Chương
10
Đoạn Diệt
Ái Dục
Trong chương trước Potthapàda đã chấm dứt cuộc trao đổi
với Đức Phật bằng những lời, “Bạch Thế tôn, như vậy
là phải”. Nhưng ngay khi Đức Phật vừa rời bỏ hội
trường thì các du sĩ ngoại đạo, bạn đồng môn của Potthapàda
đã quay qua chỉ trích ông:
Thế
tôn rời khỏi chưa bao lâu, những du sĩ ngoại đạo ấy liền
bao vây xung quanh du sĩ ngoại đạo Potthapàda và tuôn ra những
lời nói mỉa mai gay gắt: “Potthapàda này là như vậy, những
gì Sa-môn Gotama nói đều được Potthapàda tán thành: “Bạch
Thế tôn, như vậy là phải. Bạch Thiện Thệ, như vậy
là phải”. Chúng tôi không được biết Sa-môn Gotama
đã thuyết trình dứt khoát những vấn đề sau đây: “Thế
giới là thường còn”, hay “Thế giới là vô thường”,
hay “Thế giới là hữu biên”, hay “Thế giới là vô biên”,
hay “Sinh mạng và thân thể là một”, hay “Sinh mạng khác,
thân thể khác”, hay “Như Lai có tồn tại sau khi chết”,
hay “Như Lai không tồn tại và cũng không không tồn tại
sau khi chết”.
Potthapàda trả lời:
Này
các Tôn giả, tôi cũng không được biết Sa-môn Gotama đã
thuyết trình dứt khoát những vấn đề sau đây: “Thế giới
là thường còn”, hay “Thế giới là vô thường”, hay “Thế
giới là hữu biên”, hay “Thế giới là vô biên”, hay “Sinh
mạng và thân thể là một”, hay “Sinh mạng khác, thân thể
khác”, hay “Như Lai có tồn tại sau khi chết”, hay “Như
Lai không tồn tại và cũng không không tồn tại sau khi chết”.
Sa-môn Gotama đã tuyên bố một phương pháp như thực, chơn
chánh, chân thật, dùng Pháp làm cơ bản, dùng Pháp làm quy
tắc. Và khi một vị tuyên bố một phương pháp như thực,
chơn chánh, chân thật, dùng Pháp làm cơ bản, dùng Pháp làm
quy tắc, thì làm sao một người hiểu biết như tôi lại không
tán thành?
Điều thú vị là họ gọi Đức Phật là “sa-môn Gotama”,
chứ không phải “Đức Phật”, là cái tên mà lúc đó người
ta đã dùng để gọi Ngài. Họ có vẻ muốn ám chỉ rằng
Đức Phật cũng chỉ là một người bình thường như họ,
một người tu khổ hạnh, hay một du già. Ngoài ra, Potthapàda
cũng dùng từ Pháp (Dhamma), như chúng ta thường dùng để chỉ
giáo lý của Đức Phật. Nhưng Potthapàda chưa là đệ tử
của Phật, và đây là lần đầu tiên ông được nghe Pháp.
Từ ngữ đó đã được sử dụng, và đối với Potthapàda
cũng như những đồng môn của ông, nó chỉ một điều gì
đó dựa trên chân lý tuyệt đối, theo luật tự nhiên.
Dầu không phải là một đệ tử của Phật, nhưng Potthapàda
đã thấy rằng giáo lý của Đức Phật rất chân thật, và
đã chấp nhận nó.
Bài kinh tiếp tục:
Hai
ba ngày sau, Citta Hatthisàriputta, con của người nài voi, và
du sĩ ngoại đạo Potthapàda đi đến chỗ Thế Tôn. Khi
đi đến nơi, Citta Hatthisàriputta đảnh lễ Thế Tôn và ngồi
xuống một bên.
Như thế chúng ta có thể đoán rằng Citta Hatthisàriputta đã
được nghe Đức Phật thuyết pháp và là một đệ tử thuần
thành. Potthapàda ngược lại chỉ chào hỏi xã giao với
Đức Phật, trước khi ngồi xuống và thưa với Đức Phật
những gì đã xảy ra, các du sĩ ngoại đạo khác đã chế
ngạo ông như thế nào. Đức Phật nói:
Potthapàda,
tất cả các du sĩ ngoại đạo kia là những kẻ mù, không
thể thấy, chỉ có ngươi là người sáng trong đó.
Đức Phật thường sử dụng những hình ảnh như thế, và
đã có lần nói rằng có rất ít người, “với một ít bụi
trong mắt”, qua hình ảnh đó Đức Phật muốn ám chỉ
những người có thể thực sự hiểu những điều Ngài thuyết
giảng cho họ. Thật vậy, sau khi đạt được giác ngộ, Đức
Phật ngồi dưới gốc cây bồ đề tận hưởng niềm an lạc
của Niết bàn, và Ngài quyết định không truyền giáo. Ngài
cảm thấy chúng sanh sẽ không thể hiểu được giáo lý của
Ngài vì nó quá khác biệt với những gì họ đã được nghe
trước đó, và những gì họ đã áp dụng trong đời sống.
Theo kinh điển thì sau đó có vị đại Phạm thiên, vị trời
cao nhất trong tất cả các vị trời, đã xuất hiện trước
Đức Phật và xin Ngài hãy thuyết pháp vì lợi ích cho Trời
và người. Lúc đó Đức Phật nhìn, có lẽ bằng thiên
nhãn, và thấy rằng có những người có “rất ít bụi trong
mắt họ”, nên Đức Phật quyết định rằng, vì lợi ích
của họ, Ngài sẽ trở thành một bậc đạo sư. Bấy giờ
Đức Phật tiếp tục:
Này
Potthapàda, có những pháp được Ta truyền thuyết, trình bày
một cách dứt khoát. Này Potthapàda có những pháp khác
được ta truyền thuyết, trình bày không dứt khoát. Này
Potthapàda, những pháp gì được ta truyền thuyết trình bày
một cách không dứt khoát?
Đức Phật lặp lại với Potthapàda những điều đã nói:
Thế giới là thường còn hay không, thế giới là vô biên
hay hữu biên, linh hồn và thân là một hay khác, Như Lai tồn
tại hay không tồn tại sau khi chết, hay vừa tồn tại và
vừa không tồn tại, hay không tồn tại mà cũng không không
tồn tại.
Vì
sao? Vì những pháp này không thuộc về đích giải thoát, .
. . không đưa đến Niết bàn. Đó là lý do tại sao ta
tuyên thuyết trình bày một cách không dứt khoát.
Lần nữa Đức Phật lại làm rõ rằng Ngài chỉ tuyên thuyết
những gì đưa đến sự giải thoát cuối cùng. Tất cả giáo
lý của Đức Phật chỉ có một hướng duy nhất đó.
Ngày nay cũng thế. Cuộc hành trình của chúng ta đưa ta từng
bước đến một mục đích, đó là Niết bàn. Nó không đưa
đến sự tận diệt. không có cái gì giống như thế trong
Niết bàn; chỉ có sự trong sáng, và trí tuệ viên mãn, rốt
ráo, sự chấm dứt của tất cả mọi vọng tưởng. Tuy nhiên,
đây không phải là trí tuệ toàn năng. Đức Phật đã
có lần nói rằng Ngài không thể biết tất cả mọi thứ
trong cùng một lúc; nhưng khi đặt tâm ở đâu, Ngài biết
ở đó. Đạt được niết bàn không phải là để đạt được
sự toàn năng, toàn trí, để gây ấn tượng với mọi người,
mà là để chấm dứt ảo tưởng, và chấm dứt khổ đau.
Này Potthapàda, những pháp gì được Ta tuyên thuyết, trình
bày một cách dứt khoát? “Đây là khổ”, . . .
“Đây là khổ tập”, . . . “Đây là khổ diệt”, . . .
“Đây là con đường đưa đến khổ diệt”, này Potthapàda,
đó là pháp được Ta tuyên thuyết trình bày một cách dứt
khoát. Vì sao? Này Potthapàda, vì những pháp ấy thuộc
về đích giải thoát, thuộc về pháp, thuộc căn bản phạm
hạnh, đưa đến yểm ly, đến ly tham, đến tịch diệt, đến
tịch tịnh, đến thắng trí, đến giác ngộ, đến niết bàn.
Vì vậy những pháp ấy được ta tuyên thuyết trình bày một
cách dứt khoát.
Đức Phật lại hướng Potthapàda trở về với Tứ Diệu
đế, liệt kê những bước cần thiết để đạt được trí
tuệ, mỗi bước lại đưa đến bước kế tiếp, cho đến
khi ta có thể hoàn toàn buông bỏ mọi vọng tưởng.
Chúng ta đã bàn qua sự yểm ly (nhàm chán) và ly tham. Kế tiếp
là sự tịch diệt (cessation), một từ có rất nhiều ý nghĩa
khác nhau. Nó có thể có nghĩa là sự đoạn tận các tưởng
và cảm thọ, là điều sẽ xảy ra trong tầng thiền thứ chín.
Trong phạm trù Niết bàn, nó cũng có thể có nghĩa là sự
đoạn diệt của tất cả khổ đau, của mọi vọng tưởng.
Khi Đức Phật sử dụng từ này ở đây, Đức Phật muốn
nói đến sự đoạn diệt của ba loại ái dục, là kết quả
của tâm ly tham. Đó là lòng ham muốn thỏa mãn dục lạc,
lòng ham muốn được hiện hữu, và lòng ham muốn không hiện
hữu. Ba ái dục này là những nguyên do tiềm ẩn cho sự có
mặt của chúng ta ở đây, cho số phận làm người của ta.
Chúng ta thường có khuynh hướng trách móc cha mẹ về cách
chúng ta hành xử và ảnh hưởng của họ đối với chúng
ta. Nhưng các bậc cha mẹ cũng không phải là những chúng
sanh đã được giác ngộ, nên họ cũng có nhiều lầm lỗi.
Tuy nhiên, việc chúng ta có mặt trên thế giới này, trong một
gia đình đặc biệt nào đó là do lòng ham muốn của chính
bản thân ta. Và lòng ham muốn này là cái mà chúng ta
cần quán sát.
Lòng ham muốn được thỏa mãn dục lạc đã được bàn đến
khá thấu đáo, và nếu tự quán sát bản thân, chúng ta có
thể dễ dàng nhận ra nó. Nhưng lòng ham muốn được
hiện hữu là một cái gì sâu sắc hơn. Đó là ước muốn
mạnh mẽ nhất của ta, là động lực khiến chúng ta phải
lăn trôi trong luân hồi. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng
ta có thể hoàn toàn không để ý đến nó. Ta khiến mình luôn
bận rộn để tránh nhìn thấy sự khổ đau của kiếp con
người. Đó là cách để ta đối phó với khổ đau. Nhưng
nếu chúng ta thực sự quán sát lòng ham muốn hiện hữu,
thực sự cảm nhận được điều đó có nghĩa là gì, thì
chúng ta sẽ hiểu những điều Đức Phật dạy, vì lòng ham
muốn đó tạo ra những khổ đau không dừng dứt.
Lòng ham muốn đó khiến chúng ta bám víu vào những gì có
thể phủ lấp tâm, đó là lý do tại sao chúng ta thích suy
tưởng. Nó giúp chúng ta quên lảng, tránh né những gì ta không
thích. Hãy thử nhìn chiếc giường ta ngủ, buổi sáng
trông nó như thế nào: lộn xộn, nhăn nhúm, chiếu chăn tung
xới. Có phải vì tâm ta ngay trong giấc ngủ cũng trải
nghiệm khổ đau, vì thế chúng ta lăn trở? Khi thức dậy,
ý nghĩ đầu tiên của chúng ta là gì? Mấy ai có suy nghĩ:
“Thật là tuyệt vời, ta còn được sống!” Một người
như thế chắc rất hiếm. Đa số lại nghĩ: “Lại một ngày
nữa”, hay những lời tương tự để diễn tả cảm giác
đó. Có bao nhiêu người thực sự biết mình đã thức dậy
như thế nào? Tâm thức của chúng ta đã khởi dậy như thế
nào, nó muốn bận rộn với bao dự tính ngay lập tức, và
ta tạo điều kiện cho những điều đó xảy ra như thế nào?
Nếu không, tâm sẽ buồn chán, chúng ta nói thế, và chúng
ta tìm việc để làm. Nhưng tất cả những hoạt động
này không có gì hơn là một phương tiện để hỗ trợ cho
ảo tưởng rằng có một “cái ngã”, là người đang bận
rộn và do đó rất quan trọng. Nó thỏa mãn lòng ham muốn
được hiện hữu của chúng ta. Thật vậy, tất cả mọi hành
động của chúng ta, đều hướng đến mục đích đó. Nếu
chúng ta tự quán sát bản thân một cách kỹ càng, không bao
lâu ta sẽ nhận ra điều đó. Ngay chính những hành động
có chủ tâm nhất, thiện ý nhất cũng nằm trong hệ thống
hỗ trợ cho lòng ham muốn được hiện hữu.
Nếu chúng ta có thể quán sát một ngày trọn vẹn với đầy
đủ các chi tiết thì rất hữu ích. Có thể là hôm nay, hoặc
chọn một ngày đã qua và cố gắng nhớ lại chúng ta đã
trải qua những giờ phút đó như thế nào. “Tôi đã làm
gì? Tôi đã khiến tâm bận rộn như thế nào? Tôi đã duy
trì ảo tưởng về ngã như thế nào? Tôi có thể nhận ra,
trong sự chuyển động không dừng dứt, ước muốn được
hiện hữu không?” Sự chuyển động không chỉ vật lý mà
tâm lý cũng thế. Tâm chúng ta chấp vào thứ này hay thứ
kia; nghĩ đến tương lai, nhớ về quá khứ. Chỉ khi chúng
ta suy nghĩ thì chúng ta biết rằng mình hiện hữu. Tất cả
những tâm hành này cũng không ngoài một mục đích -để hỗ
trợ ước muốn được hiện hữu. Trong lúc hành thiền, qua
việc sử dụng đối tượng thiền quán như là hơi thở, chúng
ta thực hành buông bỏ những suy nghĩ lăng xăng. Nếu lúc đó
ta có thể buông bỏ chúng, thì ta cũng có thể làm thế trong
cuộc sống hằng ngày. Khi ta làm được như thế thì sự bình
an và tĩnh lặng sẽ phát sinh.
Lòng ham muốn không hiện hữu cũng chỉ là một mặt khác
của đồng tiền. Nó cũng bắt rễ từ một ảo tưởng, đó
là lòng tin có một “cái ngã”. Trong trường hợp này “cái
ngã” không muốn có mặt ở đây. Mọi thứ đều có vẻ
khủng khiếp, và “tôi” muốn thoát ra khỏi nơi này. Đó
là “ước muốn được không có mặt,” và ước muốn này
cũng là một chướng ngại trên con đường tu tập của ta,
cũng như là ước muốn được hiện hữu. Nếu chúng ta đã
hiểu được khổ và giờ muốn quán sát lòng ham muốn được
hiện hữu, thì chúng ta phải cẩn thận đừng rơi vào cái
bẫy này. Vì nếu ta đi đến kết luận rằng tất cả đều
quá khổ và đầy thất vọng, ta chỉ muốn thoát khỏi tất
cả những thứ này, là điều mà tự nó cũng là một hình
thức khác của lòng ham muốn. Nó vẫn là “tôi” muốn “được”
một cái gì đó. Cũng là ảo tưởng, không bao giờ có
thể thành hiện thực. Do đó, điều chúng ta cần làm là buông
bỏ tất cả mọi thứ đã tạo dựng nên ảo tưởng mà chúng
ta ngỡ là thực tại. Đó là sự rèn luyện để có thể nhìn
thấy sự vật luôn như chúng là, chứ không phải như ta nghĩ
chúng phải là. Khi nào chúng ta còn vướng mắc vào các quan
niệm, ý kiến, suy nghĩ của mình, thì ta khó đạt được
tiến bộ. Tương tự, những người du sĩ ngoại đạo
đã trách móc Potthapàda và chế nhạo ông, vì họ không muốn
nghe điều gì mới lạ, khác với sự suy nghĩ của họ. Trái
lại, Potthapàda biết chấp nhận chân lý trong lời dạy
của Đức Phật, nhưng cho đến giờ phút này, ông vẫn còn
lúng túng, chưa biết mình cần phải làm gì.
Điều quan trọng là quán sát ba loại ái dục này và khả
năng đoạn diệt của chúng; hãy quán tưởng về chúng một
cách sâu sắc. Điều này có thể được thực hiện bất cứ
lúc nào, trong một thời thiền nghiêm túc hay lúc ngồi dưới
gốc cây, hay ngay cả khi chúng ta đang đi.
Điều kế tiếp được Đức Phật nhắc đến là sự tịch
tĩnh. Chúng ta có thể tu tập để buông bỏ những suy nghĩ
lăng xăng đã cản trở chúng ta không trải nghiệm được
sự bình lặng và an tĩnh. Suốt cả ngày, chúng ta thường
suy nghĩ, ngay cả khi không có gì thực sự cần phải suy nghĩ.
Chúng ta chỉ nảy ra các ý nghĩ vì cần có cái gì đó để
khiến tâm bận rộn. Nếu có thể tự bắt gặp mình làm như
thế -điều không quá khó khăn- là chúng ta có thể thực hành
buông bỏ suy nghĩ lăng xăng và do đó trải nghiệm được
một trạng thái thuần niệm, khi chỉ có tâm trong sáng, thanh
tịnh. Chúng ta chỉ có mặt. Ở những giây phút đó có
một sự bình an trong tâm, giúp ta nạp lại năng lượng, vì
sự suy nghĩ lăng xăng cũng làm mệt tâm. Chúng ta
có thể có một công việc không đòi hỏi sự vận động
thân thể nào hơn là nhấn nút hay bật một công tắc nào
đó, nhưng cuối ngày chúng ta vẫn mệt nhoài vì phải suy nghĩ,
phán đoán, và phản ứng không ngừng. Nhưng đâu có ai yêu
cầu chúng ta suy nghĩ khi không cần thiết phải làm thế.
Chúng ta sẽ thấy việc này không dễ thực hiện. Trạng thái
tâm tịch tĩnh của sự thuần niệm chỉ đến như là kết
quả của việc đoạn diệt lòng ham muốn hiện hữu. Nhưng
trước khi lòng ham muốn này có thể dừng lại, chúng ta phải
nhận thức được ảnh hưởng của nó. Chúng ta phải nhận
thấy sự biểu hiện không dừng dứt của nó và nó không
đem lại thỏa mãn như thế nào, nó khiến cho chúng ta bức
xúc, bực bội như thế nào, dầu cho bên ngoài của chúng ta
không có vẻ như thế. Có một cảm giác không an tâm liên
tục, mà chúng ta thường cố gắng để lý giải và cho rằng
là do một nguyên nhân ngoại tại nào đó. Nhưng chỉ
có một nguyên do duy nhất, đó là lòng ham muốn được hiện
hữu.
Tâm bình lặng, kết quả của công phu hành thiền viên mãn,
có thể thấy được điều này một cách dễ dàng hơn, vì
nó có thể duy trì được sự khách quan. Một cách chủ quan,
chúng ta nói, “Tôi là vậy đó. Tôi có quá nhiều việc
để làm. Việc này mất thì giờ quá, nhưng nếu tôi không
làm, không ai có thể làm được”. Đại loại là những
sự suy nghĩ như thế. Tuy nhiên một cách khách quan, ta
có thể chỉ thấy một người vừa thực hiện một hành động,
bởi sự thôi thúc của một động lực bên trong. Dầu động
lực đó đưa ta đến đâu, tất cả đều là do lòng ham muốn
được hiện hữu. Điều khó khăn nằm ngay trong chính phạm
trù đó. Chúng ta cần động lực để thực hành, để quán
sát, để hành thiền và để hiểu được lời dạy của Đức
Phật. Nhưng chúng ta cũng phải buông bỏ nó để đạt
được Niết bàn. Nghe hình như rất nghịch lý. Nhưng
chúng ta có thể thực hiện được điều này khi đã tự quán
sát bản thân một cách thấu đáo, đến nỗi ta có thể biết
mọi diễn biến bên trong ta. Không phải vì bên trong ta có
điều gì sai trái, đáng trách. Ta không phải hối hận
về điều gì. Tất cả trong ta đều là một phần của
bản chất con người, mà chúng ta có thể chuyển hóa, nhưng
trước hết ta phải ý thức được những nguyên nhân tiềm
ẩn. Quán tưởng về ước muốn được hiện hữu là điều
rất thú vị, và rất khó thực hiện, nhưng thường những
gì dễ dàng thì không mang lại kết quả quan trọng.
Sau tịch diệt và tịch tịnh, Đức Phật nói đến bước
kế tiếp, là thắng trí. Ở đây thắng trí cũng hàm nhiều
ý nghĩa khác nhau, nhưng điều quan trọng nhất là vị hành
giả với nhiều công phu tu tập, biết rằng các chướng ngại,
cùng với những khuynh hướng tiềm ẩn của chúng (kiết sử),
giờ đã được buông bỏ. Điều này không thể xảy
ra cho đến khi ước muốn được hiện hữu cũng đã được
buông. Các chướng ngại là một phần trong bản chất con người.
Khi thực hành thanh tịnh hóa tâm, chúng ta có thể dần dần
loại bỏ và làm suy yếu áp lực của chúng. Đối với vấn
đề này, chúng ta có sự hỗ trợ của thiền định, chánh
niệm và sự thay thế bất thiện pháp với thiện pháp.
Nhưng bằng cách đó, chúng ta không thể hoàn toàn hủy diệt
chúng. Tham và sân sẽ còn có mặt. Chỉ có ở giai đoạn cuối
trên con đường tâm linh là chúng ta mới cuối cùng có khả
năng buông bỏ chúng hoàn toàn. Theo sau thắng trí là sự giác
ngộ, Niết bàn, bước cuối cùng trong cuộc hành trình.
Con đường đi đến giác ngộ bằng việc hành thiền và thanh
tịnh hóa đem lại cho tâm sự sáng suốt đến độ nó có
thể quán sát được những tiềm thức sâu xa nhất của con
người. Tiềm thức này không là gì hơn là ước muốn được
hiện hữu. Đó là điểm trục khiến chúng ta làm những việc
điên rồ nhất, khủng khiếp và bi đát nhất, mà cũng chính
nó giúp ta làm những việc bình thường khác như chúng ta vẫn
làm, trong cuộc sống hằng ngày, từ sáng đến tối.
Cho đến giờ, Đức Phật đã hai lần lặp lại giáo lý của
Ngài với Potthapàda, thuyết cho ông về con đường của trí
tuệ dẫn đến Niết bàn và Tứ Diệu đế. Nhưng Đức Phật
biết rất rõ rằng Potthapàda vẫn chưa thật sự hiểu được,
vì thế Đức Phật đã trình bày lại một cách khác:
Này
Potthapàda, có một số Sa môn và Bà-la-môn có chủ trương
như thế này, có chủ kiến như thế này: “Sau khi chết, tự
ngã hoàn toàn hạnh phúc, vô bịnh”.
Đó là quan niệm phổ biến về thiên đàng, nơi chúng ta chơi
nhạc và hạnh phúc miên viễn. Quan niệm này vẫn còn tồn
tại đến ngày hôm nay trong một số cộng đồng Phật giáo.
Ta
đến những vị ấy và hỏi: “Có phải quý Đại đức có
chủ trương. . . những vị ấy công nhận là phải. Ta
nói: “Chư Đại đức có sống và đã biết, đã thấy thế
giới này là hoàn toàn hạnh phúc không? Khi được hỏi
vậy, các vị ấy trả lời là không.
Đức Phật không những chỉ ra cho Potthapàda thấy là các vị
Bà-la-môn đang nói những điều không có căn cứ, mà Ngài
cũng chỉ ra rằng bất cứ ai tin rằng họ có thể tìm được
hạnh phúc trong thế giới này là sai lầm. Rõ ràng Đức Phật
muốn Potthapàda phải suy nghĩ về điều này. Tôi đề
nghị chúng ta cũng nên làm như thế. Chúng ta có thể quán
tưởng về hôm nay hay một ngày nào đó đã qua, giống như
chúng ta đã làm khi quán tưởng về ước muốn được hiện
hữu. Nếu chúng ta có thể nhận ra mình luôn buông việc này
bắt việc kia như thế nào, vì chúng không đem lại thỏa mãn
cho chúng ta, thì ta sẽ hiểu câu hỏi của Đức Phật: Có
bao giờ các vị được trọn một ngày hay một đêm hạnh
phúc?
Điều này không có nghĩa rằng chúng ta cần phải bất hạnh;
nhưng nếu chúng ta quán sát một ngày hoàn toàn bình thường,
ta sẽ thấy gì? Không có gì hoàn toàn thỏa mãn, không
có gì hoàn toàn viên mãn. Có thể ta cũng có những giây phút
vui vẻ, nhưng chúng kéo dài được bao lâu? Chúng ta có biết
bao cảm thọ hay suy nghĩ chẳng đưa đến tịch tịnh, tịch
diệt, hay Niết bàn phải không? Đó là khổ. Không phải cái
khổ rõ ràng mà ai cũng dễ dàng nhận biết -như khổ vì không
được cái ta muốn hay khổ vì được cái ta không muốn. Mà
là cái khổ gắn với kiếp con người, và chúng ta cần phải
quán sát nó thấu đáo với tất cả sự chú tâm.
Nói thế, không phải để chúng ta nhìn cuộc đời với con
mắt bi quan. Thật ra, nếu chúng ta nhìn cuộc đời bằng
cái nhìn thực tế, thì chúng ta có thể chấp nhận sự không
toàn hảo của nó dễ dàng hơn, và có thể hiểu rằng giáo
lý của Đức Phật là giải pháp tuyệt đối. Nó cũng có
thể giúp ta có được sự quyết tâm để đi theo con đường
của Phật và tự mình nhìn ra được chân lý của Ngài. Ý
thức được sự không thỏa mãn mơ hồ, nhỏ nhặt, nhưng
nó luôn có mặt trong tâm và trong cảm thọ của chúng ta sẽ
làm giảm bớt khổ, vì chúng ta có thể chấp nhận rằng cuộc
đời là thế. Phản ứng thông thường đối với khổ là
hứng chịu và than vản, nhưng làm thế không ích lợi gì.
Vì khi khổ, chúng ta không thể nhìn thấy sự việc một cách
rõ ràng. Do đó tốt hơn hết là chúng ta thường quán tưởng,
và khi khổ khởi lên, ta tự hỏi, tâm tôi đang làm gì?
Sống nghĩa là gì?
Đức Phật kể rằng tiếp theo Ngài hỏi các vị Bà-la-môn
và các du sĩ ngoại đạo:
Chư
Đại đức có biết một con đường nào, một phương pháp
nào có thể đưa đến sự chứng ngộ một thế giới hoàn
toàn hạnh phúc không? Khi được hỏi vậy, các vị ấy
trả lời: “Thưa không”.
Ngày nay chúng ta có không biết bao nhiêu là tạp chí tôn giáo
và rất nhiều lý thuyết, chỉ bày cho ta vô vàn phương cách,
nhưng rõ ràng là không có cách nào thành công. Vì khi
nào con người còn có ham muốn được hiện hữu, thì còn
có khổ. Đáng kể là trong ái dục, ẩn chứa sự sợ hãi
bị đoạn diệt, không được hiện hữu, thường được thể
hiện qua sự sợ chết. Người ta thường nói, “Ô, tôi không
sợ chết,” vì họ nghĩ rằng đó là một sự ra đi dễ dàng.
Sau đó họ lại nói: “Tôi không muốn bị kéo dài đau khổ,”,
hay “Tôi không muốn những người tôi thương yêu chết trước
tôi”. Nhưng nỗi sợ chết là một nỗi khổ thực sự, tiềm
ẩn trong lòng ham muốn được hiện hữu.
Nỗi sợ bị đoạn diệt cũng thể hiện ra, khi chúng ta không
được tôn trọng, chấp nhận, hay yêu thương. Một số người
gần như có thể làm bất cứ điều gì để được người
khác ngưỡng mộ. Điều đó khiến cho cuộc sống của họ
trở nên rất khó khăn, vì họ trở nên hoàn toàn phụ thuộc
vào ý kiến và tình cảm của người khác, là những thứ
không đáng tin cậy. Vì chúng ta nghĩ mình là người đặc
biệt, khác người, nên chúng ta cần một hệ thống hỗ trợ
cho con người ấy, và khi chúng ta không thể tìm được sự
hỗ trợ nơi bản thân, chúng ta mong người khác đáp ứng
điều đó. Đôi khi ta cũng nhận được tình thương yêu,
lòng ngưỡng mộ của tha nhân, nhưng điều đó không thể
kéo dài mãi. Không có ai luôn được ngưỡng mộ.
Trong khi “cái tôi” vì dựa trên ảo tưởng, nên nó luôn
cần sự hỗ trợ đó. Ảo tưởng càng lớn, thì ái dục đó
càng nguy hiểm. Tôi muốn so sánh điều đó với một người
béo phì, cố gắng đi qua một cánh cửa hẹp, nên bị kẹt
giữa hai thành cửa. Tương tự, nếu chúng ta cần quá nhiều
sự quan tâm, hỗ trợ cho tự ngã của mình, ta sẽ bị tổn
thương với bất cứ sự chỉ trích nhỏ nhặt hay thiếu hiểu
biết nào. Tự ngã càng lớn, thì nó càng dễ bị tổn thương.
Tự ngã càng nhỏ thì ta càng ít gặp khó khăn. Và khi không
còn có ngã, thì chúng ta không thể nào bị đụng chạm, thương
tổn. Làm sao chúng ta có thể giảm thiểu tự ngã? Bằng thiền
quán, bằng cách đạt được chút trí tuệ trong những sự
thể hiện của ham muốn được hiện hữu trong từng ngày,
từng giờ hay từng phút giây.
Tất cả chúng ta đều đã trải qua nhiều khổ đau, mặc dầu
phần đông không biết các nguyên nhân tiềm ẩn. Thường chúng
ta xem con đường tâm linh như là một cách để giải thoát
sự khổ đau bằng hành động, lời nói hay trải nghiệm một
điều gì có thể mang đến hạnh phúc. Tuy nhiên, Đức Phật
dạy rằng cách duy nhất để được thực sự hạnh phúc là
đoạn diệt ảo tưởng về ngã, có nghĩa là nói cho cùng,
ta phải buông bỏ ước muốn được hiện hữu.
Đức Phật tiếp tục:
Ta nói với các vị ấy: “Chư Đại đức có nghe tiếng
nói của chư thiên, đã được sinh vào một thế giới hoàn
toàn hạnh phúc. ‘Này các vị, hãy cố gắng khéo thực
hành. Này các vị, hãy thực chứng một thế giới hoàn toàn
hạnh phúc. Này các vị, chúng tôi đã thực hành, đã sanh
vào một thế giới hoàn toàn hạnh phúc’ không? Khi được
hỏi vậy, các vị ấy trả lời là không. Này Potthapàda, ngươi
nghĩ thế nào. Sự kiện là như vậy, thời có phải là
lời nói của những Sa môn, Bà-la-môn kia là không chính xác,
hợp lý?
Đức Phật không hề e ngại khi nói rằng một giáo lý nào
đó là không chính xác, không hợp lý. Ngài không tán
đồng bất cứ sự hướng dẫn tâm linh nào mà không đi thẳng
đến trọng tâm của vấn đề.
Giờ Đức Phật cho một ẩn dụ:
Như
có một người nói: “Tôi yêu và ái luyến một cô gái đẹp
trong nước này”. Có người hỏi: “Này bạn, cô gái
đẹp ông yêu và ái luyến ấy. Ông có biết là người
giai cấp nào, là Sát-đế-lỵ, hay Bà-la-môn, hay Phệ-xá, hay
Thủ-đà?” Khi được hỏi vậy, người ấy trả lời:
“Không biết”. Rồi họ có thể nói: “Vậy thì anh có biết
tên gì, lớn người, thấp người hay người bậc trung?
Da đen sẵm, da ngăm ngăm đen hay da hồng hào? Ở tại làng
nào, hay thành phố nào?” Khi được hỏi vậy, người
ấy trả lời không biết. Và họ sẽ nói: “Như thế
thì anh yêu và ái luyến một người anh không biết, không
thấy?” Được hỏi vậy vị ấy trả lời phải. Này
Potthapàda, ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy,
thời có phải lời nói của người kia không chính xác hợp
lý?
Potthapàda
trả lời: Vâng phải, Bạch Thế tôn!
Như vậy này Potthapàda, những Sa-môn và Bà-la-môn có
chủ trương như thế này, có chủ kiến như thế này: ‘Sau
khi chết tự ngã hoàn toàn hạnh phúc, vô bệnh’, . . . thời
có phải lời nói của những Sa-môn, Bà-la-môn kia là không
chính xác, hợp lý?
Vâng
phải, Bạch Thế tôn!
Đức Phật muốn cho Potthapàda thấy rằng các vị thầy
kia không có chút bằng cớ gì của bất cứ thứ gì để có
thể hỗ trợ cho một niềm tin như thế. Đó chỉ là những
câu chuyện vô lý, không chính xác. Và các vị ấy cũng
vô lý, dại khờ như người đàn ông định đi tìm cô gái
đẹp mà không biết cô ta là ai hay ở đâu.
Niềm tin vào một thứ hạnh phúc thường hằng có thể tìm
thấy ở hầu hết các tôn giáo: Nếu chúng ta sống tương
đối tốt, không phạm quá nhiều tội lỗi, thì bằng cách
nào đó, sau khi chết, “cái ngã” sẽ được hạnh phúc mãi
mãi về sau. Đức Phật chẳng bao giờ nói những điều như
thế. Ngược lại, Đức Phật nói con đường duy nhất đi
đến hạnh phúc là phải tự nhìn thấy được cái ngã của
mình: chỉ là một tâm hành.
Đức Phật cho một thí dụ khác:
Này
Potthapàda, như một người muốn xây tại ngã tư đường một
cái thang để leo lên lầu. Có người hỏi: “Này bạn,
ông muốn xây một cái thang để lên lầu, vậy ông có biết
lầu ấy là về hướng Đông, hay về hướng Tây, hay về hướng
Bắc, hay về hướng Nam? Nhà lầu ấy cao hay thấp, hay
trung bình?” Được hỏi vậy, vị ấy trả lời không
biết. Và họ có thể nói: “Này bạn, như thế
ông muốn xây một cái thang để leo lên một cái lầu mà ông
không biết, không thấy?” Khi được hỏi vậy, vị ấy
trả lời phải. Này Potthapàda, ngươi nghĩ thế nào?
Sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói của người
kia không chính xác hợp lý?
Vâng
phải, Bạch Thế tôn!
Nói cách khác, người ta cố gắng để đạt đến một lâu
đài hạnh phúc trong mơ, mà không có chút khái niệm gì về
việc nó sẽ được xây như thế nào, hay làm sao đi đến
nơi đó. Đức Phật giải thích rốt ráo, tường tận về
vấn đề này, vì Ngài muốn nhắc nhở Potthapàda về tà kiến
của bản thân ông và những lý thuyết về ngã mà họ đã
thảo luận trước đây. Lần này Đức Phật nói về vấn
đề này một cách khác. Đức Phật rất kiên nhẫn với Potthapàda,
bằng nhiều cách Đức Phật thuyết Pháp với hy vọng rằng
cuối cùng Potthapàda sẽ hiểu. Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể
thông cảm với Potthapàda, vì không phải dễ dàng để hiểu
rằng cái ngã đang ngồi đây, đang mong muốn hạnh phúc, chính
là cái luôn cản trở ta tìm đến hạnh phúc. Bất cứ lúc
nào, từ sáng đến tối, nó cản trở ta được tự tại,
hạnh phúc. Nếu chúng ta quán sát mình một cách chủ quan,
thì ta sẽ chỉ thấy “cái tôi.” Nhưng một khi chúng ta có
thể nhìn một cách khách quan, chúng ta thấy rằng ‘ngã’
không là gì cả mà chỉ là một ý nghĩ, một tâm hành. Không
phải là dễ dàng để từ bỏ một thói quen suy nghĩ đã hằn
lên trong tâm ta, như bất cứ ai đã hành thiền đều biết.
Nhưng ít nhất chúng ta ý thức về điều đó. Chúng ta bắt
đầu nhận biết điều gì đã gây ra những tâm trạng khổ,
vui, bực bội, lăng xăng trong ta, tại sao ta không ngừng muốn
thứ này và ghét thứ kia. Đó là do ngã tưởng, xuất phát
từ lòng ham muốn được hiện hữu. Khi chúng ta đến gần
hơn với chân lý này, chúng ta sẽ thấy Đức Phật thật là
một bậc đạo sư. Xuyên suốt lịch sử nhân loại, đây
là lần duy nhất mà số phận con người và sự chuyển hóa
tâm thức được trình bày một cách rõ ràng như thế.
Nhiều người ngưỡng vọng Đức Phật, cầu nguyện đến
Ngài, nhưng chẳng bao giờ hiểu được sự vi diệu thực sự
của Ngài. Để có được cơ hội làm như thế trong kiếp
sống này là một nghiệp quả lớn. Đó là cơ hội mà chúng
ta cần nắm bắt. Nhận thức được sự vi diệu của giáo
lý (mà nó) đi đến tận gốc rễ của sự hiện hữu của
ta, có nghĩa là chúng ta có thể nhìn ra được sự thật đó
nơi bản thân, chúng ta “nhìn thấy bên trong” (in-see) nó.
Khi có thể làm như thế, là chúng ta đã hiểu được Pháp.
Điều này không có nghĩa là chúng ta phải diệt bỏ “cái
tôi,” nhưng là chúng ta hiểu nó. Chỉ khi nào chúng ta thực
sự biết nó như nó là, thì chúng ta mới có thể buông bỏ
nó, vì để buông bỏ một cái gì đó, trước hết nó phải
thực sự ở trong tầm nắm của chúng ta.