Chương
13
Đạo &
Quả: Mục Đích Tu Tập
Bản kinh Potthapàda mà chúng ta đã nghiên cứu, đưa chúng ta
đi xuyên suốt từ những bước đầu cho đến cuối con đường
tu tập, giải thích cho chúng ta những gì cần phải làm. Lúc
này, chúng ta cần nhìn lại các kết quả cuối cùng của việc
thực hành theo những sự hướng dẫn này, bắt đầu từ việc
giữ giới hạnh, qua định, đến tuệ. Tuệ giác dần
phát sinh từ việc chúng ta nhìn ra được ngã tưởng và nhận
ra được bản chất thực sự của nó là gì.
Qua bản kinh, chúng ta thấy rằng mình không thể thực sự
là các tự ngã mà mình đã trải nghiệm, được gọi là “tôi”.
Mỗi cái tôi chỉ có mặt trong giây lát, rồi biến mất, rồi
một cái tôi khác lại phát sinh. Có tự ngã chỉ quan tâm đến
thân, rồi một tự ngã khác lại lo đến các tâm hành; rồi
nó cũng biến mất khi tâm thức ta lại chấp vào một cái
gì khác. Không có tự ngã nào là bền vững và đáng tin cậy;
cũng như là các tự ngã trong quá khứ, hiện tại, và tương
lai, không có gì là chắc chắn. Tất cả đều mất tăm; chỉ
vài phút trước đây ta chấp tự ngã này, giờ ta lại chấp
vào cái khác. Hơn nữa, chúng ta có thể nhìn lại các
tự ngã trước đây và hỏi, hiện tại, ta có thể tìm chúng
ở đâu? Nhất là đối với những tính cách ta đã có trong
quá khứ mà nay không còn nữa. Tự ngã nào thực
sự là cái mà chúng ta gọi là “tôi”? Chúng ta không bao
giờ có thể nắm giữ được ngã; vì nó luôn chuyển đổi.
Chúng ta có thể so sánh nó với một dòng suối uốn khúc quanh
co. Nếu muốn nắm bắt dòng nước chảy, ta vọc tay xuống
suối, cố nắm bắt nó, nhưng chỉ hoài công, không có gì
ở trong nắm tay ta. Dòng nước chỉ chảy về phía trước;
nếu không, nó sẽ không còn là dòng suối, mà là một hồ
nước đọng.
Để đến được giai đoạn này trên con đường tu tập, nơi
chúng ta bắt đầu nhìn thấy được ngã tưởng thực sự
là gì, có nhiều phương cách khác nhau. Một số người nhận
thức được điều này qua ý thức về khổ; họ đã quá nản
lòng vì những đau khổ của bản thân đến nỗi họ có thể
buông bỏ khổ mỗi khi nó phát khởi. Người khác thì nhìn
thấy được tính vô thường của ngã. Người khác nữa
lại nắm bắt nó bằng cách phân tích những gì được coi
là ngã và cuối cùng nhận ra rằng lý thuyết của họ dựa
trên những dữ liệu không chính xác, do đó không bao giờ
có thể kết luận bằng một công thức có giá trị. Có người
lại áp dụng cả ba phương cách trên. Đó là ba đặc
tính của hiện hữu: vô thường, khổ, và vô ngã (anicca, dukkha,
anattà), là cốt lõi của mọi trí tuệ.
Trên con đường tu tập, quan trọng là phải ghi nhớ ba điều
này trong tâm, vì trong đời sống thế tục, mọi thứ đều
có vẻ như là thường hằng, chắc chắn đem lại cho ta sự
thỏa mãn, và mỗi người dường như là một cá thể tách
biệt, rõ ràng. Tin theo quan niệm thế gian này thì hoàn toàn
không giúp được gì cho chúng ta trên con đường tu tập.
Chúng ta cần hết sức nỗ lực để luôn nhớ đến ba đặc
tính này, để so sánh chúng với tất cả những gì chúng ta
trải nghiệm qua các giác quan, kể cả những suy nghĩ của
ta. Nếu quên làm như thế, là chúng ta quên con đường tu của
mình. Con đường đạo không chỉ có vấn đề hành thiền,
dầu dĩ nhiên đó là một yếu tố quan trọng, vì không có
thiền tập, tâm sẽ không thể chuyển hóa. Nhưng ngoài giờ
hành thiền, ta cũng cần nhớ đến mục đích của mình, và
phải biết làm thế nào để đạt tới mục đích đó. Chúng
ta có nỗ lực đúng hướng không? Có cố gắng thoát khổ
bằng cách nhận ra sự thật, hay bằng cách tìm kiếm nhiều
lạc thú khác hơn? Chúng ta nghiêng theo chiều hướng nào? Nếu
chúng ta muốn nhận chân được sự thật, thì chúng ta phải
thường tìm kiếm nó, với tất cả sự tinh tấn mà chúng
ta có thể có được. Tâm chúng sanh thường bị che phủ bởi
một bức màn, một lớp sương mỏng, hay đôi khi là cả một
bức tường dày đặc. Có thể chúng ta cũng hành thiền, nhưng
chỉ là những chúng sanh bình thường (puthujjana), chưa đạt
được “đạo và quả”, là kết quả của sự tu tập tinh
tấn.
Một “sát-na đạo” (path-moment) được biết đến như là
magga, và một “sát-na quả” (moment of fruition), tiếp theo
sau được biết đến như là phala. Cả hai thứ kết hợp lại
được gọi là đạo quả (magga-phala) và là đích đến của
chúng ta trên con đường đạo. Khi đạt được đạo
quả, hành giả sẽ cảm nhận được một sự chuyển hóa
to lớn và thường hằng nơi nội tâm. Hành giả sẽ trở
thành một vị thánh (Ariỳa), một thượng nhân, và được
coi là thuộc vào dòng tộc những vị đệ tử chính thống
của Đức Phật.
Làm sao chúng ta đạt được sát-na đạo? Điều đó chẳng
bao giờ xảy ra trừ khi chúng ta thực sự thông suốt được
tất cả những gì được nói trước đây về ngã tưởng.
Có nghĩa là hiểu điều đó từ tận gốc rễ, không phải
như là một điều khả dĩ mà như là một thực tại, mà ta
không còn có chút nghi ngờ nào. Chúng ta phải tuyệt đối
tin tưởng rằng tất cả những gì chúng ta nghĩ đến như
là “tự ngã” chỉ đơn thuần là một ý nghĩ. Dầu tất
cả mọi người đều tin, đều nghĩ như thế, cũng chẳng
thành vấn đề gì đối với ta. Chúng ta có thể tự hỏi:
“Liệu những người tin tưởng như thế có hạnh phúc và
tự tại không? Hay quan niệm của họ về “cái ngã” thực
sự là nguồn gốc khổ đau của họ?” Khi chúng ta hoàn toàn
tin tưởng và dốc lòng muốn buông bỏ ngã tưởng, thì sẽ
đến một lúc nào đó, chúng ta có thể làm như thế. Từ
bỏ cái ngã không phải là dễ làm như đã nói, nhưng ít nhất
nó cũng có thể được giải thích.
Thời điểm thích hợp nhất để ta có thể thử nghiệm là
sau bất cứ tầng thiền định nào. Sơ thiền không thực
sự thích hợp, mặc dầu Đức Phật nói rằng việc buông
bỏ ngã có thể được thực hiện sau bất cứ tầng thiền
định nào. Tầng thứ ba, bốn, năm, sáu, và bảy, là
những tầng định thích hợp nhất vì lúc đó, tâm hết sức
tự tại và hoàn toàn không có chướng ngại, uế nhiễm.
Khi có mặt các chướng ngại, do chúng cản trở nên ta không
thể nhìn thấy sự thật. Nhưng trong định, chúng đã
bị đẩy lùi sang một bên, vì thế khi vừa xuất thiền, tâm
vẫn còn thanh tịnh và trong sáng, nên đó có thể là lúc để
ta nhận thức được những vấn đề khác.
Thật ra, chúng ta có thể cố gắng thử nghiệm sau bất cứ
thời thiền định nào; nhưng nếu định đó không đủ lâu,
và ổn định, thì các chướng ngại vẫn còn có mặt. Quan
trọng là ta phải có một tâm tự tại, không bấn loạn.
Ở thời điểm này, chúng ta có thể một lần nữa nhìn lại
cách mà ta nghĩ về ngã, sử dụng tất cả những sự hiểu
biết mà ta đã có được về sự thật là nó chẳng là gì,
ngoại trừ là một vọng tưởng. Sau đó chúng ta có thể chắc
chắn là mình có muốn buông bỏ cái khối kết hợp của thân
và tâm này, mà ta nhất định rằng “đây là cái tôi”.
Khi tâm nói một cách không do dự: ”Vâng, tôi muốn buông
bỏ bản ngã vì tôi nhận thấy rằng đó là nguồn gốc của
khổ đau; nó không là gì cả ngoại trừ là những cái đến
rồi đi, và không có căn cứ trong thực tại”, và tâm xác
định rằng đấy thực sự là mục đích tu tập của ta. Lúc
đó chúng ta có thể hướng tâm một cách có chủ đích đến
những gì được gọi là điểm lặng (still-point). Đây là
một tâm hành nơi không có gì xảy ra, nơi tâm có thể làm
theo ý muốn của ta. Phải tuyệt đối không có mặt của
bất cứ chướng ngại nào, không có dấu vết của nghi như
là, “Có thể đây là ‘tôi’ cố gắng để đạt được
điều gì đó từ việc này”. Như thế là không được
rồi. Nhưng nếu tâm đủ thanh tịnh và giải thoát, nó
sẽ tự hướng mình đến điểm đó, nơi hoàn toàn không có
gì xảy ra. Ở một thời điểm như thế, không có người
trải nghiệm, vì thế, chúng ta không thể diễn tả sát-na
đạo bằng gì hơn đó là khoảng khắc của không, của sự
“đứng yên”. Sát-na đạo này hoàn toàn khác với
tầng định thứ bảy, là lãnh địa của không, không có gì
cả. Trong định này, vẫn còn có người trải nghiệm, người
biết chính xác điều gì đã xảy ra, đó là không có một
bản thể vững chắc, duy nhất nào trong tất cả mọi hiện
hữu. Còn đây là một khoảng khắc tâm duy nhất nơi
mọi thứ dường như ngưng đọng.
Tuy nhiên, liền ngay sau đó là sát-na quả xuất hiện, với
sự có mặt của một số đặc tính. Nhờ vậy, khi thiền
sinh trình lại trải nghiệm của mình, các thiền sư rất dễ
minh chứng rằng điều đó có thực sự xảy ra, hay thiền
sinh chỉ mới tiến gần đến đó, hoặc đó chỉ là
một ước muốn của thiền sinh. Không phải tất cả
các đặc tính đều có mặt mỗi lần chứng quả đối với
tất cả mọi hành giả. Nhưng một số đặc tính luôn
tái hiện. Giây phút chứng quả có thể rất an lạc, và hạnh
phúc. Mà cũng có thể không được như thế, nhưng có một
điều chắc chắn, không bao giờ thay đổi, lúc nào cũng có
mặt, đó là khoảng khắc của một sự giải thoát hoàn toàn.
Giống như là khi ta vừa đặt xuống một gánh nặng vô cùng.
Cảm giác được giải thoát rất rõ ràng đến nỗi nó có
thể làm cho mắt ta đẫm lệ. Đó không phải là giọt nước
mắt của sầu muộn, mà là của sự giải thoát khỏi mọi
âu lo, căng thẳng. Cảm giác an lạc có thể đến sau, mặc
dù sát-na quả xảy ra ngay tiếp theo sau sát-na đạo. Có thể
đến hôm sau, hành giả mới trải nghiệm được cảm giác
an lạc, khi hành giả tái hiện lại cảm giác của sự giải
thoát hoàn toàn.
Một điều khác nữa, phổ biến đối với tất cả những
ai chứng nghiệm được đạo và quả; sự liễu tri rằng trong
một khoảng khắc không có một tự ngã nào ở đó, và rằng
đây là một sự thật sâu sắc nhất mà hành giả từng được
biết đến. Sự xác tín này đặc biệt được ghi nhận trong
sát-na quả đầu tiên, và rõ ràng như thế, vì chưa bao giờ
hành giả lại có được một trải nghiệm nào giống như
thế trước đó. Trong sát-na tâm duy nhất đó, “ngã” hoàn
toàn bị diệt trừ.
Chúng ta biết một sát-na tâm nhanh chóng như thế nào. Cái
biết và cảm giác giải thoát có thể mất hai, hay nhiều lắm
là ba sát-na. Cảm giác giải thoát, nhẹ nhỏm, những
giọt nước mắt, có thể kéo dài và trở thành niềm an lạc
sau đó, nếu không phải là ngay lập tức. Cái biết xuất
hiện ngay lập tức, và khi điều đó xảy ra, hành giả chứng
đạt được những gì mình đã công phu tu tập. Có thể hành
giả còn có cảm giác mất trọng lượng, thân trở thành như
nhẹ hơn. Thật ra chính là tâm đã trở nên nhẹ, đã được
giải phóng, nhưng tâm có ảnh hưởng rất lớn đến thân.
Có phân tích rất thú vị trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga
– Path of Purification), là một bộ sách dày chú giải về những
điều Phật dạy, được Ngài Buddhaghosa (Long Thọ), sống ở
Sri Lanca thế kỷ thứ năm, viết. Bộ sách này có thể khó
đọc, vì nó đi vào các chi tiết nhỏ nhặt, nhưng dùng nó
làm sách tham khảo thì rất hữu ích.
Ngài Buddhaghosa diễn tả một dòng sông, với một bên bờ
sông tượng trưng cho cuộc sống thế tục và bờ bên kia là
Niết bàn. Ở bên bờ ‘thế tục’ có một cây đại thụ,
với nhiều cành lá. Trên các cành, có những sợi dây
leo bám vào, treo lơ lửng trên mặt nước sông. Cành cây thể
hiện cách chúng ta thường nghĩ về bản thân, sắc pháp của
ta. Tính chất này vẫn có mặt trên con đường đạo,
vì bất cứ khi nào chúng ta nghĩ, “Tôi” đang tu tập, thì
đó cũng là sắc. Sợi dây leo bám vào cành cây, tượng trưng
cho sự chấp dính của ta với quan niệm về ngã. Chúng ta nắm
sợi dây đó và với sức đẩy của công phu tu tập, trong
lúc vẫn bám lấy sợi dây, chúng ta phóng qua bờ bên kia sông.
Nếu, ở giây phút thích hợp, chúng ta chấp nhận và có thể
buông bỏ ngã chấp, chúng ta sẽ buông tay nắm và để mình
đặt chân xuống bờ bên kia.
Khi đặt chân xuống bờ bên kia sông, lúc đầu ta còn cảm
thấy cháng váng, chưa vững. Chúng ta ở trong một môi trường
xa lạ, mới mẻ, và còn phải tìm chỗ đứng. Không có gì
bất thường, nếu sau sát-na đạo, hành giả có cảm giác
kích thích, giống như có một điều gì đó vừa xảy ra, nhưng
rất khó diễn tả. Cảm giác ấy không dễ chịu mà cũng không
khó chịu, nó chỉ đơn thuần là một phản ứng, như khi rơi
xuống bờ sông, ta phản ứng bằng cách lấy thế cân bằng
để đứng vững lại. Một số người có thể lấy được
thăng bằng ngay lập tức, người khác phải cần đến một
hay nhiều ngày hơn, có người còn phải cần đến sự giúp
đỡ của một vị thầy. Sau đó chúng ta có thể hưởng thụ
hạnh phúc ở bờ sông bên kia. Chúng ta đã quen trở thành
một người khác. Bề ngoài ta cũng giống hệt như lúc
trước, không có ai, có lẽ ngoại trừ vị thầy của chúng
ta biết được điều gì, nhưng bên trong, chúng ta cảm thấy
hoàn toàn khác.
Lúc đó chúng ta đã tự động buông bỏ ba kiết sử (fetter)
[g] đầu tiên trong số mười kiết sử mà Đức Phật đã
diễn tả như là những sợi dây xích chúng ta vào luân hồi
(samsara) –quy trình tái sinh. Mười kiết sử đó là: 1. Tà
kiến về thân; 2. Giới cấm thủ; 3. Nghi; 4. Tham; 5. Sân;
6. Ước muốn hiện hữu trong sắc giới vi tế; 7.
Ước muốn hiện hữu trong vô sắc giới; 8. Mạn; 9. Trạo
cử; 10. Vô minh. Chính những kiết sử này đã trói buộc
ta vào trạng thái duyên sanh. Đức Phật đã đặt tên cho đứa
con trai nhỏ là “Rahula” (La Hầu La), có nghĩa là “kiết
sử”.
Kiết sử đầu tiên và nặng nề nhất cần được loại bỏ,
bằng cách bỏ qua tự ái, chuyển đổi từ tà kiến sang chánh
kiến. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ lại tin rằng có một tự
ngã ở bên trong ta; rằng có đàn ông hay đàn bà qua cái nhìn,
cái nghe, cái nghĩ, ước muốn của ta. Chúng ta không tin như
thế nữa vì ta đã có chứng cứ rõ ràng, để từ đó kết
luận rằng tin có tự ngã là một sai lầm và là tà kiến.
Nhưng chánh kiến này chỉ phát khởi đối với những ai đã
đạt được sát-na đạo đầu tiên, khi họ hướng tâm đến
đó. Mặc dầu cảm xúc nội tâm thay đổi một cách đáng
kể, nó không thay đổi đến độ không còn có bất cứ cảm
giác nào của một “cái tôi” ở bên trong. Điều đó sau
này mới xảy ra. Tuy nhiên, bây giờ bất cứ khi nào câu
hỏi “Tôi là ai?” hiện ra trong tâm, thì chúng ta biết, không
một chút mảy may nghi ngờ, rằng ta chỉ là một hiện tượng
của thân và tâm. Chúng ta biết rằng sự hiện hữu của mình
là do ái dục, rằng mọi ái dục đều đem lại khổ, rằng
ý nghĩ về một “cái tôi” là nguồn gốc của tất cả
mọi vấn đề, và rằng cả thế giới đều khổ đau vì nó.
Tà kiến về thân sẽ không bao giờ phát sinh nữa, nhưng cảm
giác về một ‘cái tôi’ khi chúng ta đi đứng, giao tiếp
với người, vẫn còn đó. Điều cần làm sau bước đầu
tiên đó là củng cố thêm chánh kiến về ngã này bằng cách
đem nó vào tâm thức chúng ta càng nhiều càng tốt. Nhất là
khi chúng ta phải đối mặt với một điều gì đó mà chúng
ta không thích, vì đó chính là lúc cái ngã lại bắt đầu
giở trò. Nếu lúc đó, chúng ta không nhớ đến tri kiến sâu
sắc nhất của mình, thì chúng ta có thể rơi vào cái bẫy
của phản ứng tiêu cực, vì chúng ta chỉ mới đi bước đầu
tiên nhất; tham và sân còn chưa được bàn đến. Khả năng
để khơi dậy chánh kiến càng nhiều càng tốt là một sự
hỗ trợ thiết yếu.
Người đã đạt được bước đầu tiên này được coi là
một vị Dự lưu (stream-enterer), có nghĩa là người đã
bước vào dòng chảy dẫn đến Niết bàn. Đây là một bước
không thể bị thối lùi lại. Các kinh nói rằng người
đạt được quả Dự lưu sẽ có nhiều
nhất là bảy kiếp sống nữa và có thể đạt được Niết
bàn ngay trong kiếp sống này. Thông
thường, bất cứ ai đã trở thành một vị Dự lưu đều
ý thức rất rõ về những khó khăn mà họ phải đối mặt,
do tham và sân vẫn còn có mặt, và sẽ quyết định bước
tới để hoàn mãn tất cả mọi việc. Do đó, sự tu
tập được có động lực thúc đẩy.
Vị Dự lưu cũng có thể diệt trừ hai kiết sử khác. Một
là nghi, là điều rất tai hại cho sự tu tập. Nó cản trở
chúng ta làm những việc cần làm; thí dụ, ta để tâm suy
nghĩ lung tung, với những giả định xem ta có thể làm gì
khác hơn; do vậy, ta lãng phí rất nhiều năng lượng tâm linh
và thời gian, mà còn có thể đi đến chỗ hoàn toàn ngưng
tu tập.
Tuy nhiên, sau chứng nghiệm đầu tiên của đạo quả, ta không
còn có thể nghi ngờ gì về giáo lý của Đức Phật nữa.
Tất cả những hoài nghi về Phật, về Pháp, và về Tăng,
đều hoàn toàn biến mất. Đức Phật đã nói, “không
có ai ở đó”, và giờ tự chúng ta đã trải nghiệm được
chân lý đó. Vẻ đẹp và sự tự tại của tâm trong
trải nghiệm này vĩ đại, tuyệt vời hơn trong bất cứ một
trạng thái định nào. Chúng ta đầy tự tin, đầy tâm nguyện,
đầy hàm ân, và đầy quyết tâm mạnh mẽ. Kinh điển kể
rằng khi Đức Phật ngồi dưới gốc cây Bồ đề, Ngài đã
chứng nghiệm tất cả bốn sát-na đạo quả - 1.
Dự lưu; 2. Nhất lai; 3. Bất lai; và 4. A-la-hán– trong chỉ
một thời thiền. Đối với chúng
ta, muốn đạt được đạo quả đầu tiên cũng đòi hỏi
bao công phu tu tập. Tuy nhiên, ít ai dừng lại khi đã
được đạo quả đầu tiên đó, mà cũng đáng phải làm như
thế, vì tâm thực sự còn có thể đi xa hơn. Một tâm nghi
khác cũng được diệt trừ, đó là nghi ngờ về chính khả
năng của mình. Vì giờ ta biết rằng mình thuộc vào
những người có thể vượt lên trên tâm thức tầm thường,
vì thế chúng ta tràn đầy lòng tự tin.
Tự tin không phải là một cảm giác cao ngạo, thường đi
đôi với cảm giác tự ti. Tự tin là một cảm giác của sức
mạnh nội tại, khiến ta cảm thấy không phải chứng tỏ
điều gì, vì không có gì để chứng tỏ, không có nơi nào
phải đến, không có ai ở đó. Sự vững chải nội tâm này
giúp cho sự tu tập của chúng ta rất nhiều, cũng như là lòng
ngưỡng vọng và tín tâm vào Tam bảo: Phật, Pháp và Tăng.
Kiết sử thứ ba bị hủy diệt vào thời điểm của quả
Dự lưu là niềm tin vào nghi lễ (giới cấm thủ). Nhiều
nơi trên thế giới có những quan niệm rất mạnh mẽ cho rằng
có một số những nghi lễ và cúng bái thực sự có khả năng
thanh tịnh hóa chúng ta, đến mức độ mà nó có thể giải
thoát ta khỏi tất cả mọi khổ đau. Niềm tin này rất
phổ biến ở Ấn Độ, vào thời Đức Phật còn tại thế,
cũng như ngày nay, mặc dầu chính Đức Phật luôn phủ nhận
rằng nghi lễ, cúng bái có uy lực gì giống như thế cả.
Niềm tin sai lầm này hoàn toàn biến mất, vì hành giả đã
tự trải nghiệm rằng sát-na đạo đầu tiên hoàn toàn không
liên quan gì đến những việc như thế, mà thực sự là nó
đến từ một tâm trong sáng và một ước muốn hoàn toàn
buông xả. Điều này không có nghĩa
là chúng ta không còn được tổ chức các nghi lễ, mà là
ta không còn muốn dành nhiều thời gian và năng lượng cho
việc đó và có khuynh hướng giảm nó đến mức tối thiểu.
Tuy nhiên cũng có một vài khía cạnh của nghi lễ, thí dụ
như việc xướng tụng và tán thán các ân đức của Phật
–Pháp–Tăng, sẽ đem lại những ảnh hưởng tốt đẹp,
nếu được thực hiện với tâm chánh niệm hơn là một
cách máy móc. Điều này cũng đúng
đối với các câu chú, vì nếu ta trì chú với tất cả sự
chú tâm và thành khẩn, thì lúc đó tâm sẽ trong sạch, không
uế nhiễm. Trái lại nếu chỉ
thực hiện một cách máy móc, thì có thể miệng đọc tụng
mà tâm đầy những uế nhiễm.
Khi trở thành một vị Dự lưu, tâm hành giả trở nên vi tế
hơn trứơc đó, nhờ vậy hành giả có thể ý thức nhiều
hơn về tâm sân tham, và khi chúng phát khởi, hành giả cảm
thấy phiền toái hơn nhiều. Những gì trước đây không hề
làm ta khó chịu, những gì ta có thể coi như một lỗi lầm
nhỏ, giờ trở thành là một trở ngại thực sự. Thật ra,
điều này là một động lực lớn cho sự tu tập của ta.
Đó không phải là một cái biết hời hợt rằng ta cần phải
hành xử tốt, nhưng đúng hơn là một nhu cầu muốn luôn được
thanh lọc tâm.
Để đi từ sát-na đạo đầu tiên đến cái thứ hai, tâm
cần phải nhu nhuyến. Điều đó thường không xảy ra
một cách nhanh chóng; đa số cần có thời gian, nhất là nếu
họ còn sống tại gia. Thái độ, phong tục, và những ứng
xử trong xã hội, nói chung thì cuộc sống thế tục chống
lại những việc như thế. Nó không ủng hộ cách tu tập này,
vì thế ta cần một nội tâm thật vững chãi.
Để đến được bước kế tiếp, có hai việc chúng ta cần
phải đễ tâm đến luôn; đó là chánh kiến về “ngã”,
và nhất là việc quán tưởng về sát-na quả. Nó sẽ không
có ảnh hưởng mạnh mẽ như khi lần đầu tiên xảy ra nhưng
chắc chắn là nó sẽ tái tạo trở lại cảm giác giải thoát
và an lạc. Cả hai đều cần thiết và cần được tái hiện
càng nhiều càng tốt.
Quán chiếu về các chướng ngại cũng rất hữu ích, xét xem
chướng ngại nào vẫn còn mạnh mẽ, và chướng ngại nào
đã yếu kém đi. Nghi, chướng ngại thứ năm, phải được
đoạn trừ. Hai chướng ngại đầu tiên, ước
muốn được thỏa mãn dục lạc và tư tưởng bất thiện,
là những biểu hiện của tham và sân.
Chúng ta cũng cần quán sát chướng ngại thứ ba và thứ tư,
hôn trầm thụy miên; và trạo hối.
Luôn ý thức và tìm hiểu về các chướng ngại có thể giúp
ta làm giảm sức mạnh của chúng. “Hiện tại chướng
ngại nào vẫn còn mạnh mẽ nhất trong tôi? Nó biểu hiện
ra ngoài như thế nào?” Dĩ nhiên, tất cả mọi người, ở
bất cứ giai đoạn nào trên con đường đạo, cũng cần quán
tưởng như vậy. Điều đó cần được làm với sự hiểu
biết rằng các chướng ngại này có mặt trong tất cả chúng
ta và chỉ có thể được giảm thiểu bằng sự thực tập
thay thế. Chúng ta sẽ giảm khuynh hướng đỗ lỗi cho người
khác nếu ta có thể ý thức về sự thiếu sót của chính
mình.
Các vị Dự lưu dễ có sự trung thực khách quan này nhiều
hơn, vì họ biết không một chút mảy may nghi ngờ rằng những
gì họ quan sát chỉ là yếu tố của thân và tâm. Không có
“cái ngã” nào ở bên trong để có thể bị trách móc vì
đã có các chướng ngại này. Những phàm nhân như chúng ta,
chưa trải nghiệm được quả Dự lưu sẽ gặp khó khăn hơn,
vì ta không thực sự thích biết đến những yếu kém ‘của
ta’.
Người ta cũng cho rằng vị đạt quả Dự lưu không còn phạm
bất cứ giới nào trong ngũ giới (kiềm giữ không: giết hại
chúng sanh; lấy của không cho; tà dâm; nói dối, tà ngữ; và
sử dụng rượu hay các chất gây nghiện). Chúng ta cần phải
kiểm chứng lại việc này và xem thử chúng ta có thực sự
sống trong giới luật đến độ chúng đã trở thành, không
phải là một gánh nặng nhưng đơn thuần chỉ là một cách
sống tự nhiên.
Tất cả những điều vừa nói là thí dụ của việc quán
chiếu lại sự hiểu biết của mình (review-knowledge), một
việc làm đặc biệt ích lợi sau mỗi tầng thiền định.
Khoảng thời gian ấy, khi tâm vẫn còn trong sáng, thanh tịnh,
chúng ta khơi lại cảm giác của sát-na quả, rồi sau đó xem
xét lại tất cả những sự hiểu biết sai lầm về cái ngã.
Chúng ta cần phải hấp thụ (internalize) sự sai lầm này nhiều
lần với ý thức rằng mình không còn có ý muốn tán đồng
nó nữa. Không phải là chúng ta đổ lỗi cho cái ngã, hay muốn
thay đổi nó, mà đúng hơn là ta nhìn nhận nó như một điều
gì do tự ta tạo ra. Chúng ta cần quán sát lại tất cả
những gì đã đưa chúng ta đến sự hiểu biết này, tất
cả mọi nguyên nhân chúng ta có thể tìm được. Sau đó, chúng
ta xét xem tâm có muốn và có khả năng buông bỏ mọi sự
bám víu dù nhỏ nhặt tới đâu với “cái tôi”. Chúng
ta có muốn hoàn toàn dẹp bỏ con người này không? Có thể
nói một cách không dè dặt rằng, bất cứ tư tưởng nào
khiến “cái tôi” có thể trở lại liền ngay sau đó, cũng
là phản tác dụng. Như trước đó, chúng ta để tâm đạt
được đến điểm lắng đọng (still-point).
Chúng ta sẽ khám phá ra rằng, dầu ta có hết sức, nhiều
khi tâm vẫn không chịu nghe theo. Nếu thế, ta cần phải
xét xem ta đang bám víu vào điều gì. Có thể có nhiều nguyên
nhân, mà một trong số đó là, chúng ta không muốn buông bỏ
người đang biết và đang trải nghiệm này.
Lúc đầu, nhờ tác động của công phu tu tập, ta sang được
bờ bên kia. Tuy nhiên, để tái hiện lại điều đó, chúng
ta phải hoàn toàn buông bỏ tất cả những gì có liên quan
đến “ngã”. Nếu vẫn còn một sự bám víu tiềm ẩn nào
đó đối với bất cứ khía cạnh nào của cuộc sống –ái
dục, tỉnh dục, bất cứ điều gì– thì chúng ta không thể
tiến đến bước kế tiếp. Chúng ta phải quyết chí giải
quyết vấn đề này. “Tôi bám víu vào cái gì đến nỗi
tôi không thể buông bỏ nó?” Khi quán chiếu về điều
này, ta có thể thấy rằng nếu bám víu vào người khác, chúng
ta sẽ cảm thấy tùy thuộc và đầy lo âu, sợ hãi. Người
ta yêu có thể ra khỏi cuộc đời ta bất cứ lúc nào và sự
bám víu đó sẽ chỉ đem lại khổ đau. Hoặc nếu bám víu
vào một ham muốn, chúng ta có thể thấy rằng bất cứ sự
thỏa mãn nào cũng chỉ mang đến những giây phút toại nguyện
nhất thời. Chẳng bao lâu sau, chúng ta sẽ lại cảm thấy
trống vắng như trước đó, và lòng ham muốn đó lại phải
được thỏa mãn lần nữa và lần nữa. Đây là tất cả
những cách thức và phương tiện để nhận chân được sự
dính chấp của ta, vì chúng ta thực sự muốn biết sự thật.
Dĩ nhiên, cũng có những người không muốn đào sâu vấn đề
đến như thế, điều đó cũng được thôi. Nhưng nếu chúng
ta muốn bước vững chãi trên con đường đạo, thì đó là
những bước ta cần phải theo, là trí tuệ ta cần đạt được.
Hành giả nào đạt đến quả vị thứ hai, sẽ trở thành
một bậc Nhất lai (once-returner), có nghĩa là họ chỉ
phải trở lại thế gian này một lần nữa. Vì các bước
này đều không thể thối chuyển, nên cả hai quả vị Dự
lưu và Nhất lai sẽ được tái sinh với nguyên vẹn chứng
nghiệm đã có được. Vì lý do này, họ có thể rất
ích lợi đối với kẻ khác, vì họ đã được sanh ra với
sự hiểu biết chân thật cần thiết, do đó có thể truyền
dạy cho chúng ta điều đó.
Khi quả vị thứ hai được chứng, thì tham và sân dừng lại.
Chúng chưa hoàn toàn bị đoạn diệt, nhưng đã giảm mức
độ. Sân trở thành cảm giác bực bội, và tham trở
thành sự lựa chọn, một sở thích. Tâm của vị đó
không bao giờ còn bị lung lay nữa bởi tham hay sân thực sự,
vì sự bực bội và sở thích không thể quấy rối tâm với
cùng một mức độ. Bực bội có thể không kéo dài như sân
hận, và cả hai, bực bội và sở thích, là những cảm thọ
nhẹ nhàng hơn là tham và sân. Tuy nhiên, một lần nữa, sự
quán tri (review knowledge), mà vị nhất lai tiếp tục sử dụng,
sẽ cho ta thấy rằng cả hai yếu tố này vẫn còn tạo ra
khổ đau.
Một vị Nhất lai có thể hy vọng có được một sát-na đạo
tương tự như là, nhưng không hoàn toàn giống hệt, lần trứơc
đó, và tiếp theo bởi một sát-na quả cũng tương tự, nhưng
không giống hệt như sát-na quả trước. Trong nhiều trường
hợp, cảm giác phấn chấn, không còn rõ ràng. Cảm giác
hoàn toàn nhẹ nhỏm, hoàn toàn giải thoát cũng phát khởi,
nhưng thường là không có nước mắt. Nó có thể rất an lạc,
mặc dầu cảm giác này có thể không xảy ra ngay lập tức.
Lần nữa, tâm đã chạm đến một sát-na của Không, là một
trải nghiệm thực chứng. Không có nghĩa rằng thân này, cây
cối, nhà cửa, xe cộ, đường đi, cây cỏ và sông núi không
hiện hữu. Trên bình diện tương đối chúng có hiện hữu.
Nhưng trên bình diện tuyệt đối, chúng chỉ là những phân
tử năng lượng kết hợp lại với nhau, để rồi tan rã.
Chúng hợp lại dưới một số hình thức nào đó và tạo
ra các hiện tượng. Khoảng khắc của Không là khoảng
khắc khi mọi thứ đều tan rã và chưa phát sinh trở lại.
Tuy nhiên, trước các sát-na của đạo quả, hành giả phải
đạt được một số tuệ tri. Đầu tiên là thân
và tâm là hai, tùy thuộc vào nhau,
nhưng không giống nhau. Thứ hai là tất
cả vạn pháp đã sinh, thì phải diệt.
Thứ ba là sự hoại diệt, rằng tất
cả mọi thứ đều sẽ hoại diệt;
khi chưa chứng được đạo, sự hiểu biết này có thể tạo
ra một nỗi sợ hãi tột cùng. Nếu điều này xảy ra,
hành giả cần trình bày với một vị thầy để được có
thêm can đảm. Chúng ta cần biết điều đó hoàn toàn
tự nhiên vì sợ hãi là một bước trên con đường trí tuệ.
Sự hiểu biết về nhân và quả cũng nằm trong những khoảng
khắc trí tuệ này. Như chúng ta được biết qua bản kinh này,
có một cái ngã thô phù, cấu tạo bởi bốn yếu tố và được
nuôi dưỡng bằng thực phẩm. Chúng là nhân và thân là
quả. Chúng ta cần phải ghi nhớ điều đó.
Trên con đường đến tuệ giác, hành giả đã qua được giai
đoạn sợ hãi, đã có thể để nó lại đằng sau, thì sự
thôi thúc để tu tập và ước muốn được giải thoát phát
sinh. Lúc đó, sự nhàm chán và ly dục có thể giúp chúng ta
bước vào một sát-na đạo nơi chúng ta trải nghiệm được
thực tại của sự vật như chúng là. Sát-na quả tiếp ngay
theo sau có tác động mạnh đến nỗi không có mối nghi nào
phát khởi. Mỗi sát-na quả hơi mạnh hơn cái trước
đó đôi chút, do đó các sát-na trước thường phai nhạt đi
một ít trong ký ức. Bao giờ cũng là khoảng khắc sau cùng
nhất, là chúng ta có thể nhớ nhiều nhất và đúng phải
là như thế, vì sát-na đó mang lại hạnh phúc và sự giải
thoát lớn nhất.
Cũng không ngạc nhiên gì khi sự thật là rất ít người chứng
nghiệm được những sát-na đạo. Đa số chỉ quan tâm đến
tham và sân, và để chúng điều khiển mình. Cần phải
chứng được hai sát-na đạo, với bao công phu tu tập, bao
khó nhọc hành thiền trước khi chúng ta có thể đạt đến
giai đoạn khi các kiết sử (fetter) được giảm trừ.
Đạt được đến giai đoạn này, vẫn còn hai bước nữa
phải đạt được, và chúng là những bước khó khăn nhất.
Chúng ta phải buông bỏ bản ngã đến
mức sân và tham có thể hoàn toàn bị hủy diệt.
Sau một sát-na đạo khác, với kết quả là tất cả năm hạ
tầng kiết sử đã được hủy diệt, lúc đó vị ấy sẽ
trở thành một vị Bất lai (non-returner), có nghĩa là
vị ấy sẽ chẳng bao giờ trở lại
cõi người. Con đường đi tới không
phải dễ dàng, ngay chính đối với vị bất lai, vì vẫn còn
năm thượng tầng kiết sử phải được diệt trừ. Chỉ
có vị A-la-hán, người không còn “ý
niệm về ngã”, mới có thể hoàn
toàn diệt trừ được các kiết sử này. Nếu một vị Bất
lai chết trước khi trở thành một A-la-hán, họ sẽ được
tái sinh vào cõi trời, hay cõi phạm thiên. Điều này nghe có
vẻ rất hoàn hảo, nhưng thực ra đó chính là một trong năm
thượng tầng kiết sử. Và lý do để cho vị Bất lai không
được trở thành một A-la-hán là vì trong tiềm thức, vị
ấy vẫn ước muốn được sinh vào cõi sắc giới hay vô sắc
giới.
Ở vị Bất lai, kiết sử vô minh và mạn, mà qua đó các ước
muốn vừa kể trên phát khởi, vẫn còn có mặt. Vô minh có
nghĩa là vẫn chút ít bám víu vào “ngã”. Mạn này
không liên quan gì đến tính cao ngạo của một người; nó
chỉ có nghĩa là vẫn còn có sự “tự phụ” về một cái
ngã. Vì hai kiết sử này mà kiết sử trạo hối cũng có mặt.
Dĩ nhiên, không thể so sánh kiết sử này với tâm bất ổn
trong cuộc sống thế tục, khiến ta chạy từ nơi này đến
nơi khác kiếm tìm hạnh phúc. Nhưng đối với một vị Bất
lai, vì chút kinh nghiệm còn sót lại của “ngã” chưa dứt
trừ được, mà vị ấy vẫn có cảm giác bức rức về việc
chưa hoàn toàn được giải thoát khỏi khổ. Ở giai đoạn
này trên con đường tu, sự nhận thức được những gì đang
xảy ra ở bên trong thì vi tế hơn trước đó rất nhiều.
Các chướng ngại thô lậu đã qua đi, nên dầu cùng một
từ ngữ được sử dụng, trạo hối mà vị Bất lai trải
nghiệm ở đây thì vi tế hơn nhiều. Nó được nhận ra ngay
lập tức và có thể ngay lập tức được buông bỏ. Tuy nhiên
nó vẫn là dấu hiệu cho biết vị đó vẫn còn phải tu tập
thêm nữa.
Vị Nhất lai muốn trở thành một vị Bất lai, thì phương
pháp cũng giống như trên. Vị ấy phải quán chiếu các kiết
sử và phải rất chắc chắn rằng ba kiết sử đầu tiên
đã được diệt và rằng hai kiết sử tham và sân đã được
giảm thiểu rất nhiều. Vấn đề không phải là đè nén bất
cứ điều gì, mà chỉ là nhận biết uế nhiễm gì vẫn còn
lại. Vị Nhất lai vẫn còn cảm nhận “cái tôi” ở một
mức độ nặng hơn là vị Bất lai. Khi vị ấy trú tâm vào
đó, quán sát nó, vị ấy biết rằng không có ai ở đó. Tuy
nhiên, ở những lúc khác, trong cuộc sống bình thường hằng
ngày, vị ấy vẫn thường cảm thấy như là có một “ai”
đó, nói năng, nghĩ suy và phản ứng. Đó là vì ở một mức
độ nào đó, vị ấy vẫn còn trải nghiệm tham và sân. Vì
thế, vị ấy phải dựa vào chánh kiến. Vị ấy cần quán
tưởng lại những sát-na quả cuối cùng, và quan sát lại
tất cả những sự hiểu biết của mình về tà kiến của
ngã. Sự hiểu biết này phải rốt ráo và ở mức độ sâu
lắng nhất, vì để trở thành một vị Bất lai là một bước
cực kỳ quan trọng đối với bất cứ ai. Sự hiểu biết
này không chỉ được nhìn lại trên quan điểm tri thức, mà
nó còn phải được cảm nhận, hấp thụ; vị ấy cũng cần
phải phát khởi lòng hoàn toàn quy ngưỡng, tự nguyện rũ
bỏ tất cả những gì còn dính dáng đến đời sống thế
tục. Đặc biệt, bất cứ điều gì trong tâm hay thân mà còn
có chút chấp dính vào “cái tôi”. Lòng quyết
tâm này phải rất mạnh mẽ. Rồi giống như lần trước,
sát-na đạo lại phát sinh khi tâm đã đến được một điểm
lặng, nơi không có gì đang xảy ra. Lần này sát-na đạo có
thể khác một chút, vì tâm đã trở nên quen thuộc với nó,
khi đã kinh qua được hai sát-na giống như thế. Nó có thể
rất ngắn ngủi, và sát-na quả tiếp theo sau, có thể không
là gì hơn là sự nhận thức. Không có nước mắt, không
hưng phấn, chỉ có cái biết rốt ráo và sự rõ ràng, với
cảm giác giải thoát đi kèm theo, một cảm giác của “cuối
cùng cũng đã làm xong”. Sát-na quả này không tạo ra
ảnh hưởng giống như trước, mà đúng hơn đó là một cảm
giác thỏa mãn rằng công phu tu tập đã đạt quả. Cùng lúc
tâm biết rất rõ ràng rằng vẫn còn một số kiết sử phải
buông bỏ.
Vị Bất lai phải quán sát những kiết sử còn lại và xét
xem nếu mình vẫn còn có ước muốn được tái sanh vào trong
các cõi giới cao hơn. Điều này có thể được biểu hiện
như là ước muốn rằng tất cả mọi thứ đều phải dễ
chịu và hợp lý; ước muốn không phải đối đầu với bất
cứ điều gì chứa đựng khổ. Dĩ nhiên đây cũng là
một thái độ rất nhân bản, nhưng đối với vị Bất lai
thì điều này còn hơn thế nữa. Nó trở thành một sự thôi
thúc nội tâm, vì cõi sắc giới vi tế và vô sắc giới được
coi là nơi chỉ có hạnh phúc (sukha). Cảm giác đó có thể
khá mạnh mẽ và phải được nhận biết. Những phần vi tế
còn lại của ngã cũng phải được nhận diện. Đức Phật
đã khuyến cáo chúng ta đề phòng ước muốn được tái sanh
vào các cõi giới cao hơn, vì một khi đã ở đó, chúng ta
sẽ ở đó hằng bao kiếp không thể đếm được. Đó là
lý do tại sao các vị Phạm thiên tưởng rằng họ thường
hằng. Trong cõi người, chúng ta luôn có khổ thôi thúc, nhưng
đối với một vị Bất lai, một khi đã vào trong cõi giới
Phạm thiên, không có khổ, sẽ rất khó cho họ nghĩ tới bước
cuối cùng. Đó là lý do tại sao Đức Phật bảo đó
là một ước muốn gây trở ngai cho sự tu tập của ta.
Vị Bất lai được khuyến khích phải bước tới xa hơn nữa,
không chỉ vì đó là việc cuối cùng cần phải thực hiện,
nhưng đặc biệt là vì vị ấy có thể cảm nhận rằng sự
bất an mong manh còn lại vẫn là khổ; chút ước muốn nhỏ
nhoi đó, dầu là ước muốn được vào cõi giới cao hơn,
vẫn là đau khổ; cái cảm giác vi tế, vấn vương của bản
ngã vẫn đem lại sự bất an.
Để đi bước cuối cùng này, hành giả vẫn theo những hướng
dẫn giống như trước. Có thể khác một chút, đó là
tâm đã quyết, một lần cho tất cả,
rằng con người với tâm và thân này hoàn toàn muốn không
có mặt. Không còn gì để giữ vị ấy lại, không có
gì quan trọng, không có gì cần làm nữa cả.
Sát-na đạo, lúc nào cũng thế, khó thể diễn tả được
-thuật ngữ chuyên môn cho nó là “không-xảy ra” (non-occurrence).
Vì ước muốn hoàn toàn được không có mặt này, sát-na quả
theo sau cũng chứa đựng cảm xúc đó. Điều này nghe
thật đáng sợ; chính Đức Phật cũng bảo rằng đối với
phàm nhân, người chưa từng chứng nghiệm điều này, đó
có thể là một điều khủng khiếp. Nhưng thật ra, điều
đó thật tuyệt vời, vì sự biến mất đó tạo ra bao hạnh
phúc. Trải nghiệm này thật khó diễn tả; có lẽ so
sánh tốt nhất là giống như chúng ta rơi vào một đám mây
dầy và biến mất vào trong đó. Sau đó, không có gì
xảy ra trên thế giới này còn có thể tác động đến ta
giống như trước nữa. Đó là tất cả những gì đã
xảy ra, nhưng giống như bày trò chơi với trẻ. Chúng
ta rất hòa ái với trẻ, thuận làm theo trẻ. Nếu trẻ
chơi trò xếp hình, ta cũng hưởng ứng trò chơi đó, cũng
giúp trẻ xếp lâu đài. Nhưng ta có coi trò chơi đó là
nghiêm túc không? Nếu ai vô tình dẫm lên lâu đài, đứa
trẻ sẽ la khóc, nhưng ta thì không. Và nếu có cơ hội,
ta sẽ giúp cho trẻ biết các lâu đài này không đáng xây
dựng; và không có cái nào là quan trọng. So sánh này
có thể đã làm rõ hơn kết quả đó là gì, và vị hành giả
đã đi được bước đó, đã đạt được sự buông xả hoàn
toàn của bản ngã, có thể trở về lại với sự hoàn toàn
vắng lặng, khinh an của sự không có mặt này bất cứ lúc
nào vị ấy muốn.
Trong các kinh kể lại rằng, sau khi đạt được Niết bàn,
Đức Phật đã ngồi an nhiên tự tại trong niềm an lạc của
Niết bàn trong bảy ngày, rồi sau đó, Ngài đã quyết định
sẽ hướng dẫn chúng sanh đi theo con đường ấy. Sự
hoàn toàn vắng lặng của cảm giác về “ngã” là đích
đến trên đạo lộ. Theo các kinh, vì mục đích này,
những người con từ các lương gia đã rời bỏ gia đình để
sống cuộc đời vô gia cư, tinh tấn tu tập, để cuối cùng
nhận biết rằng tất cả những gì cần làm họ đã làm.
Không còn phải bước tới nữa.
[g]
Kiết sử hay Kết sử (fetter): Những gút thắt hoặc những
khối đam mê, đè nén, sợ hãi, v.v. . . đã kết tụ lại trong
chiều sâu Tâm thức, có khả năng trói buộc và sai sử ta
làm, nói và nghĩ những điều ta thực sự không muốn làm,
nói và nghĩ. (Danh Từ Phật Học Thực Dụng, Tâm Tuệ Hỷ
biên soạn, NXB Tôn Giáo,
Hiệu Đính
& Tài Liệu Tham Khảo
Xin
Chân thành cảm ơn các Tác giả của các sách tham khảo.
(1)
Các đoạn kinh trích dẫn, không đánh số đều là từ
Kinh Potthapàda, từ trang 311 – 351, trong Trường Bộ Kinh, Tập
1, NXB Tôn Giáo, 2005, do Hòa Thượng Thích Minh Châu Việt dịch).
(2)
Kinh Sa Môn Quả, trang 93 – 158, trong Trường Bộ Kinh, Tập
1, NXB Tôn Giáo, 2005, do Hòa Thượng Thích Minh Châu Việt dịch).
(3)
Thanh Tịnh Đạo –Visuddhimagga (Bhadantacariya Buddhaghosa –Bhikkhu
Nanamoli – Ni Sư Thích Nữ Trí Hải), NXB Tôn Giáo 2001
(4)
Danh Từ Phật Học Thực Dụng, Tâm Tuệ Hỷ Biên Soạn, NXB
Tôn Giáo, 2004
Chân
thành cảm ơn dịch giả đã cống hiến cho chúng sinh bản
dịch quyển sách hay và thực dụng này. Nguyện cầu: dịch
giả, người đọc, người học, người hành và tất cả chúng
sinh đều chóng thành đạo quả. (Thay mặt người đọc, người
học và người hành: Tâm Diệu, TVHS)
10-07-2008
15:23:46