Trụ Tòng Lâm
là điều thứ nhất trong 12 điều của hạnh Đầu đà. Tòng
Lâm, tiếng Phạn (Ấn Độ) gọi là A Lan Nhã, dịch là chỗ
yên tịch, còn gọi là Tăng Già Lam là chỗ thánh hiền mười
phương tu tập.
Người thọ
giới, đầu tiên do bổn sư khai thị dẫn dắt nhiều cách,
kế nghe bậc tiền bối ca ngợi sự trụ Thiền đường, rồi
phát tâm sửa soạn y áo, mua sắm giày dép, suy nghĩ hỏi thăm
toan tính trăm thứ đều không ổn. Muốn học kinh giáo song
không đủ trình độ, toan đi hành hương các thánh tích lại
thiếu tiền đi đường. Vừa nghe cái tốt của chùa Thiên
Ninh, lại nghĩ cái lạ của núi Thiên Mục, thường nghe chùa
Kim Sơn việc ngồi thiền đau chân khó chịu, đã biết từ
lâu, giờ tọa thiền ở chùa Cao Mân nén hương dài thật khó
ngồi. Tòng Lâm rất tốt muốn trụ song quy củ quá khó khăn,
tiến thoái lưỡng nan, do dự suốt ngày. Chợt gặp vị tăng
lân cận chỉ cho con đường chân chánh và chỉ cho hướng
đi, mới dám bạo gan cất bước. Vừa đến sơn môn tim đập
chân run, bước vào khách đường đỏ mặt ngơ ngác. Vị chức
sự gặp thấy, quát lên một tiếng : "Sơ tham", lại quát lên
một tiếng nữa : "Thằng khốn nạn, bộ chưa nghe nói quy củ
nghiêm khắc, điện đường nghiêm tịnh, qua lại không nghe
tiếng động, ngồi nằm phải tuân lời dạy hay sao ?". Người
có chí vì đạo dần dần định tâm, kế bỏ kiến chấp,
thứ lớp của quy củ dần dần rõ biết, lòng gan dạ mà tâm
khoan dung, việc làm thuần thục mà chí kiên cố. Nếu người
không có tâm vì đạo thì như chim bị nhốt vào lồng, thân
khó ở yên, chỗ thấy đều chẳng vừa ý, chỗ nghe đều
là giựt mình sợ hãi, tránh chỗ này đụng chỗ kia, trời
đất đen tối, muốn tìm cách chạy trốn lại càng thấy rất
khó. Lúc ngồi xếp bằng, lòng rỗng rang như cái nồi không,
thân thẳng đứng như cái bàn. Lúc bào hương đi như nhảy
múa. Lúc sống bình thường như phòng giặc. Theo chúng qua ngày
chịu khổ chịu cực, đi đến chỗ vắng khóc lén không cho
người biết. Mỗi khi nghe tiếng quát của vị chức sự, đứng
thẳng ngơ ngác, bỗng được bạn đạo khuyên nhắc, mặt
mày vui vẻ. Những người đời trước có gieo nhân của đạo
nay gặp duyên này, quả sắp chín mùi, năm ba mươi năm sống
như một ngày, hạt giống Bát Nhã, gốc rễ thành Phật càng
thêm sâu dầy. Còn người đời trước không có gieo nhân của
đạo, nay gặp được trợ duyên ở Tòng Lâm này cũng giúp
cho họ có cái nhân tốt để được quả chín mùi, huân tu
rèn luyện ắt sẽ được thành tựu pháp khí lớn. Nay tu thắng
nhân, vị lai chắc chắn được thắng quả, con đường sanh
tử phải tu, con đường Niết Bàn mới rõ.
Như vậy
chẳng trụ Tòng Lâm thì chẳng thể vun trồng Phật nhân, chẳng
trụ Tòng Lâm thì chẳng thể thành tựu Phật quả. Bằng không,
nhân địa chẳng chân, gặp quả cong queo. Phải biết Tòng
Lâm là chủ thể của Tam Bảo, cũng là nền tảng hành đạo.
Tòng Lâm suy, chánh pháp không làm sao trụ ở đời lâu dài
được. Tòng Lâm hưng thạnh thì Tam Bảo là phước điền
của thế gian. Người xưa nói :
"Người phát
tâm trụ Tòng Lâm, năm ba mươi năm chẳng phạm quy củ, người
này đủ phước báu lớn, có chánh nhân lớn". Lại nói : "Nếu
ở núi sâu một mình hành đạo chẳng bằng ở Tòng Lâm ngủ
khò". Thật đúng thay lời này.
Đại khái,
người đã trụ qua Tòng Lâm, xuất ngoại hành cước nơi xóm
làng thành thị, oai nghi tế hạnh cử chỉ nói nín của người
ấy khác hơn người thường khiến mọi người sanh lòng kính
mến tin cậy, đáng làm mô phạm cho tất cả thiện nam tín
nữ vun bồi phước đức, gieo trồng thiện căn vô lượng.
Mong những bậc trưởng giả tin Phật tận sức hộ trì chẳng
chút kỳ thị, công đức rất lớn.
Người nào
sống được trụ Tòng Lâm, chết được nhập tháp viện,
chẳng những cha mẹ quá khứ siêu thăng Tịnh Độ, cha mẹ
hiện tại tăng phước sống lâu và chính mình cũng tiến sâu
vào đạo, sở nguyện đầy đủ.
3.
LẬP
HẠNH QUYẾT ĐỊNH
Đã vì đạo
đến đây, đầu tiên ắt phải lập hạnh. Hạnh lập, đạo
ấy tuy hành mà tâm vẫn loạn. Sao vậy? Vì từ vô thủy đến
nay tập khí sâu dầy, cuộc sống hiện đời khiến thêm thuần
thục, suốt ngày bị cuốn theo dòng thế tục lại cảm thấy
thuận tâm thích ý, nay đã xuất gia, thói quen thuần thục
trước kia đã bị kích thích, lại thêm lập hạnh, hạnh này
với thói quen cũ trái nghịch. Trái nghịch như thế nào? Như
xưa thích ăn mặn, nay buộc phải ăn chay, rau cải thiếu dầu
lại cơm ăn chẳng no. Mọi việc trái ý bức ngặt nơi tâm,
mới biết hạnh lập, tâm tự rối loạn là lẽ tất nhiên,
tất cả việc khác theo đó có thể suy ra mà biết.
l. Người
lập hạnh, biết trước kia những điều lớn nhỏ mình làm
đều không có ý nghĩa, nay có ý lập hạnh cần phải soi xét
lại các việc, cái không có lý thì kiểm điểm mà sửa lại,
cái có lý rồi thì canh tân cho hợp với hạnh mới lập. Việc
làm so với trước có phương hướng, động niệm so với trước
có chủ trương, cho đến động tịnh, rỗi rảnh bận rộn
đều thuận theo hạnh đã lập. Nếu thọ dụng được cái
hạnh đã lập thì tâm tự chẳng rối loạn, thân tự chẳng
làm càn, việc tự chẳng lầm lẫn. Như thế, hạnh hay kiềm
chế được việc làm.
2. Thêm một
bước nữa là hạnh quyết định. Hạnh đã quyết định thì
sống chết cũng chẳng dời đổi. Trời đất có thể lay động,
chứ hạnh của ta chẳng lay động, hư không có thể không,
chứ hạnh ta chẳng thể không, đây gọi là hạnh quyết định.
Bất cứ việc làm nào cùng với hạnh đã lập đều không
ngại nhau. Tâm càng loạn hạnh càng chắc, thân càng nguy hạnh
càng thiết, việc càng hỏng hạnh càng cao. Hạnh chuyển được
tâm ác thành niệm thiện. Hạnh chuyển được thân bệnh thành
khỏe mạnh. Hạnh chuyển được hung hiểm thành an ninh. Đây
gọi là hạnh quyết định kiềm chế được thân.
3. Hạnh quyết
định, tuy nói hạnh kiềm chế được việc khiến cho chẳng
rối loạn, hạnh kiếm chế được thân khiến cho an ổn, hạnh
kiềm chế được tâm ở một chỗ, đâu bằng không có việc
để loạn, không có thân để an, không có tâm để kiềm chế.
Từ chỗ
quyết định này buông tay đi thẳng, chợt đến chỗ sơn cùng
thủy tận, người và pháp cả hai đều quên, xoay mình lại
(ngộ) mới biết ba điều của hạnh quyết định này làm
cho thân, tâm, thế giới đều quét sạch (đạt đến chỗ
tự do tự tại). Phải biết cái hay của hạnh quyết định
là ở Tòng Lâm năm ba mươi năm khổ tâm vì đạo, tôi dám
bảo đảm kiến tánh.
4.
ĐÁNH
HÉT KHÓ CHỊU
Người tu
hành có chí thì trước tiên hỏi kỹ hướng đi, kế đó nghiên
cứu chỗ ở, rồi lại xét kỹ gia phong, sau đó mới theo đạo.
Nên nghĩ
cái học của thế gian chẳng ra ngoài lời dạy bao quát của
đức Khổng Tử và Bách Gia Chư Tử. Cái học của xuất thế
gian phải lìa tình thức, quét thánh phàm, nên trước tiên
phải rõ phương pháp lìa tình tuyệt thức. Phải biết tình
bởi ái mà có, thức do vọng mà sanh. Hai chữ tình thức là
chỗ phân biệt của thánh phàm.
Thật ra vì
tình chẳng thể không nên lục phàm luân chuyển, thức chẳng
thể liễu nên tứ thánh rõ ràng. Nay đem hai chữ tình thức
này nói ra cho thế gian biết để cho bậc anh tài, cao minh giải
thích nghĩa lý, thiết lấp một phương pháp dứt trừ để
làm thử. Nếu có thể trừ được, liễu được thì tôi vui
vẻ theo học pháp ấy.
Khắp thế
gian đã không ai có cách nào để quét sạch được tình thức,
thì ắt phải y theo đạo đánh hét của người xưa mà làm
mới chẳng phụ cái chí tu hành. Như vậy quyết tâm trụ tại
Tòng Lâm, lấy ngộ làm kỳ hạn.
Muốn cầu
cái học khử trừ tình thức, ắt phải chịu cái đạo đánh
hét (ăn gậy). Phải biết tình liên quan đến giận hờn, yêu
mến, thức trói buộc ngộ mê. Người khắp thế gian dễ yêu
dễ giận đều vì tình che lấp, chấp mê chấp ngộ cũng do
thức buộc ràng. Như vậy, đánh đau một trận, tình bay ra
ngoài hư không, giận hờn, yêu mến đâu còn, hét to một tiếng,
bóng thức toàn tiêu, ngộ mê đâu có!
Thường thường
người mới học đạo chẳng rõ pháp trợ đạo nên nói :
"Có đạo
để học, có tâm để dụng, việc lớn một đời ắt xong,
đâu cần hương bản đánh như trẻ con, hét to như dọa con
nít. Quy củ khó là cái chướng của dụng tâm, khai thị nhiều
làm mất công ngồi nghe". Những người có kiến giải này
chỉ nên ở núi hay ở chùa tư hoặc am thất. Người hiểu
lầm như thế, chư Phật nghe qua rơi lệ, Tổ sư nghe đến
đau lòng, Long Thiên biết rồi dậm chân, Quỷ Thần biết xong
đấm ngực. Người học đạo cần phải nghĩ kỹ, đức Thế
Tôn tu đạo ở Tuyết Sơn, mỗi ngày ăn một hạt thóc hạt
mè, trải qua sáu năm tinh tấn, cực khổ còn hơn cái đau của
đánh hét, cái khó của quy củ, cái nhiều của khai thị, đâu
chỉ ngàn muôn lần? Nhị Tổ cầu pháp đứng suốt đêm dưới
tuyết, tuyết lên đến lưng còn bị quở là tâm khinh mạn,
chẳng đáng được nghe đạo. Ngài bèn chặt tay dâng lên mới
được nghe Sơ Tổ thuyết pháp, há chẳng hơn sự khổ cực
của thiền đường ngàn lần ư?
Ở thế gian,
gặp người tiếp vật thuận theo tình cảm, xưng hô lễ phép,
ấy là tình. Lời nói vấn đáp, kiến giải hiểu biết, ấy
là thức. Chính tình thức làm cho thiền đường suy tệ. Dẫu
cho có khả năng đập vỡ hư không cũng chẳng bằng một gậy
của thiền đường, một gậy có thể phá tình này. Dẫu cho
có sức đạp chìm quả đất cũng chẳng bằng một tiếng
hét của thiền đường, một tiếng hét có thể lìa thức
này. Cho nên nói : "Cây gậy bảy thước khai chánh nhãn, dưới
một tiếng hét ngưng cuồng tâm". Lại nói : "Trên đầu hương
bản sanh Tổ Sư, trong tiếng hét lớn ra Bồ Tát". Người có
sự nhận thức đúng về Phật pháp cầu Thiện Tri Thức đánh,
thỉnh Thiện Tri Thức hét. Một gậy một hét có thể trừ
sạch tình thức trong nhiều kiếp. Muốn trụ thiền đường
nếu sợ đánh hét thì khó trụ lâu. Nếu có thiền đường
nào tạm bỏ đánh hét thì thiền đường ấy chẳng thể tồn
tại. Thiền đường là ghe thuyền của thế gian và xuất thế
gian. Đánh hét là lợi khí để liễu thoát sanh tử. Muốn
thành Phật đạo phải ở thiền đường. Muốn thoát sanh tử
phải chịu đánh hét. Đánh hét của thiền đường là mẹ,
kiến tánh thành Phật là con. Cho nên chư Phật chỉ quy về
thiền đường, chư Tổ đều sanh ra từ Tông này. Há chẳng
tin sao?
5.
QUY
CỦ KHÓ HỌC
Quy củ là
pháp cương lớn nhất của thế gian và xuất thế gian. Quy
là sợi dây mực. Củ là cây thước thợ (ê ke). Ngay thẳng
chẳng dùng dây mực thì không có tiêu chuẩn. Vuông tròn chẳng
dùng thước thợ thì không có khuôn phép. Cho nên, người xưa
nói : "Chẳng y theo quy củ chẳng thành vuông tròn". Lại như
xẻ cây muốn được ngay thẳng trước tiên phải dùng dây
mực rồi mới cưa, cây được ngay thẳng hữu dụng là nhờ
công của dây mực. Lại như làm thùng muốn cho nó tròn, trước
hết dùng thước thợ làm vuông bốn góc, rồi tám góc, cái
thùng tự tròn, cái thùng tròn hữu dụng là nhờ sức của
cây thước thợ. Phải biết hư không cao biết bao, dây mực
treo nó thẳng, quả đất rộng biết bao, thước thợ đo nó
tròn. Một hư không, một quả đất chưa ra khỏi quy củ một
bước. Lại như thẳng thì dọc suốt tam thế, quá khứ, hiện
tại, vị lai, tròn thì khắp giáp mười phương, phạm vi của
quy củ lớn không gì so sánh được.
Người muốn
trụ Tòng Lâm chẳng y theo quy củ thì chẳng biết đến đây
là vì việc gì? Phải biết thân tâm của chúng ta là do nghiệp
chướng tạo thành, tập khí huân thành, nên trôi lăn trong
lục đạo, cái tên "quy củ" còn chẳng được nghe huống là
biết có quy củ thật. Vì không biết quy củ nên tùy tâm phóng
túng, mặc ý muốn làm, trước không có ngăn cấm, sau không
có cản trở, tham dục hoành hành, theo nghiệp thọ báo, trồi
lên hụp xuống không biết đến lúc nào mới thôi.
Hôm nay may
mắn xuất gia, lại gặp quy củ. Quy củ là nền tảng của
Tòng Lâm, là chỗ nương tựa của tăng chúng, là bước đầu
của học đạo, là thềm bậc của thánh hiền, là thầy lành
của xuất thế, là người dẫn đường của sự thành Phật,
là bè quý báu của biển khổ, là đèn sáng của đêm tối,
là của báu cho người nghèo, là thuốc hay cho người bệnh,
là cứu tinh của loài người, là khuôn mẫu của người học.
Dầu cho miệng Phật ngợi khen cũng không hết được.
Học đạo
ở thiền đường, quy củ lớn, phép tắc nhỏ đều phải
y theo đó mà làm. Kẻ phạm là theo nghiệp chuyển. Kẻ không
phạm là không bị nghiệp lôi. Như vậy quy củ dẫu nhiều,
phép tắc vi tế dù rất khó học song phải gắng học. Sau
khi học thuộc, một ngày học ngàn ngày dùng. Nơi này chốn
khác đều tôn là Thượng Tọa.
Nên biết
quy củ cùng nghiệp chướng như băng tuyết với than lửa chẳng
đồng một lò, phép tắc cùng tập khí như nước với lửa
chẳng chung một bình. Nghiệp chướng hiện thì quy củ mất.
Tập khí khởi thì phép tắt ẩn. Nghiệp chướng và tập khí
khởi lên thì phải luân hồi trong lục đạo. Thử hỏi người
học đạo giữ quy củ là phải hay theo nghiệp chướng là
phải? Cho nên Hòa Thượng, Ban Thủ, Duy Na, chức sự đều
tận tâm lực giữ quy củ nghiêm minh để cho người học mỗi
ngày thêm tốt, chẳng kẹt vào lưới trần tục. Lòng từ
bi thiết tha rộng lớn, cả thế gian không gì hơn vậy. May
thay!
6.
THÂN
TÂM BẤT AN
Thân tâm
bất an chính là thứ lớp vào đạo. Sao vậy? Thân nếu rảnh
rang, hiện nghiệp dễ tạo, tâm nếu an nhàn, tật xấu liền
sanh. Nên biết, tâm nương thân mà trụ, dù tâm bất an cũng
đâu thể lìa thân một khắc, thân nương đất mà trụ, dù
thân bất an cũng đâu thể lìa đất một bước. Nếu hiểu
như thế thì đâu còn bất an.Giả sử thân tâm an ở chỗ
tham nhiễm, chỗ này tức là nhân khổ, chỗ này tuy an nhưng
thuộc về cái an trong chốc lát, vì ác nhân đã gieo ắt ác
quả phải đến, thân tâm sau này sẽ bị an ở chỗ địa
ngục, ấy tức là ác quả vậy.
Ở thiền
đường tuy khó an mà sẽ làm cho đạt đến cái an vĩnh cửu.
Trụ ở thiền đường lâu ngày, thân tâm bất an tự an. Phải
biết thân tâm chịu sự ràng buộc của thế gian, ràng buộc
lâu ngày cũng có thể tự an. Nay đem thâm tâm ở lâu ngày
nơi thiền đường, ở lâu cũng an, giống như đang ở nhà
an ổn, bỗng phạm pháp luật bị bắt bỏ tù thì trong khoảnh
khắc cũng khó an, nhưng sống trong tù lâu ngày quen rồi lại
cảm thấy an, chẳng những không thấy khó chịu mà thậm chí
còn muốn chẳng ra khỏi tù, chẳng những thân an mà tâm cũng
an. Cái tệ của thân tâm, không luận là ở chỗ nào, ban đầu
thật bất an, dần dần hơi an, kế đến có thể an, lâu ngày
an luôn, đây là cái bệnh chung của lục đạo.
Than ôi! Thân
tâm của người tham thiền trụ tất cả chỗ đều chẳng
thể an là lý đương nhiên. Vì tất cả chỗ đều là chỗ
trần lao nên chẳng thể an ổn lâu dài được. Nay ở thiền
đường là hạnh chánh của người con Phật, là chỗ ở chánh
của người hành đạo, nếu chẳng thể an thì nhất định
là không thể được. Sao vậy? Vì người tham thiền mang cái
thân hành đạo mà ở chỗ chẳng hành đạo thì đạo làm
sao hành được, cho đến người có tâm đạo mười phần
ở nơi đạo tràng hành đạo, đạo còn khó hành huống là
ở chỗ chẳng phải đạo tràng mà có thể hành đạo được
ư! Giống như ở ngã tư đường nơi thành thị mà muốn lìa
sự huyên náo, dứt sự nhiễu loạn của thế tục có thể
được ư!
Điều thiết
yếu nhất là đem thân tâm trụ ở thiền đường lâu dài,
thà bất an mà chết chứ chẳng chịu rời thiền đường tạm
an mà sống. Người học đạo nên xem xét kỹ.
7.
THIỆT THÒI KHÓ CHỊU
Lời này
là của người không biết mới nói, chứ người có chút trình
độ chắc không nói như thế. Sao vậy? Vì từ dưới chúng
sanh lên đến chư Phật, hai chữ "thiệt thòi" này không ai
tránh khỏi. Tại sao thế? Đức Thế Tôn một hôm khất thực
xong, trải tòa thiết pháp, đang ngồi trang nghiêm trước trăm
muôn đại chúng, bỗng có một cô gái ôm bụng bước vào
đứng trước mặt đức Phật nói : "Ông nay thuyết pháp thân
tôi chẳng an, chẳng bao lâu sẽ sanh, sao ông chẳng màng đến!".
Lúc ấy đại chúng ngơ ngác hoang mang. Thương thay! Đức Phật
của chúng ta đang chịu thiệt thòi nặng nề. Khi ấy các vị
vua trời Phạm Thiên sai một thiên nhân hóa làm một con chim
ưng bay đến bên cạnh cô gái, mổ đứt sợi dây, trái bầu
rơi xuống đất, đại chúng tiêu hết nghi ngờ. Sự thiệt
thòi lớn lao có gì hơn điều này.
Lại nữa,
một hôm đức Phật dẫn chúng vào thành theo thông lệ khất
thực. Lúc ấy vua A Xà Thế cùng Điều Đạt muốn hại Phật
và các đại chúng, ra lệnh cả thành cấm cúng dường thức
ăn, như vậy Phật và đại chúng khất thực liên tiếp bảy
ngày cũng không được một hột cơm. Về sau hai người hối
cải, để cho dân chúng cúng dường trở lại. Đây là cái
thiệt thòi bị bỏ đói, thế gian đâu thể chịu nổi. Lại
nữa, một hôm các vị đại A La Hán bận an cư ở nơi xa,
chỉ có vài trăm người cùng Phật kiết hạ nơi chân núi.
Điều Đạt sai nhiều lực sĩ lén lăn đá to từ trên núi
xuống, làm Phật bị thương chân. Thương thay! Đức Phật
là đại sư của ba cõi, là cha lành của bốn loài, phải chịu
sự thiệt thòi lớn như bị làm nhục, bị bỏ đói, bị hãm
hại. Phật còn như thế, ta là người thế nào?
Lại như
ngài Từ Minh đến thỉnh pháp nơi Phần Dương, mùa đông lạnh
lẽo muốn được thân cận, Phần Dương tạt nước đuổi
đi. Từ Minh đứng ở góc điện suốt một đêm. Sáng sớm
hôm sau, Phần Dương trông thấy lại tạt nước nữa, như
vậy hai ba lần. Thương thay cho Từ Minh vẫn vui vẻ nhận lấy,
về sau khai ngộ, hiệu là Sư Tử Tây Hà.
Lại nữa,
như ông già Kính Sơn (tức ngài Đại Huệ Tông Cảo) vì bốn
câu kệ mà bị vua đày đi biên thùy. Về sau hoằng hóa rộng
lớn, xa gần đều khâm mộ sùng kính. Đây là sự thiệt thòi
lớn không có gì sánh bằng.
Từ xưa chư
Phật chư Tổ còn như vậy, nay ta đã ở Tòng Lâm, an trụ
thiền đường, mặc cho thiệt thòi đủ thứ, nghịch đến
thì dùng thuận thọ nhận, đánh đập cũng thọ nhận, giận
ghét cũng thọ nhận. Phải biết, chịu được một phần thiệt
thòi, tiêu được một phần nghiệp chướng, mở được một
phần trí huệ. Dù cho người chặt đầu ta, cắt cơm ta, cũng
chẳng màng đến, chỉ cần có thiền đường để trụ, có
quy củ để giữ, có đạo để hành là đủ rồi. Ngoài ra,
trong thân ngoài thân đều thuộc về việc không quan trọng.
Dẫu cho sự thiệt thòi to như núi cao, nếu có thể chịu nổi
thì mới đáng gọi là bậc đại trượng phu vậy.