Chương
4
Sơ Thiền
Sau khi đã bàn qua tất cả những bước chuẩn bị đưa đến
thiền định, giờ bản kinh nói đến tầng thiền định (jhana)
đầu tiên.
Đối với những ai đã đọc qua kinh điển của đức Phật
được truyền trao lại cho chúng ta trong bộ tạng kinh tiếng
Pali, mà Phật giáo Nguyên thủy căn bản dựa trên đó, thì
không thể phủ nhận rằng các tầng thiền định là một
phần của con đường đạo. Như đối với những lời
dạy trong bản kinh này về -năm chướng ngại, sự bảo hộ
các căn, chánh niệm, và sự hiểu biết sáng suốt– tất
cả đều là những bước trên con đường tu học. Nếu
chúng ta thật sự muốn có một sự hướng dẫn tâm linh, hầu
mang lại cho ta niềm vui và hạnh phúc, thì ta cần tất cả
các bước trên. Chúng ta không thể chọn lựa, phần này,
phần kia, đơn thuần chỉ vì ta thấy nó khó, hoặc người
nào đó nói với ta rằng nó không cần thiết. Nhưng đấy
chỉ là những khái niệm, ý kiến cá nhân, trong khi Đức Phật
đã chỉ bày cho chúng ta một con đường trọn vẹn, và dĩ
nhiên là dựa vào lời dạy của đức Phật sẽ an toàn và
lợi ích hơn. Đây không phải là bài giảng duy nhất
về các tầng thiền định; mà còn có nhiều bản kinh khác
nữa. Tôi nhấn mạnh điểm này bởi vì không hiếm những
trường hợp các thiền sinh tình cờ đạt được thiền định,
mà không hiểu họ đang trải nghiệm điều gì. Nhiều
thiền sinh đã hoài công tìm kiếm sự hướng dẫn. Đã
được đọc qua những lời Phật dạy trong các kinh điển,
ta cũng có thể tự mình cố gắng thực hành theo, nhưng thật
không phải dễ. Phần đông đều cần có sự hướng dẫn
của các vị thầy.
Giờ ta hãy suy gẫm về lời dạy của đức Phật về sơ thiền
trong bản kinh này. Đức Phật giảng: “khi vị ấy [tỷ-kheo]
biết rằng mình đã đoạn lìa năm chướng ngại…”.
Điều này rất quan trọng. Năm chướng ngại đã tạm
thời được tiêu trừ ở sơ thiền. Chúng không có cơ hội
để xuất hiện trong các tầng thiền định, nhưng chúng ta
phải thực sự dẹp bỏ được chúng khi ngồi xuống gối
thiền. Vì chúng vẫn còn hiện hữu trong ta, ta phải cố
gắng đừng để chúng phát khởi. Ta cần thấy rằng phải
bắt đầu tọa thiền với sự thương yêu, lòng từ bi, không
có nghi, không tham ái, không hôm trầm thụy miên, hay sân hay
trạo cử hối tiếc. Các chướng ngại phải được dẹp
bỏ sang một bên trong giờ ngồi thiền. Thật vậy, đây
chính là điều mà tự động chúng ta phải hướng tới.
Nếu bất cứ chướng ngại nào xuất hiện, tâm thức liền
trở nên dao động và rồi chúng ta không có cách nào để
ngồi thiền. Tuy nhiên, nếu chúng ta ngồi thiền với tình
thương, lòng bi mẫn, tự tại, và với quyết tâm thiền định,
thì dù không nghĩ gì đến kết quả, các chướng ngại cũng
bị chặn đứng. Thiền định sẽ mang đến cho ta những
cảm giác dễ chịu, thoải mải, vì khi năm chướng ngại biến
mất dù là tạm thời, chúng ta cũng vẫn cảm thấy khá an
lạc.
Khi quán tự thân đã xả ly năm triền cái ấy, hân hoan
sanh; do hân hoan, nên hỷ sanh; do tâm hoan hỷ, thân được khinh
an; . . .
Ở đây, niềm hỷ lạc và hân hoan vẫn còn ở mức thế tục,
vẫn chưa ở mức thiền định. Trong tiếng Pali, có nhiều
từ khác nhau để diễn tả việc này. “Hỷ lạc” là
một cảm giác dễ chịu, tự tại, khiến thân được bình
ổn. Với thân được bình ổn, chúng ta cảm nhận an
lạc, và với tâm an lạc, ta dễ được định. Đối
với những ai muốn hành thiền, thì không thể quên điều
này. Niềm an lạc, tự tại nơi tâm là một điều kiện tiên
quyết; không có nó, ta khó đạt được thiền định.
Ở đây niềm hỷ lạc được diễn tả như kết quả của
sự vững chãi và yên tịnh nơi thân. Cảm giác của sự vững
chãi và yên tịnh này phát khởi từ tâm vui mừng được hành
thiền. Tâm hỷ lạc có thể do nhiều nguyên nhân khác
nhau; có niềm vui đến từ việc biết rằng ta có thể thật
sự theo đuổi con đường đạo, niềm vui được ngồi tĩnh
lặng, niềm vui khi thân được tự tại. Nếu không có
những niềm vui như thế, nhất là niềm vui trong việc tu tập
tâm linh, thì việc hành thiền của ta sẽ bị bỏ sang một
bên, khi ta cho rằng có những chuyện quan trọng khác, cần
làm hơn.
Không có niềm vui, thì không có thiền định. Chúng ta ít khi
được nghe điều này, mặc dù đức Phật đã nhắc đến
nhiều lần. Ngài dạy rằng chúng ta chỉ có thể hành thiền
nếu ta cảm thấy thân tâm thoải mái, tự tại, và ta chỉ
có thể đạt được thiền định khi tâm đã an lạc.
Nếu ta thật sự biết vì sao mình phải hành thiền, và đánh
giá cao sự nỗ lực của bản thân, thì chỉ sự hiểu biết
đó cũng đủ mang đến niềm vui.
Đây vẫn còn là pamojja, “niềm vui thế tục”, chưa phải
là sukha, “niềm vui thiền định”. Nhưng khi chúng ta có thể
ngồi xuống gối thiền mà không còn năm chướng ngại, thì
tất cả hệ thống thân tâm mà ta sở hữu, có thể cảm nhận
được sự an tịnh, như thể thân và tâm đã hoà nhập thành
một. Chúng ta cảm giác rằng mình đang bắt đầu một việc
có tiềm năng mãnh liệt nhất mà ta chưa bao giờ biết đến.
Đức Phật tiếp:
Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền
thứ nhất. . .
Từ “xả ly” (detached) thường bị hiểu lầm vì các bài
giảng thường không nói rõ “ly dục và ly bất thiện pháp’.
Một số kinh chỉ nói đơn giản rằng sơ thiền là trạng
thái đạt được do xả ly. Do đó có sự hiểu lầm cho
rằng chúng ta phải rời bỏ cuộc sống bình thường hiện
tại, để vào rừng tu một thời gian dài. Tu trong rừng
cũng là tốt, nhưng không cần thiết. “Xả ly” không
có nghĩa gì hơn là ngay lúc ấy, ta không có tâm ái dục hay
bất thiện, hay nói tóm lại là ta cần dẹp bỏ năm chướng
ngại sang một bên. Kết quả là một cảm giác như
buông bỏ được gánh nặng.
. . . vị ấy chứng và trú thiền thứ nhất, với
tầm, với tứ. . .
Các từ Pali vitakka-vicàra thường được dịch là “nhớ nghĩ
và suy ngẫm”. Nhưng mọi thiền sinh đều biết rằng
nếu họ nhớ nghĩ và suy ngẫm, họ khó thể tiến vào sơ
thiền. Thật ra, vitakka-vicàra còn có thêm một nghĩa nữa,
đó là “ sự tìm kiếm (tầm) và trụ lại (tứ) trong chủ
đề thiền”, và đây là ý nghĩa mà câu kinh này muốn nói
đến.
“…. Trạng thái hỷ lạc do ly dục sinh”. Đây
mới là hỷ lạc trong thiền định. Cả hai phát khởi
cũng lúc. Hỷ trong giây phút này là một cảm xúc hoan
hỷ, và lạc đi kèm theo nó. Đây mới là sukha. Sau
này ta sẽ biết đó là đặc tính chính yếu của nhị thiền.
Trong sơ thiền, cảm giác hỷ lạc này xuất hiện dưới nhiều
cách thức và mức độ khác nhau. Nó có thể trào dâng
hoặc nhẹ nhàng. Nó có thể là cảm giác nhẹ nhàng,
bay bổng, thăng hoa, kéo dài, nhột nhạt – bất cứ cảm giác
nào như vừa kể trên hay hơn thế nữa, nhưng luôn luôn là
cảm giác hỷ lạc.
Trạng thái này cũng được diễn tả là “sự hưng
phấn”, nghĩa là chúng ta bắt đầu rất thích thú
hành thiền. Lúc ấy, nếu chúng ta trụ vào hơi thở,
thì thật sai lầm. Dầu chúng ta sử dụng phương thức
nào, thì nó cũng giống như chiếc chìa khóa để mở cửa,
vào trong nhà, nơi chúng ta làm quen với đời sống nội tại
thực sự của mình. Ta sẽ khám phá ra rằng tất cả
mọi thứ mà ta chất chứa trong tâm chẳng là gì hết, mà
chỉ là những thứ dư thừa. Chúng có mặt ở đó do bởi
lòng tham muốn, ghét bỏ, phản ứng, vọng tưởng, dự tính,
hy vọng, quan điểm và ý kiến. Khi chúng ta có đủ định
tĩnh để bước vào bản thể nội tại, và trải nghiệm được
cảm giác hỷ lạc, chúng ta thật sự có thể chứng nghiệm
được chân lý này.
Chúng ta cũng cần biết là các cảm giác này luôn hiện diện
trong ta. Nhưng chúng ta không để cho chúng xuất hiện.
Nếu vậy thì đây là chuyện lạ kỳ. Chúng luôn có mặt,
nhưng ta không thể tiếp xúc với chúng, vì tất cả những
rối loạn, náo động nơi thân tâm. Khi chúng ta có khả
năng trải nghiệm các cảm giác này, bất cứ khi nào mà ta
muốn, thì ái dục và tham đắm sẽ biến mất. Chúng
ta nhận thức được rằng mình đã có những gì mình muốn,
hoàn toàn độc lập với bất cứ ngoại cảnh nào. Chúng
ta không còn luôn cố gắng để làm cho mọi việc xảy ra theo
ý muốn của mình, là điều trong bất cứ trường hợp nào,
cũng chỉ là một việc làm vô ích, phù phiếm.
Chứng nghiệm được sơ thiền là một biến cố trọng đại
trong cuộc đời chúng ta. Tuy nhiên, nếu ta không tiếp
tục hành thiền một cách đều đặn, thì ta sẽ không thường
xuyên đạt được trạng thái thiền định đó, do đó không
thể có được trí tuệ mà thiền định có thể mang đến
cho ta. Kể cả khi cảm giác đó rất mạnh mẽ, chúng
ta cũng không liên hệ được với nó một cách phù hợp.
Với niềm hỷ lạc do ly dục sanh, vị ấy tràn ngập,
chứa chan, sáng rở cả châu thân, không có một nơi nào trên
thân của vị ấy không tiếp xúc với hỷ lạc do ly dục sanh.
Nếu chúng ta chỉ cảm nhận được niềm hỷ lạc này ở
một vài nơi trên thân, ta cần phát tán nó rộng ra. Cả
thân thể cần được “thấm đẫm, chan hòa” hỷ lạc.
Dầu ở đây chúng ta đang nói đến các cảm xúc nơi thân,
nhưng đó không phải là loại cảm xúc quen thuộc hàng ngày.
Nó tương tự như một cảm giác xúc chạm rất dễ chịu,
nhưng không phải như thế. Cảm giác đó vi tế, và thoải
mái hơn nhiều, và có thể nói là chúng ta có thể điều khiển
nó. Một khi chúng ta đã làm chủ được các tầng thiền
định, chúng ta có thể đạt đến trạng thái hỷ lạc này
bất cứ lúc nào ta muốn, và có thể kéo dài cảm giác ấy
theo ý thích. Bất cứ ai đã làm chủ được các tầng
thiền định đều có khả năng này. Họ cũng có thể
di chuyển từ bậc thiền này sang bậc thiền khác trong tám
tầng thiền định, không nhất thiết phải theo lớp lang thứ
tự, đến và đi bất cứ khi nào họ muốn. Nhưng dĩ nhiên
các vị đó đã tu đến các cấp bậc rất cao.
Chứng và trú thiền thứ nhất, dục tưởng xưa kia của
vị ấy được diệt trừ. Lúc ấy, tưởng hỷ lạc vi
diệu khởi lên . . . .
Điều đầu tiên chúng ta được biết ở đây là dục tưởng
biến mất. Đúng vậy, khi ta trải nghiệm các cảm giác
hỷ lạc, sảng khoải nơi thân, các dục tưởng đã không
phát khởi. Ta đã hài lòng với những gì mình có.
Dĩ nhiên dục tưởng vẫn có thể xuất hiện vào những lúc
khác, nhưng khi chúng ta càng có được trí tuệ trên con đường
hành thiền, và càng phát triển khả năng đạt định, thì
dục tưởng càng ít có cơ hội xuất hiện.
“Dục tưởng” ở đây muốn ám chỉ “ham muốn nhục dục”
(sexual desire), là ham muốn thể xác mạnh mẽ nhất, do đó
chính nó đã phá hoại cuộc sống của bao người. Những
đam mê mãnh liệt có thể vô cùng xáo trộn, vì thế có được
một phương cách chữa trị là điều tối ưu quan trọng.
Ở đây chúng ta chỉ nói đến thời gian an trú trong các tầng
thiền định. Tuy nhiên, khi đã có được tuệ giác, thì
chúng ta hiểu được rằng tất cả những gì chúng ta ao ước,
mong cầu đều đã có sẵn trong ta, và khi đã tự chứng nghiệm
được điều này với bản thân nhiều lần, ta sẽ có nhiều
cơ hội buông bỏ ái dục hơn – nếu không hoàn toàn buông
bỏ, thì ít ra nó cũng không còn quấy nhiễu ta nữa.
. . . một khái niệm chân thật nhưng vi tế về hỷ
lạc. . .
“Chân thật” có nghĩa là chúng ta thật sự đang trải nghiệm
điều đó. Chữ “vi tế” được dùng để diễn tả
bốn bậc thiền đầu tiên, được biết đến như là những
bậc thiền sắc giới vi tế. Trong cuộc sống bình thường,
chúng ta thật sự cũng đã trải qua các trạng thái tương
tự, nhưng chúng ở dạng thô hơn nhiều. Chúng ta cũng
có những cảm xúc hân hoan, nhưng chúng luôn phụ thuộc vào
các điều kiện bên ngoài. Ta không thể khiến chúng xảy
ra khi ta muốn. Thường thì khi chúng qua đi, cảm giác
tự tại, bình an cũng không còn, là điều không thể xảy
ra ở các tầng thiền định. Do tính chất vi tế của
chúng, ta duy trì được sự tự tại. Hơn nữa, chúng
ta cũng biết rằng mình có thể đạt định theo ý muốn.
Khi đã tiến triển đến tầng thiền thứ hai, ba và bốn,
chúng ta sẽ thấy rằng các cảm giác vi tế này cũng tương
tự với các cảm giác mà ta thường trải qua, nhưng ở một
mức độ thô và không toại ý. Chúng chóng qua, và có
thể là chúng ta khó thể lặp lại chúng theo ý mình muốn.
Ngược lại, đối với các tầng thiền định, chúng ta chỉ
cần ngồi xuống, định tĩnh là có thể trải nghiệm trở
lại.
Đạt được định bằng cách đó mang lại nhiều lợi ích
cho tâm vì nó diệt trừ được tâm suy nghĩ lan man. Tất
cả những hy vọng, dự tính, lo âu, sợ hãi, thích và không
thích của chúng ta được dẹp sang một bên. Đây là
một cách để giúp ta được thực sự thoải mái, một việc
tốt nhất mà ta có thể làm cho bản thân .
“. . . Và khi vị ấy ý thức được niềm hỷ lạc này.
. . “ Nói cách khác, vị ấy trú tâm vào đó.
“Như vậy do học tập, một tưởng khởi lên, cũng do
học tập một tưởng diệt trừ. Và Thế Tôn nói : Đó
là sự học tập Thế Tôn nói đến”.
Potthapàda đã hỏi đức Phật về sự tịch diệt của tăng
thượng tưởng, cũng như muốn biết tưởng phát khởi như
thế nào, và làm thế nào một người trở nên “không còn
tưởng”. Potthapàda đã được nghe về bốn trường
hợp khác nhau khi điều đó có thể xảy ra. Nhưng Đức
Phật bảo rằng tất cả đều sai lạc, không chính xác.
Ngài dạy rằng “Tưởng của một người phát khởi
và qua đi, tùy theo nhân duyên. Có tưởng khởi lên do
học tập (rèn luyện), và có tưởng cũng do học tập (rèn
luyện) mà bị diệt trừ”. Sau đó Đức Phật
giảng thêm chi tiết cho Potthapàda về sự học tập, rèn luyện,
qua đó tâm được thanh tịnh để có thể bước vào sơ thiền.
Trong tầng thiền này, Đức Phật thuyết, tưởng vi tế của
hỷ lạc sẽ phát khởi, và sẽ chấm dứt khi tâm xuất định.
Đây là phần đầu câu trả lời của Đức Phật đối với
câu hỏi của Potthapàda.
Rồi Đức Phật đưa ra một ẩn dụ để cho ta biết cảm
giác khi đạt được sơ thiền là như thế nào.
“Như một người hầu tắm lão luyện hay đệ tử người
hầu tắm. Sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng,
liền nhồi bột ấy với nước, cục bột tắm ấy được
thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước ướt, thấm
ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành
giọt. Cũng vậy, vị tỷ-kheo thấm nhuần, tắm ướt,
làm cho sung mãn, tràn đầy thân thể với hỷ lạc do ly dục
sanh, không một chỗ nào trên thân không được hỷ lạc do
ly dục sanh ấy thấm nhuần”. (2) (Câu 76)
Một giải thích tuyệt vời về cảm giác của sơ thiền, thấm
nhuần cả thân. Cần nhớ là khi ngồi xuống tọa thiền,
ta không được để bất cứ chướng ngại nào có mặt.
Muốn được như thế, ta cần luôn quan sát tâm trong các sinh
hoạt hàng ngày, ngoài thời gian hành thiền. Ta cần phải
có chánh niệm đối với những nghĩ suy của mình, không để
cho tâm chạy đuổi ráo riết, loanh quoanh để tìm cách thõa
mãn các ái dục.
Chúng ta cần duy trì chánh niệm, và luôn phải để ý đến
các hành động nơi thân, dầu là với chủ tâm hay do bản
năng. Bằng cách này, tâm đã bắt đầu biết gạt bỏ
các chướng ngại.
Nếu ta có thể tọa thiền với tâm không còn chướng ngại,
thì không có lý do gì khiến ta không thể đạt định.
Tuy nhiên nếu tâm bắt đầu suy nghĩ, “Tôi muốn đạt định;
tôi phải làm được điều đó; có thể tôi phải thực hành
theo phương thức khác”, lúc đó, dĩ nhiên là tất cả mọi
cố gắng của chúng ta đều uổng phí. Chúng ta chỉ
cần để “tự nhiên”, không có những suy nghĩ lao xao, không
để những khó khăn cản trở. Tất cả đều ngụy tạo;
tất cả đều do tâm tạo. Chân lý thật sự hoàn toàn
khác hẳn, và ta chỉ có thể đến gần chân lý hơn khi đạt
đến các tầng thiền định. Dĩ nhiên ta còn phải trải qua
bao công phu tu tập, nhưng ít nhất ta đã ý thức được rằng
“có một tâm thức trong tôi, khác hơn cái mà tôi từng biết
đến”.
Khi xuất ra khỏi bất cứ tầng thiền định nào, hay kết
thúc một buổi tọa thiền tốt đẹp nào, chúng ta cần làm
ba việc. Thứ nhất là phải hiểu rằng sau khi xuất định,
trạng thái hỷ lạc cũng qua đi. Thiền sinh cần phải
quan sát sự tan hoại đó và chấp nhận rằng nó cũng vô thường.
Đừng nói điều đó một cách máy móc – chúng ta thường
nghe và sử dụng từ “vô thường” nhiều đến độ không
còn để ý đến ý nghĩa của nó nữa. Chúng ta chỉ biết
chấp nhận vạn pháp đều vô thường. Ta cần thực sự
quan sát trạng thái dễ chịu đó biến mất. Điều đó không
nằm trong từ ngữ, mà chính ý nghĩa giáo huấn của nó mới
quan trọng, có nghĩa là chính ta phải tự trải nghiệm nó.
Chúng ta có thể đọc hàng ngàn quyển sách, tụng hàng ngàn
câu kệ, cũng không ích lợi gì. Tuệ giác chỉ phát khởi
từ kinh nghiệm tự chứng, chứ không có cách nào khác hơn.
Tất cả chúng ta đều không ngừng trải nghiệm. Nếu
có thể hiểu được các trải nghiệm này một cách đúng
đắn, thì tất cả chúng ta đều đã giác ngộ. Thí dụ, tất
cả đều biết đến sự vô thường của từng hơi thở, nhưng
biết bao người vẫn còn mải mê với vô số hoạch định
về tương lai. Chúng ta không hiểu được điều mình
trải nghiệm, rằng chỉ có giây phút hiện tại mà thôi.
Không có tương lai, không có quá khứ. Tất cả đều
là ngay hiện tại, và chúng ta hoàn toàn trống không; chúng
ta không có bản thể. Chúng ta chỉ dường như có một
bản thể vậy thôi.
Tất cả chúng ta đều biết về tính vô thường của tâm
ý, rằng chúng tự xuất hiện, không cần mời gọi, rồi cũng
tự qua đi. Lý ra, ta phải mong là chúng đừng xuất hiện,
để ta dễ định tĩnh hơn. Nhưng chúng ta lại tin rằng “Đấy
là tôi suy tư. Đấy là những suy nghĩ của tôi”.
Chúng ta cần xem xét lại niềm tin này. Thông thường nếu
ta sở hữu vật gì, ta sẽ có quyền hạn đối với nó.
Vậy mà những ý nghĩ đang diễn ra trong đầu, và tất cả
những ý nghĩ mà ta cho là ‘của ta’ trong quá khứ, đã qua
mất rồi, phải không? Cái ‘tôi’ là chủ của chúng
ở đâu? Cũng qua mất rồi? Hay nó lại lo ‘làm
chủ’ những tư tưởng khác? Như thế ‘cái tôi’ thực
sự ở đâu? Là cái tôi trước kia hay cái tôi bây giờ?
Mỗi lần một tư tưởng mới qua đi thì điều gì đã xảy
ra cho ‘cái tôi’ đó? Cũng có khi tư tưởng này cách
tư tưởng kia một khoảng thời gian, lúc đó thì ‘cái tôi’
ở đâu? Làm sao ta đem nó trở về? Dĩ nhiên là bằng
suy nghĩ!
Tà kiến là nhân của ảo tưởng về ‘cái tôi’. Việc
đầu tiên hành giả cần làm sau khi xuất định là nhận thức
về tính vô thường của nó, đồng thời, nếu có thể, cũng
ghi nhận tính vô thường của tư tưởng, tình cảm, hơi thở,
thân.
Bước kế tiếp cần làm sau khi xuầt định, là hồi tưởng
để xét xem bằng cách nào ta đã đạt được trạng thái
tâm định tĩnh? Phương cách đó là gì? Không có
phương pháp nào bảo đảm thành công. Phương pháp nào
thích hợp với bạn thì sử dụng. Thường, khi một phương
pháp đem lại hiệu quả cho một ai đó, thì người ấy chấp
chặt vào phương pháp đó, và nghĩ rằng tất cả mọi người
khác cũng nên thực hành nó. Đó là sai lầm. Tiềm
thức của chúng ta không giống nhau. Phương pháp này có
thể thích hợp cho người này hơn là người kia. Thí
dụ, việc sử dụng thiền tâm từ để đạt định có thể
rất hữu ích. Trong cách thiền này, nếu ta thực hành
đúng, một cảm giác mạnh mẽ có thể phát khởi. Thường
là ở lồng ngực, là một cảm giác ấm áp dễ chịu nơi
thân. Đôi khi ta còn cảm thấy hoan hỷ. Ngay khi cảm
giác này phát khởi, thay vì tiếp tục thiền tâm từ, ta cần
chuyển tất cả sự chú tâm vào chính cảm giác đó.
Cảm giác mạnh mẽ đó là cảm xúc vật lý, và đó là nơi
ta cần chú tâm đến trước.
Bằng cách nào ta đạt được định, điều đó không quan
trọng, miễn là ta đạt được định. Lúc đó ta mới
có thể thực sự nói, “Tôi đang thiền”. Chưa đạt
được đến đó, thì ta chỉ có thể nói là ta đang thực
hành một phương pháp thiền. Ít ai phân biệt rõ điều
này, dầu Đức Phật rõ ràng đã đề cập đến điều đó.
Có hành giả đạt được định bằng cách ‘quét’ (sweeping
exercise), nhất là khi họ sử dụng phương pháp ‘rẽ quạt’
[d]. Nếu thực hành đúng, phương pháp này có thể khiến
hành giả có đủ định tĩnh để phát khởi một cảm giác
rất dễ chịu. Trong trường hợp đó, ta phải ngưng ngay việc
‘quét’, và chuyển tâm đến cảm giác hoan hỷ. Lúc
đó, theo như lời dạy của Đức Phật, ta rải rộng cảm
giác đó khắp châu thân.
Một phương thức khác là sử dụng các biến xứ (kasinas),
các dĩa màu. Nếu hành giả mạnh về thị giác, cảm
thấy dễ liên tưởng đến màu sắc, thì hành giả có thể
thấy một đỉa màu tròn, bành trướng nó lớn ra, và hoàn
toàn chìm đắm trong đó. Cách thực hành này cũng đưa
đến sơ thiền và đó là mục đích của thiền biến xứ
(kasinas).
Hoặc là khi hành giả trụ nơi hơi thở, và hơi thở trở
nên rất yếu, một luồng ánh sáng chói lòa có thể xuất
hiện. Hành giả cũng có thế phát tán luồng ánh sáng
này để nó bao bọc toàn thân. Một khi hành giả đã an trụ
trong luồng ánh sáng này được một lúc, thì nó không chỉ
bao bọc quanh mình, mà còn khiến hành giả cảm thấy rất
dễ chịu, khi cảm giác hoan hỷ phát khởi.
Như ta thấy có nhiều phương cách, nhưng không nhất thiết
phải thực hành tất cả trong một buổi tọa thiền.
Nếu bạn cảm thấy thiền tâm từ bi thích hợp với bạn,
thì hãy sử dụng phương pháp đó như một phương tiện để
đạt định. Còn nếu như bạn cứ thấy màu sắc phát
sinh, đến nỗi trở ngại cho việc theo dõi hơi thở của mình,
thì hãy sử dụng màu sắc. Hay ta thấy dễ nhiếp tâm
với phương pháp ‘quét’ thì hãy sử dụng nó. Tóm
lại, sử dụng phương pháp nào không quan trọng. Quan trọng
là ta ngồi xuống tọa thiền với tâm hân hoan vì biết rằng
có một tiềm năng mãnh liệt ẩn chứa trong ta.
Bất cứ ai có lòng kiên nhẫn và tinh tấn, đều sẽ đạt
được định. Đó là cách tâm vận hành một cách tự
nhiên. Đúng ra, gần như tất cả mọi thiền sinh đều có
ước muốn thầm kín đó. Có thể họ chưa hiểu ý nghĩa
của từ “jhàna”, hoặc thiền định là gì, nhưng điều
đó không quan trọng. Ước muốn thầm kín của chúng ta là
mong muốn được giải thoát khỏi tâm lăng xăng, vọng tưởng.
Đôi khi ước muốn đó vô thức, nhưng thường nó được
chấp nhận, được biết đến, như thể có một trực giác
nào đó đã biết đến khả năng này. Khi tâm không thành
kiến được nghe đến các tầng thiền định lần đầu tiên,
tâm đó sẽ thốt lên: “À há! Tôi biết là có cái gì đó
mà!”
Đôi khi, lúc trải nghiệm được thiền định lần đầu tiên,
chúng ta nhớ hình như ta đã đạt được điều này khi còn
bé thơ. Chúng ta khó tưởng được rằng đó là chuyện
khá bình thường. Trẻ em thường đạt được điều
này một cách tự nhiên. Rồi trong tiến trình lớn lên,
đi học, có gia đình, tình dục, tất cả mọi thứ xen vào,
và những điều này bị quên lãng. Nhưng sau nhiều đau
khổ (dukkha), có thể chúng ta sẽ tìm đến thiền ở tuổi
thành niên, đạt được sơ thiền, lúc đó ký ức sẽ trở
về.
Đức Phật, lúc còn là một vị Bồ Tát, thái tử Siddhartha
Gotama, đã rời hoàng cung và từ bỏ gia đình để vào rừng
học thiền. Ngài đã học về bảy bậc thiền đầu tiên
từ một vị thầy, nhưng ngay khi vừa đạt được sơ
thiền, ngài nhớ lại ngài đã đạt được điều đó
năm mười hai tuổi.
Câu chuyện xảy ra có liên quan đến vua cha Suddhodana, người
trị vì một vương quốc nhỏ. Theo phong tục nơi đó,
khi mùa xuân đến, mùa trồng lúa, vị vua phải bừa mảng
đất đầu tiên. Vua Suddhodana đã dắt theo đứa con trai
mười hai tuổi. Đứa trẻ phải nắm một bên bừa, người
cha nắm phần bên kia, rồi hai người cùng nhau bừa khoảng
đất đầu tiên. Nhưng khi đến giờ làm lễ cày bừa thì
không tìm thấy đứa trẻ đâu. Vua bèn sai các quan đi tìm.
Và họ tìm thấy vị thái tử trẻ đang ngồi dưới một gốc
cây, rõ ràng là đang thiền, và hoàn toàn chìm đắm trong thiền
định. Để không làm phiền thái tử, các quan về thưa
lại với nhà vua, vậy là nhà vua phải làm lễ cày bừa một
mình.
Sau đó, khoảng tuổi từ mười hai đến hai mươi chín, thái
tử đã thụ hưởng các dục lạc thế gian. Thái tử cưới
vợ và có được một con trai. Tuy nhiên, cuối cùng thái tử
thấy rằng nhân loại cần được giải thoát khỏi khổ đau,
nên ngài đã vào rừng để tu thiền. Ngài rất dễ chứng
đạt các tầng thiền định vì những nghiệp quả trong các
tiền kiếp, cũng như việc chứng nghiệm trong kiếp này năm
mười hai tuổi. Có thể không phải trường hợp nào
cũng giống nhau, nhưng dường như những hành giả đã
thực hành thiền khi còn nhỏ tuổi, họ sẽ dễ chứng nghiệm
thiền định hơn. Còn lại đa số chúng ta cần nhiều
công phu tu tập hơn, nhưng đó cũng là bài học về sự kiên
nhẫn và bền chí cho chúng ta.
Trái ngược lại với một số tuyên bố, sơ thiền không đưa
đến bám víu. Đức Phật chưa từng tuyên bố một điều
gì như thế. Ý tưởng này xuất phát từ một số chú
giải được viết hàng trăm năm sau khi Đức Phật tịch diệt.
Sơ thiền không khiến ta sanh tâm bám víu, trái lại chứng
nghiệm này còn khiến ta hăng hái và cảm thấy nôn nóng ‘để
đi tới cùng”, vì lúc đó ta đã thấy được sự khác biệt
to lớn như thế nào giữa các trạng thái tâm bình thường
và tâm đạt định. Ngay nếu như trạng thái tâm nôn
nóng không xảy ra, thì ý thức rằng ‘đây chưa phải là
tất cả’ chắc chắn sẽ phát khởi. Tất cả mọi hành
giả có trí tuệ đều nhận thức được ngay rằng mục đích
thiền tập không chỉ là để được có cảm giác hỷ lạc
này. Dầu ta có cảm thấy thật hạnh phúc với cảm giác
đó, trực giác cũng báo với ta rằng còn có nhiều điều
hơn thế nữa, khiến ta rất muốn tiếp tục hành thiền.
Tuy nhiên, việc tâm thức của hành giả ở sơ thiền được
thanh tịnh, trong sáng là một sự kiện rất quan trọng.
Tâm thanh tịnh là một ân sủng lớn nhất của thiền định.
Có hai khía cạnh thanh tịnh. Đầu tiên, đó là sự vắng
mặt của các chướng ngại, và các uế nhiễm. Thứ đến,
nó khiến tâm trong sáng, rõ ràng. Khi kiếng cửa sổ dơ,
ta không thể nhìn ra bên ngoài, nhưng khi nó được chùi sạch,
thì ta có thể thấy rầt rõ ràng. Tâm trong sáng là điều
ta cần có để đạt được tuệ giác.
Do liên tục, tinh tấn hành thiền mà hành giả có được tâm
thanh tịnh. Đó là kết quả của sự tự biết mình và
biết những điều cần làm. Chúng ta đã biết đến những
giai đoạn chuẩn bị được nhắc đến trong bản kinh này.
Sự rõ ràng, trong sáng là điều ta cần đạt đến, vì nó
tạo cho ta khả năng hiểu biết sự chứng nghiệm của mình.
Khi đã có được tâm trong sáng này, ta phải gìn giữ để
nó không bị hoen ố trở lại. Chúng ta luôn phải cẩn
trọng. Đó là vì giờ đây ta biết ta có một viên đá
quý đến ngần nào; tâm thanh tịnh, trong sáng có thể đánh
đổ mọi vọng tưởng và nhìn vạn pháp trong chân lý tuyệt
đối.
Để đạt được tuệ giác sâu sắc, uyên thâm, do Đức Phật
truyền dạy, chúng ta cần có một tâm thức như thế.
Nó chỉ có thể phát sinh khi ta có thể hoàn toàn chú tâm,
vắng lặng những suy nghĩ lăng xăng. Khi nào còn lao xao
nghĩ tưởng, là ta còn ở cấp độ thế tục, và ta chỉ có
thể biết những gì đang ở trong tâm.
Bước thứ ba sau khi xả thiền là quán tưởng lại chứng
nghiệm thiền định vừa trải qua để ý thức được bất
cứ trí tuệ nào vừa mới phát khởi. Các tri giác này
đặc biệt rõ ràng vì chúng phát xuất từ chính sự hiểu
biết của bản thân. Đức Phật là một vị thầy thực
tiễn, khi Ngài thuyết về bốn tầng thiền định đầu tiên,
ngài chỉ đánh số chúng. Thật là lợi ích, vì ta không
cần phải tưởng tượng ra điều gì. Chúng ta chỉ cần
thực hành theo lời chỉ dạy của Ngài. Từ tầng thứ
năm đến thứ tám thì được đặt tên, và ta sẽ bàn về
chúng sau.
Các trạng thái tâm thức này là sự vận hành một cách tự
nhiên của tâm. Chúng ta có thể đọc về chúng trong các
báo cáo của những nhà thần bí Ki-tô giáo hay các tôn giáo
khác. Thuật ngữ học có thể khác, nhưng kinh nghiệm
thì giống nhau. Teresa ở Avila, khi hướng dẫn các nữ
tu của bà trong quyển Lâu Đài Nội Tại (Interior Castle), đã
trình bày về bảy tầng thiền định, dầu bằng phương thức
như hư cấu, khiến ngày nay khó có ai theo được. Cách diễn
giải quá chi tiết, đến độ người đọc có cảm giác sự
trải nghiệm đó hoàn toàn là việc của cá nhân. Trái
lại, những lời dạy của đức Phật thật thực dụng, vì
vậy không thể nào lầm lẫn được. Rõ ràng những lời
dạy của Đức Phật là dành cho tất cả mọi người.
Các nhà thần bí Thiên chúa giáo, như Meister Eckhart và Francisco
Osuna, cũng thực tập thiền định, tuy nhiên cách diễn giải
của họ cũng khác nhau.
Vì chúng ta đang sống trong thời đại mà kỹ thuật, chứ
không phải tôn giáo, đang làm chủ, nên thiền định đã trở
thành một nghệ thuật bị đánh mất. Nhưng ta không cần
phải quên lãng chúng; ta có thể làm chúng sống lại, vì ta
may mắn được nghe, được biết đến Phật Pháp.
Vì có người đạt được định một cách tình cờ, không
cần có sự hướng dẫn, dìu dắt, ta có thể suy luận rằng
đấy là kết quả tự nhiên của sự nhiếp tâm. Có người
đạt được thiền định trong lúc tâm hoan hỷ, người khác
lại đạt được điều đó trong lúc căng thẳng cực độ.
Điều này cũng hay xảy ra. Người khác nữa lại đạt
được định chỉ nhờ nhiếp tâm.
Thiền là khoa học của tâm. Vì là khoa học, thiền có
thể được giải thích và lặp lại, nhưng nó phải bao gồm
tất cả mọi khía cạnh hợp lý. Tất cả chúng ta đều
biết đến các khía cạnh của tâm thế tục; cái tâm suy nghĩ,
đánh giá, vui buồn, ưa ghét. Nó luôn ở trạng thái nhị nguyên,
ở đó “chúng ta” đối nghịch với “thế gian”.
Nếu thiền định không mang lại một trải nghiệm khác biệt
nào, nó sẽ không thể làm cho ta thõa mản.
Tâm thức cao thượng, mà ta có được qua thiền tập, giúp
ta thấy rõ rằng chúng ta sống trong thế gian này, nhưng không
thuộc về nó. Chúng ta biết rằng, thực ra ta còn có
thể chuyển hóa nó, khi vẫn còn thân và tâm này. Đó
là lý do tại sao đức Phật dạy chúng sanh phải hành thiền
để đạt được tuệ giác. Trong những bài pháp thoại
bao gồm cả đạo lộ, bắt đầu bằng giới và kết thúc
với sự giác ngộ, tĩnh thức, thiền luôn được nhắc đến.
Một lời cảnh cáo : Không nên bao giờ ngồi xuống chiếu
thiền với ước muốn đạt được định. Thay vào đó,
ta chỉ đơn thuần thực hành theo phương pháp đã chọn, phương
pháp mà ta cảm thấy tốt nhất cho bản thân, và đừng thay
đổi. Ta chỉ cần làm thế.