ mãi những hình ảnh
lạ lùng về những gì mà tôi đã trải qua, những hình ảnh ấy cứ chập chờn
mãi trong tâm trí nhất là vào mỗi đêm
trước khi đi ngủ và tôi nghĩ rằng: "mình đã có một lần chết đi sống
lại", và tôi tự hỏi: phải chăng đoạn đường tôi mới bước qua là
đoạn
đường dẫn vào thế giới khác, một thế giới khác xa với thế giới mà tôi
hiện đang sống.
Một trường hợp đặc biệt khác cũng đáng lưu
tâm là ngay chính một bác sĩ (thuộc khoa tâm thần học và là giáo sư bác
sĩ tại một trung tâm y khoa lớn kiêm bệnh viện thuộc đại học đường
Virginia) trước đó cũng đã trở về từ cõi chết tường thuật lại những gì
ông đã thấy qua một lần chết đi sống lại: Giáo sư bác sĩ George Richie,
trước đây là một quân nhân bị bệnh sưng phổi nặng nên được chuyển vào
một bệnh viện lớn chữa trị. Thời đó, thuốc penicilline chưa được phát
minh nên việc chữa trị bệnh sưng phổi vô cùng khó khăn và thường thường
thì hết 90 phần trăm là người bệnh khó thoát khỏi lưỡi hái của tử thần.
Vì thế một thời gian ngắn khi được chuyển vào bệnh viện, bệnh tình của
George Ritchie ngày càng trầm trọng và
đã
qua đời. Các bác sĩ ở bệnh viện đã xác nhận rằng George Ritchie đã chết
nên người ta chuyển xác đến nhà quàng. Tại đây một số thủ tục giấy tờ,
khai tử và chuẩn bị đưa người chết vào quan tài đang được tiến hành và
một mặt báo tin cho nhân viên trông coi về các thủ tục nhập học và tiếp
nhận sinh viên được gởi từ các nơi đến để được huấn luyện các khóa
chuyên môn tại đại học Virginia biết là khóa sinh George Ritchie đã
chết. Tuy nhiên bác sĩ trực nhật cho rằng điều này không cần thiết vì
thế việc báo tin cho đại học Virginia được bãi bỏ. Trong lúc Ritchie nằm
duỗi trên chiếc băng ca, bác sĩ trực khám lại một lần nữa và lắc đầu
thất vọng, ông nói, giọng rất trầm "chết thật rồi" vừa nói, bác sĩ này
vừa kéo hai cánh tay người chết cho thẳng ra để lòng bàn tay úp xuống.
Sau đó phủ tấm drap lên khắp thân xác người chết. Lúc bấy giờ, nhà xác
đầy người chết vì thế bác sĩ trực đề nghị cử người canh xác và chính nhờ
người canh xác này mà sau đó anh ta phát giác được người chết đã cựa
quậy dưới tấm drap trắng. Các nhân viên trực nhật khi nghe người canh
xác báo cáo sự việc đều. Chỉ có bác sĩ trực và cô y tá chịu lắng nghe và
họ đã đến bên xác Ritchie. Khi tấm drap được kéo khỏi mặt Ritchie bác sĩ
trực đã dùng 2 ngón tay lật mi mắt xác chết để quan sát, trong khi đó,
cô y tá thấy rõ ràng các ngón tay của Ritchie cử động... và từ từ
Ritchie mở mắt. Thế là George Ritchie, người quân nhân chết vì bệnh sưng
phổi đã sống lại một cách kỳ lạ và vì cơ thể còn quá yếu nên phải nằm
bệnh viện chờ bình phục một thời gian khá lâu và sau đó mới được chuyển
về trại Barkey rồi sang Âu Châu phục vụ trong quân đội ở ngành quân y.
Sau cuộc chiến, George Ritchie tiếp tục vào học ngành y tại đại học
Virginia và tốt nghiệp khoa bác sĩ.
Bác sĩ George Ritchie đã nhớ lại những gì
mà mình đã trải qua trong suốt khoảng thời gian coi như đã giã từ cõi
đời. Mọi chi tiết bác sĩ đều ghi lại thật đầy đủ và về sau câu chuyện có
thật này còn được giáo sư bác sĩ Wilfred Abse ở đại học Virginia kể lại
và nhất là giáo sư Carey Williams và chuyên gia khảo cứu các vấn đề luần
hồi là Sylvia Cranston mô tả lại rõ ràng.
Theo lời kể của chính bác sĩ George Ritchie
thì khi đang nằm trên giường của bệnh viện, tự nhiên ông ta cảm thấy
thân xác rã rời rồi một bức màn xám đen từ đâu phủ ập lên đôi mắt ông
nghe mơ màng có tiếng người chuyển động, tiếng bàn tán và lời của bác sĩ
trưởng nói: "đã tắt thở rồi!". Lúc bấy giờ theo lời của bác sĩ George
Ritchie: "tôi không có y nghĩ gì khác lạ cả. Tôi chỉ cảm thấy mơ màng
thôi nhưng tâm trí tôi rất sáng suốt tôi nhớ là tôi được tuyển chọn để
được huấn luyện chuyên môn về ngành y tại đại học Virginia nhưng vì bệnh
phổi nên phải tạm vào điều trị ở bệnh viện. Giờ đây tôi phải đến trường
đại học gấp vì ở đó đang chuẩn bị lể khai giảng khóa mới. Tự nhiên tôi
cảm thấy cơ thể mình lạnh buốt. Tôi phải thay quần áo và thế là tôi đi
tìm. Bỗng nhiên tôi thấy một người nằm trên giường mà tôi đang nằm. Tôi
nhìn không lầm vì giường có ghi số rõ ràng. Tôi cảm thấy lạnh quá, phải
tìm quần áo ẩm để mặc vào mới được. Tôi thấy một sĩ quan đang bước qua
nên tôi vội vã chạy lại yêu cầu ông giúp đỡ nhưng tôi có nói bao nhiêu
ông ta cũng mơ hồ như không nghe thấy mà cứ bước đi tự nhiên. Thời giờ
gấp rút quá nên tôi, quyết định chịu rét để đi nhanh đến trường đại học
y khoa tại Virginia cho kịp. Tôi cảm thấy mình lướt đi như những gì
thường gặp trong mộng khi di chuyển. Tôi thấy một con sông rộng rồi cây
cầu dài bắt qua sông để tới một thành phố lớn. Thành phố này quả thật
tôi chưa bao giờ đến tôi thấy một tiệm giải khát, tiệm Bia và cả tiệm cà
phê nữa. Tại đây tôi gặp một vài người và hỏi họ tên đường và tên thành
phố nhưng chẳng có ai trả lời tôi cũng như thấy tôi cả. Có lần tôi đập
tay lên vai một người khi tôi hỏi nhiều lần nhưng người này vẫn không
nói. Tuy nhiên tay tôi như chạm vào khoảng không. Người này có gương mặt
tròn và cằm có sợi râu dài. Sau đó tôi đi đến bên một người thợ điện
đang loay hoay quấn dây điện thoại vào một bánh xe lớn. Tôi vô cùng ngạc
nhiên khi thấy mình khác người và rõ ràng chẳng có ai trông thấy tôi mặt
dù tôi thấy tất cả mọi người. Tôi nghĩ rằng nếu cứ như vầy mà tìm đến
đại học Virginia thì quả là bất tiện nên tôi quyết định trở lại bệnh
viện tôi đi đến nhà xác, hàng trăm người đang nằm trên giường. Tôi đi
loanh quanh để tìm chỗ nằm của mình. Tôi thấy một cái xác đã phủ tấm
drap trắng, nơi ngón tay của xác này có đeo một chiếc nhẫn mà thoạt nhìn
tôi đã cảm thấy ngờ ngợ một cách lạ lùng. Tôi nhớ là tôi cũng đeo một
chiếc nhẫn như thế. Tôi cúi xuống nhìn thật kỹ, rõ ràng bàn tay có những
đặc điểm giống tay tôi... và cái giường số giường lại chính là số giường
tôi đã nằm. Vây đây chính là thân xác của tôi, tôi đã chết thật rồi sao?
Nhưng tôi không có cái cảm tưởng rằng mình đã chết, tôi thấy đủ thứ như
đang còn sống. Chỉ có điều mà trước đó tôi phải phân vân là hình như
chẳng có ai thấy tôi cả. Tôi cố gắng kéo tấm drap phủ lên các thân xác
mà tôi nghĩ là của tôi, ý chí của tôi thì muốn hành động nhưng tôi không
thể nào kéo được tấm drap phủ mặt cái xác ấy. Tôi cố gắng nhiều lần
nhưng tôi không tài nào làm được và cuối cùng tôi nhận rõ rằng quả thật
tôi đã chết. Vừa lúc đó tự nhiên tôi cảm thấy trong phòng nhà xác sáng
rực rỡ, một thứ ánh sáng lạ lùng tôi chưa bao giờ thấy và tôi như bị lôi
cuốn theo cái nguồn sáng lạ kia, tôi đã thấy những cảnh trí mà từ khi
sinh ra cho đến bây giờ tôi chưa bao giờ thấy, những cảnh trí mà tôi cảm
tưởng rằng chỉ có ở thế giới bên kia vì những con người ở đây thường
không rõ ràng, mờ ảo, vó vùng tối tăm, có vùng chan hòa ánh sáng mà
những nhân vật hiện diện giống như những thiên thần.
Sau đó tự nhiên vầng sáng giảm dần, tôi cảm
thấy muốn quay về. Trong phút chốc tôi thấy lại những căn phòng, những
thân xác bất động trên giường và tôi tiến tới chiếc giường mà trên đó là
thân xác tôi. Tôi như bị cuốn hút vào cái thân xác đó, tôi từ từ chuyển
động các ngón tay và cuối cùng mở mắt ra. Một lúc sau, bác sĩ và cô y tá
đã ở trước mắt tôi, nét mặt rạng rỡ. Tôi đã sống lại, đã thật sự sống
lại...
Những gì mà sau đó George Ritchie kể lại đã
làm một số bác sĩ trong bệnh viện ngạc nhiên. Điều kỳ lạ đáng lưu ý là
những gì mà Ritchie đã kể và
đã
ghi chép lại trong tập nhật ký đều chứng thực sau đó. Như trường hợp lạ
kỳ sau đây: Sau khi câu chuyện đi vào thế giới sau cõi chết của Ritchie
đã mô tả được một năm thì Ritchie phải trở về trại Barkey và
được
gởi sang Âu Châu để phục vụ tại một bệnh viện quân đội. Trên đường xe
chơ Ritchie đã đi qua một thành phố mà trước đây một năm trong khi coi
như đã chết, Ritchie đã đi qua, nào tiệm bán bia, tiệm cà phê, cây cầu
dài bắt qua sông, những khúc đường rẽ, những bảng hiệu và kỳ lạ hơn nữa
là cái cột điện thoại mà trước đây tôi đã đi xuyên ngang qua thân thể
của một người thợ điện đang quấn dây điện thoại... Đây là thành phố ở
gần chân thành Vicksburg thuộc tiểu bang Mississipi, nơi mà chưa bao giờ
George Ritchie đã đi qua.
Ngày nay George Ritchie đã là Viện Trưởng
Viện tâm thần ở Charlotsville và không bao giờ quên rằng mình đã có lần
chết đi sống lại cũng như không bao giờ quên những cảnh giới lạ lùng ở
bên kia cõi thế gian mà loài người đã sống.
Nhà nghiên cứu hiện tượng tâm lý Sushil
Bose đã tìm gặp trực tiếp những người đã từng nhớ lại tiền kiếp để phỏng
vấn họ. Năm 1939, ông đã viết một báo cáo chi tiết về cuộc phỏng vấn
giữa ông và cô gái Ấn Độ tên là Shanti Devi. Cô gái này đã nhớ lại rất
rõ ràng về tiền kiếp của mình. Cô cho biết trước đó tên cô là Lugdi
Devi, vợ một người tên là Pandit Kendermath Chowbey. Nhưng rồi bị một
tai nạn nhiễm trùng và qua đời. Nhà nghiên cứu tâm linh Sushil Bose đã
hỏi Shanti Devi như sau:
- Shanti nhớ rõ về tiền kiếp mình thì có
thể nhớ lại những gì xảy ra trước và sau khi chết đó?
- S, Bose: Shanti hãy thuật lại những gì đã
xảy ra vào lúc đó.
- Shanti: Khi ấy tôi cảm thấy mình như mơ
màng đi vào cõi sâu thẳm tối đen rồi sau đó lại thấy ánh sáng chói lọi
tỏa rạng dần dần. Đó là thứ ánh sáng chan hòa kỳ diệu làm hoa mắt. Chính
vào lúc đó, tôi biết được rằng mình đã lìa khỏi thân xác mình qua dạng
thể một làn hơi và chuyển động lên cao dần.
- S. Bose: Lúc đó Shanti có thấy cái thân
xác của mình không?
- Shanti: Lúc đó tôi chỉ có cảm tưởng là
đã
lìa khỏi thể xác, mặc dầu tôi như chuyển động lên cao nhưng tôi lại
không nhìn xuống mà chỉ mãi lo nhìn ngắm cái ánh sáng lạ lùng bao phủ
quanh mình. Có lẽ lúc đó nếu nhìn xuống ngay khi tôi có cảm giác mình
tách rời thân xác tôi có thể thấy được thân xác mình.
- S. Bose: Lúc đó Shanti có cảm giác đau
đớn mỏi mệt yếu đuối hay không?
- Shanti: Không! lúc đó tôi không thấy một
chút gì gọi là
đau
đớn mệt mỏi cả. Trái lại tôi thấy mình nhẹ nhàng thanh thản lạ lùng.
- S, Bose: Sau đó còn điều gì xảy ra?
- Shanti: Khi đó, trong cái áng áng chói
lọi rực rỡ ấy, tôi thấy có bốn người mặc áo dài màu vàng sẩm cùng xuất
hiện. Những người này đều rất trẻ khoảng 14, 15 tuổi. Trông họ tươi sáng
như những thiên thần. Những người này đi về phía tôi với dáng vẻ nhẹ
nhàng thanh thoát. Trước mắt tôi là một ngôi vườn đẹp tuyệt vời, cái vẻ
đẹp mà chưa bao giờ tôi đã thấy được ở thế gian nên khó mà mô tả cho hết
được... Rồi tôi thấy 4 người hồi nãy tiến gần và nhấc bổng tôi lên cao.
Tôi cảm thấy một niềm lâng lâng khó tả lan khắp người. Tôi chẳng có ý
niệm gì nữa về thời gian. Chẳng có mặt trời, mặt trăng, cũng chẳng có
ngày đêm.
Tất cả đều chan hòa trong cái ánh sáng vô cùng tỏa rạng, ấm áp, huyền
diệu, lung linh sinh động lạ thường. Tôi chẳng biết nói hay diễn tả làm
sao cho hết những gì tôi đã thấy vào lúc đó. Điều kỳ lạ là lúc này hình
như tôi không còn lệ thuộc vào những giác quan mà con người có lúc còn
sống để nhìn, để nghe, để cảm xúc.
Điều đáng lưu tâm là khi kho6ng còn lệ
thuộc vào giác quan mình nữa thì tri giác lại trở nên bén nhạy vô cùng.
Dù giác quan con người có tinh xảo đến mấy cũng không giúp con người
thấy được xuyên tường, nhưng nếu không còn hiện hữu cơ thể phàm trần hay
cơ quan thị giác chẳng hạn thì lại có thể thông suốt được cả bức tường
như không và
điều
này cũng thể hiện cho các giác quan khác, ở lãnh vực nghe, cảm nhận,
ngửi...
Trên đây là một số sự kiện thu thập được từ
các nhà tâm lý, khoa học, các nhà y học khi họ tiếp xúc được với những
người có khả năng nhớ lại tiển kiếp hay đã có lần chết đi sống lại,
những người đã có kinh nghiệm với cái chết. Những người này may mắn có
được ý niệm về những gì gọi là sự chết và linh hồn. Giáo sư H. H. Price
(tại Đại học Oxford) cho rằng: Linh hồn của con người là một phương tiện
của ý thức hay nói rõ là hơn là một công cụ của sự hiểu biết và trong
cuộc sống, từ cổ đại đến nay kinh nghiệm ở mỗi con người đã có được
những sự kiện để chứng minh rằng có cái gì đó ngay trong thân xác họ.
Nhiều chứng nhân và nhiều sự kiện được chứng minh về sự hiện hữu của
linh hồn và còn khẳng định rằng linh hồn không chỉ đơn thuần là một thể
luân phiên thay đổi cho thân xác mà còn là một thể siêu việt hơn nhiều
vì giữ những vai trò then chốt, quan trọng trong vấn đề suy nghĩ, cảm
nhận, cũng như là cầu nối cho những cuộc sống khác tiếp diễn...
Nhà nghiên cứu Robert Crookall vừa là nhà
tâm lý học vừa là nhà khoa học (ông là giáo sư khoa học tài nhiều trường
Đại học và là hội viên của nhiều hiệp hội chuyên nghiên cứu về các hiện
tượng siêu nhiên huyền bí). Khi nghiên cứu và tìm hiểu về sự hiện hữu
của linh hồn, ông đã sưu tập vô số các sự kiện liên quan và nhất là gặp
gỡ những nhân vật đáng tin cậy, đặc biệt những người có lần đã trông
thấy tận mắt cái mà con người thường gọi là hồn hay linh hồn. Ô đã ghi
chép tất cả những gì đã thu thập và hệ thống rõ ràng. Sau đây là một số
hình ảnh và màu sắc về linh hồn mà Robert Crookall đã sưu tầm được.
"Theo tổng kết của R. Crookall thì linh hồn
thể hiện dưới nhiều hình dáng và màu sắc. Theo Muldoon thì mờ sáng như
sương khói, đôi khi như đầy hơi nước hoặc như vầng mây nhỏ màu trắng
không hoàn toàn trong suốt. Hình ảnh này chỉ hiện rõ trong khoảng một
vài phút đồng hồ rồi tan biến. Chính ông Edgar Cayce, người có khả năng
xuất hồn để chữa bệnh ( nổi tiếng ở Hoa Kỳ) cũng thường mô tả linh hồn
giống như lớp sương hay khói mờ. Maurice và Irene Elliot cũng đã thấy
phần thoát ra từ thể xác người chết có màu trắng như lớp sương mù. E.
W.Oaten thì: "giống như hơi nước bốc lên".
Bác sĩ Charles Richet xác nhận rằng: tôi
thấy ngay tại giường người chết có một đám mây từ từ thoát khỏi thân xác
người chết. Trong tài liệu sưu tập của Robert Crookall có nhiều phần mô
tả như thế và
đó
là những mô tả do chính các nhân chứng như bác sĩ Whiteman, bác sĩ
Simons, giáo sư E. Bo ano, bác sĩ Gilbert (Alice Gilbert), bác sĩ
A.J.Davis, bác sĩ D.P.Kayner, bác sĩ Hereward Carrington...
Theo một số nhân chứng mà phần lớn là bác
sĩ và y tá thì phần sương khói ấy sau khi thoát ra khỏi cơ thể vẫn còn ở
cách cơ thể một khoảng mà không rời hẳn. Điều kỳ lạ là sự xuất hiện của
một dảy sáng mờ giống như giải lụa nối liền người chết với phần mờ đục
như khói sương của cái mà ta thường gọi là linh hồn.
Ngoài ra những hình ảnh đáng ghi nhớ khác
còn được nhiều nhân chứng đáng tin cậy trông thấy mà mô tả lại. Đó là sự
xuất hiện của một giải màu sáng trắng xuất phát từ phía sau đầu (tiểu
não hay ở thùy chẩm) của người chết nối liền với phần mờ đục thoát ra
khỏi thể xác người chết (linh hồn).
Trong cuốn Out of the Body Experiences, nhà
nghiên cứu Robert Crookall đã mô tả chi tiết các sự kiện vừa trình bày
trên đây. Ông đã tiếp xúc với các nhân chứng, họ là những nhà khoa học,
những y tá, những bác sĩ. Như bác sĩ R.J.Staver, giáo sư Hitchcock, bác
sĩ Hout, các nhà khoa học như J.Bertrand. Oliver Fox, Reverend
L.J.C.Street bác sĩ D.P.Kayner, giáo sư M.Eliade, bác sĩ E.W.Oaten, bác
sĩ A.J.Davis và Raynor C.Johnson... Những người này đều đã chứng kiến rõ
ràng một khối hơi thoát ra từ cơ thể người vừa tắt thở và trước đó khối
hơi còn nối kết với thân xác bằng một giải màu sáng đục rung động và khi
sợi dây này rung động mạnh và
đứt
lìa thì chính là lúc người chấm dứt sự sống, có nghĩa là "hồn đã lìa
khỏi xác" Không còn liên hệ gì với thân xác nữa (vấn đề này đã được
trình bày đầy đủ chi tiết trong cuốn Những bí ẩn sau cõi chết - đã xuất
bản"
Tóm lại. Hiện tượng về sợi dây liên kết giữa thân xác người chết và
phần giống như sương khói thoát ra từ thân xác ấy mà người ta thường gọi
là hồn hay linh hồn đã là sự kiện mà các nhà khoa học và nhất là giới y
học hiện nay quan tâm và ra sức nghiên cứu vì như đã trình bày từ trước,
nếu sự kiện này là có thật như nhiều chứng nhân đã thấy rõ ràng thì chắc
chắn sẽ phát sinh thêm những ngành chuyên về sự chết như linh hồn học,
tử sinh học... Các nhà khoa học cố gắng tìm cách để có thể cụ thể hóa
qua hình ảnh rõ ràng và sợi dây bạc ấy, họ không muốn với tinh thần khoa
học thực nghiệm lại chỉ vào những lời kể, mô tả của những nhân chứng dù
là các nhà khoa học đáng tin cậy đi nữa mà không có bằng cớ rõ ràng. Vì
về thu hình đã cố tìm cách ghi lại hình ảnh mà những gì có được lúc con
người vừa trút hơi thở cuối cùng. Một số hình ảnh chụp được khối hơi
thoát ra từ cơ thể người mới chết, nhưng những nhà nghiên cứu còn muốn
thu được những hình ảnh rõ ràng về sợi dây bạc (Silver core). Schrench
Notzing, giáo sư bác sĩ nổi tiếng thế giới, trong cuốn Phenomena of
Materialisation (1928 - Kegan Paul) đã cho rằng, qua những ảnh chụp về
những gì liên hệ đến khối hơi hay sợi dây bạc, tuy không rõ nét nhưng dù
sao đó cũng là một hình ảnh đáng lưu tâm. Có thể hình ảnh ấy chỉ là lớp
ngoại mạo che dấu bên trong nhiều bí ẩn hơn. Theo một số lớn các nhà
khoa học thì hình ảnh cho thấy như là một khối siêu vật thể ấy khi tách
khỏi cơ thể tức là sự sống không còn, giống như giòng điện đã ngưng
truyền nguồn điện lực vào cái máy.
---o0o---
Mục Lục > Chương 1 > Chương 2> Chương 3> Chương 4
Chương 5 > Chương 6> Chương 7> Chương 8
Nguồn: www.quangduc.com