THAM
THIỀN PHỔ THUYẾT
Lai
Quả Thiền Sư
Việt
Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
Từ
Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
17.
DỄ PHẠM QUY CỦ
Như người
xưa vẽ vòng tròn dưới đất làm ngục tù, nghĩa là người
phạm pháp bị quan bắt được, bắt phải đứng một chỗ,
vẽ một vòng tròn xung quanh người ấy, chẳng cho người ấy
ra ngoài một bước. Tòng Lâm lấy quy củ làm vòng tròn, năm
ba mươi năm chẳng ra ngoài vòng tròn một bước, cũng là học
cách của người xưa. Nếu phạm quy củ sẽ có cái lỗi phạm
pháp. Vì sao? Vua Thuận Trị nói : "Ra vào nơi cửa sang, qua
lại trong Bảo điện, chuông đánh thượng điện, bản gõ
quả đường, chẳng cày cấy mà có cơm ăn, chẳng dệt vải
mà có áo mặc, mọi thứ saün sàng, các điều như ý". Lại
nói : "Trăm năm ba vạn sáu ngàn ngày, chẳng bằng ông tăng
nửa ngày nhàn". Đúng thay lời này!
Như vậy
thân ở chỗ lìa trần, tâm phan duyên đại pháp. Người đời
bận rộn chỉ vì một đời này, chúng ta thanh nhàn đều vì
mãi về sau. Người đời cả đời bận rộn là vì người
khác, còn chúng ta cả đời bận rộn là vì mình, há chẳng
sướng thay! Thọ dụng như thế lại phạm quy củ, nên nói
"có lỗi". Mới trụ thiền đường thân tâm chưa quen, quy củ
chẳng hiểu, phạm thì có thể răn dạy. Nếu trụ lâu năm,
hoặc là hàng lão tham, hoặc đã từng trụ Tòng Lâm ở nơi
khác mà còn phạm quy củ, thật là người xấu của pháp môn.
Người trụ
Tòng Lâm giữ quy củ theo chúng hành đạo, nếu phạm quy củ
thì chẳng cho nhập vào tăng chúng. Người giữ quy củ thì
tâm địa khoan nhàn, tất cả tự tại, kẻ phạm quy củ thì
thân tâm bất an, gặp việc sanh phiền. Người giữ quy củ,
ai thấy cũng hoan hỷ tán thán, làm phép tắc cho Tòng Lâm,
làm gương mẫu cho Trời người. Kẻ phạm quy củ ai thấy
cũng chán ghét, xa lìa, chắc chắn khó trụ lâu, đi đâu cũng
bất an. Người giữ quy củ Phật, Tổ vui mừng. Kẻ phạm
quy củ quỷ thần tức giận. Người giữ quy củ là pháp khí
làm hưng thạnh Tòng Lâm. Kẻ phạm quy củ là người xấu
phá hoại Tòng Lâm.
Phải nghĩ
: Người phạm quốc pháp nặng thì bị tử hình, phạm gia
pháp nặng thì bị phạt thân, phạm pháp Tòng Lâm nặng thì
bị trục xuất, đó là lý đương nhiên, không chút sai chạy.
Phải biết
chính mình nghiệp nặng, thế nào cũng có cái lỗi trái pháp,
cho nên thường lập thệ rằng : "Thà bị người chặt đầu
móc mắt tôi đi, chứ tôi chẳng chịu phạm pháp Tòng Lâm".
Nếu quả thật y theo thệ này, chẳng những thân mạng được
cứu mà huệ mạng cũng được cứu, cha mẹ sanh vào ác đạo
cũng được cứu. Vậy thì dễ phạm đổi lại thành dễ giữ.
18.
HỶ XẢ TẤT CẢ
Hai chữ HỶ
XẢ là việc của Bồ Tát. Người trụ Tòng Lâm đối với
chữ XẢ e rằng thái quá. Sao vậy? từ khi sanh ra cho đến
ngày nay có ruộng vườn đầy đủ, có công danh phú quý, có
quan tước phẩm vị, có vợ, có con, tất cả đều đã xa
lìa không còn nghĩ đến, mặc đồ tu sĩ thọ giới cụ túc,
xả bỏ tục gia, ở trong tăng chúng an trụ chùa chiền hoặc
ở hang núi, những sở trường đặc biệt, học thuật hay
ho trước kia đều chẳng màng đến, chẳng những đại xả
tục gia cho đến tăng tục đều xả. Tăng tục đều xả mới
được gọi là xả hết tất cả. Nay nói HỶ XẢ thật là
khó hiểu.
Người xưa
nói : "Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì?". Chẳng
hiểu người nầy (phát nghi) liền gánh lên đi (giữ nghi tình).
Người tham thiền như thế nếu được lãnh hội (ngộ) mới
thật phù hợp với sự đại xả của Thiền tông. Người
chẳng được cái xả này thì trong hàng ngày, thượng điện
thì xả chân, quả đường thì xả tay, mặc áo thì xả thân,
ăm cơm thì xả miệng, bị một gậy đánh thì xả tâm giận,
bị một tiếng hét thì xả niệm sợ, nghe tiếng khen thì xả
vui mừng, nghe người chê thì xả bực tức, đều gọi là
đại xả.
Lại, tham
thoại đầu thì xả công phu, bỏ trống qua thì xả thời gian,
ở chúng đông thì xả nhiều người, trụ Tòng Lâm thì xả
xứ sở, giữ quy củ thì xả người khác, phạm quy củ thì
xả chính mình, cũng gọi là đại xả.
Lại nữa,
nói hỷ xả là khi chưa vào thiền đường, đối với các
thứ mão, nón tốt, các thứ y áo, ngọa cụ, khăn lau tốt,
các thứ giày dép tốt, vớ bằng tơ lụa, các thứ đồ trang
sức như cà rá vàng, đôòng hồ đeo tay, bình trà, bàn chải
răng bằng xương, kem đánh răng loại tốt, kem thoa da, ống
điếu hút thuốc, kịch bản, tiểu thuyết, bạn đánh bài,
bạn ăn nhậu đều xả sạch trơn, chỉ lưu lại một nhân
cách thanh tịnh, một bộ mặt không lỗ mũi, đến trụ thiền
đường mới đúng là HỶ XẢ.
19.
PHÁT TÂM DŨNG MÃNH
Việc phát
tâm này là người dẫn đường cho thế gian và xuất thế
gian. Bằng không, chẳng những Phật đạo khó thành mà địa
ngục cũng dễ đọa. Sao vậy? Người đời trồng bông vải,
trước tiên phải gieo giống, nhổ cỏ, tưới nước sau mới
thu họach được bông vải, rồi kéo thành chỉ sợi, siêng
năng dệt mãi mới thành ra vải. Từ một hạt giống cho đến
khi thành một chiếc áo biết bao là khó khăn, qua đó có ba
điều quý báu mà người đời không dễ gì biết :
l. Hạt giống
lấy ruộng làm quý báu.
2. Vải
lấy chỉ sợi làm quý báu.
3. Con người
lấy quần áo làm quý báu.
Do ba điều
quý báu này làm cho người đời phải dũng mãnh phát tâm.
Bằng không thì bỏ dở nửa chừng, một điều quý báu còn
khó được huống là muốn được cả ba. Vậy không phát tâm
thì để thân thể lõa lồ sao?
Cũng vậy,
người xuất gia thọ giới cụ túc, cầu thầy hỏi đạo,
ở Tòng Lâm, giữ quy củ, tuân lời dạy, bị đánh hương
bản, chịu cay đắng, chịu nhẫn nhục, lập đạo niệm, thỉnh
pháp yếu, dụng công phu, được chân nghi, khai đại ngộ.
Từ một phàm phu thành một thánh nhân, trong đó trải qua muôn
phần rèn luyện khó khăn, may mắn được ba điều quý báu
cũng không dễ gì biết :
l. Con người
lấy tăng làm quý báu.
2. Tòng Lâm
lấy quy củ làm quý báu.
3. Triệt
ngộ lấy dụng công tham thiền làm quý báu.
Cũng do có
ba điều quý báu này mà không thể chẳng dũng mãnh phát tâm.
Bằng không thì thành kẻ phàm ngu. Một điều quý báu chẳng
được thì chư tăng làm sao tồn tại chốn Tòng Lâm!
Lại, người
hành đạo tất cả đều phải tinh tấn. Người bảo hương
có vọng tưởng, ta bảo hương có công phu. Người tọa hương
có hôn trầm, ta tọa hương không tạp niệm. Người qua lại
có nói thì thầm, ta qua lại không có mình người. Người
nằm ngủ có mộng tưởng, ta nằm ngủ không có giường nệm.
Người bỏ thời giờ qua suông mà không hay biết, ta bỏ thời
giờ qua suông thì thấy hổ thẹn. Người dụng công phu có
gián đoạn, ta dụng công không có thân tâm. Người dụng công
có biết đông hạ, ta dụng công quên cả tháng ngày. Người
dụng công chấp tinh tấn, ta dụng công không biếng nhác. Làm
được như thế là đại tinh tấn, là thật phát tâm dũng
mãnh, thì làm sao người này chẳng đạt đạo!
20.
THÂN TÂM QUEN THUỘC
Thân tâm
vốn không có lạ quen. Lạ quen là do việc của thân làm, cảnh
của tâm duyên.
Thân lạ
là việc làm của thân chưa được làm nhiều, lâu lâu mới
làm thì khó được quen, cho nên gọi là lạ. Từ lạ tập
lâu ngày, mài giũa mãi hoài, nhiều cách lựa lọc, nói làm
liền làm, tay tự nhiên làm, trước sau nhất như chẳng còn
do dự, đây gọi là thân quen.
Tâm lạ là
cảnh sở duyên của thức chưa thấm vào tâm, bỗng muốn nhớ
lại mà mờ mịt không biết, cũng gọi là lạ. Từ lạ huân
tập lâu ngày, nghĩ nhớ sâu xa, lại thêm xét nét, hễ tưởng
đến liền hiện, nói đến liền biết, đây gọi là tâm quen.
Thân tâm
tuy quen, nhưng cũng còn có khi quên, tập cho thêm quen thuộc,
trở thành thói quen, trải qua vạn kiếp cũng chẳng quên, ở
chỗ muôn ngàn sai biệt cũng chẳng động, nắm được liền
dùng, nước đến thì thành dòng. Thân làm đi làm lại không
còn sai lầm. Tâm tự lự muôn ngàn không còn sơ sót. Đây
gọi là thân tâm quen thuộc.
Như người
đến Tòng Lâm tham học, mới vào Thiền đường mờ mịt không
hiểu quy củ, việc phải làm của thân từ trước đến nay
chưa từng thấy qua, bỗng bị ép buộc phải làm thì khó làm
được quen. Nếu có thể khổ tâm khổ chí, cẩn thận để
tâm tìm hiểu kỹ càng mọi việc, học tập ghi nhớ càng ngày
càng tinh thông, thì dần dần từ lạ trở thành quen. Chính
ngay lúc học quy củ, phải đem toàn thân để ở trên việc
làm, chẳng nên sáng siêng năng chiều lười biếng, lập chí
quyết định thà chết chứ chẳng lìa pháp này. Người có
chí này, chẳng những việc quen mà thân cũng quen.
Lại, như
người mới học tu thiền, từ trước đến nay chưa từng
dụng công phu, một khi đề khởi thoại đầu, không biết
làm sao hạ thủ. Nếu có thể đối với pháp này lập chí
thà chết chứ chẳng lìa, đem hết thân tâm tận lực xông
vào, chỉ biết có pháp, chẳng biết có tâm. Như vậy lâu
ngày chẳng những pháp quen mà tâm cũng quen.
21.
CHẲNG TIN THAM THIỀN
Chẳng tin
có hai :
l. Thường
nghe người ta nói Thiền tông quá cao, người trung hạ căn
không thể nào tu được. Dẫu cho tu được, cũng khó khỏi
đền trả nghiệp đời trước đã vay, vẫn phải biến trâu
biến ngựa. Ôi! Thật ngu làm sao! Người căn cơ cạn bị cơn
gió phỉ báng này thổi rơi xuống biển, hai chữ Thiền tông
còn không dám nói thì việc tham thiền đâu còn ai dám tin.
2. Tự đã
quyết chí liễu thoát sanh tử mà đến cửa Thiền tông. Lúc
đến thì lặn suối trèo non, dầm sương dãi gió, cay đắng
vô vàn cũng cam nhận chịu. Nay trụ Thiền đường, tâm nguyện
thỏa mãn, dù trong hàng ngày quy củ chưa quen, thân tâm bứt
rứt, lại còn phải chịu la hét, ăn gậy của các chức sự
rất là đau đớn. Từ khi trụ Tòng Lâm đến nay không để
ngày giờ trôi qua vô ích, tự nghĩ chuyên vì hành đạo mà
ráng bỏ các duyên ngoài. Đã vì sanh tử, nhẫn chịu khổ
đau, dù đến chỗ chết cũng không từ nan. Đối với việc
hạ thủ công phu, thường nghe Thiện Tri Thức nhiều cách chỉ
dẫn tham cứu thoại đầu, khẩn thiết khuyến khích để đi
đến đại ngộ. Dụng tâm như vậy cũng khó dấy khởi nghi
tình, dù là một câu cũng khó đứng vững, nghiệp chướng
quá sâu, phải làm thế nào?
Như trong
túi áo mặc trên thân có của báu mà chẳng chịu tin, người
chẳng tin tham thiền cũng giống như vậy. Nếu tin nơi thân
mình có của báu thì dẫu cho chết cũng quyết phải tìm cho
ra, mới là xong việc. Người xưa nói : "Minh châu trong áo tự
chẳng tin, đâu cần hướng ngoại khổ công tìm" là vậy.
22.
NGHI PHÁP
Người tu
hành chân thật, vì đạo chịu khổ chịu đau đều chẳng
màng đến. Đối với pháp môn tham thiền là pháp phải làm
suốt ngày, không ngờ một câu thoại đầu một thời gian
dài chẳng đề khởi thì dường như cảm thấy khinh an. Vừa
đề khởi lên một chút thì phiền não liền nổi dậy, thân
tâm khoảnh khắc cũng chẳng yên, khi tịnh thì như ngồi trên
đống lửa, muốn đi ra ngoài giải buồn. Thêm vào đó các
vị chức sự thấy cử chỉ oai nghi của ta khiếm khuyết bèn
chỉnh lại khiến cho tâm ta như lửa đổ thêm dầu, lập tức
phẫn nộ tràn hông. Xét kỹ trước sau đều do đề khởi
câu thoại đầu mà ra, nên chẳng ngại gì dùng pháp khác để
thử. Ngày trước đã tin niệm Phật hoặc tin trì chú bèn
đem ra dùng lại thử. Một khi niệm danh hiệu Phật, hoặc
trì chú thì như nước tưới vào lửa thật là mát mẻ. Do
đây đối với pháp tham thiền này lại càng cảm thấy nghi
ngờ khó tin : "Đã hết sức tham mà chẳng thể được nhập,
đây đúng là lỗi của pháp vậy!".
Thử hỏi
: Ông thầy giáo hàng ngày thanh nhàn, thân tâm khỏe khoắn,
bỗng phải gánh đồ nặng khổ sở muôn phần.
Có người
hỏi ông ta : Sức gánh đồ của ông như thế nào?
Ông đáp
: Dạy học không đủ ăn nên phải gánh đồ nặng để sống
mà gánh chẳng muốn nổi.
Chính đang
lúc trù trừ, bỏ gánh nặng xuống, rồi lại cầm quyển sách
như cũ, so với lúc trước cảm thấy khoan khoái gấp bội.
Người có
tri thức mới hỏi : Muốn có ăn, không gánh không được,
sao chẳng từ từ đun đẩy lâu ngày cái khó tự hết.
Người nghi
pháp hãy suy nghĩ điều này. Nay đặc biệt giải thích một
chữ NGHI, bằng không ắt sanh lầm lẫn. Cũng như tham câu "Khi
chưa có trời đất ta là cái gì?", chẳng biết mình là cái
gì, muốn rõ bổn lai diện mục của mình mà không hiểu được
thì phải sanh khởi thắc mắc tại sao muốn hiểu mà hiểu
không được. Lúc ấy trong tâm tự nhiên móng khởi nghi tình.
Có nghi tình tức là tham thiền vậy. Những đoạn văn sau nói
hai chữ công phu tức là nghi tình, chẳng cần lập lại nữa.
Thế nên
biết, nghi người, nghi pháp là hồ nghi, còn cái nghi này tức
là công phu tham thiền cũng gọi là chánh nghi vậy.
23.
NGHI NGƯỜI
Người dụng
tâm ở Thiền đường, ban đầu y theo lời dạy của người,
nhận sự chỉ dẫn, nghe người khai thị hiểu được phương
pháp, y theo đó mà làm, chẳng dám thiếu sót một chữ, chẳng
dám khinh thường một lời, xem đó như pháp bảo, kính đó
như Phật sống. Sáng lễ bái chiều nghe dạy, suốt ngày không
chút lười mỏi. Sự ân cần kính người, trọng pháp thật
khiến cho người tin. Đến khi thực hành lâu ngày pháp đã
được trao, tự cảm thấy sự chỉ dạy của người này rất
đích xác còn lời giảng của người kia dường như chẳng
đúng. Vì thấy có đúng có sai nên trong tâm sanh ra nghi ngờ
chẳng biết người nào đúng người nào sai.
Lại nữa,
hoặc lời giảng trước kia, lúc mới dụng công thì đúng,
dụng công lâu thành sai. Hoặc pháp của mình dụng công thì
phù hợp với kinh Phật, lời Tổ, nghe lời người giảng chẳng
những không đúng với chỗ dụng công của mình mà còn rất
khác xa với lời Phật Tổ. Do đó, cái niệm nghi người càng
sâu, cái tâm tin mình càng lớn.
Lại nghi,
nghe người ngoài nói người kia khai đại ngộ rồi, hoặc
đã phá bổn tham, hoặc khai tiểu ngộ, đích thân nghe thì
trái lại chẳng bằng mình. Hoặc thấy mấy người ấy trong
cuộc sống hàng ngày đều không có hành vi khai ngộ mà dường
như còn tập khí nhiều. Do đó, đến lúc người ấy khai thị,
chẳng phải ho hen ngăn trở thì đổ thừa bận việc chẳng
đến nghe. Hoặc nghi người ấy không xứng đáng làm thầy
mình, đến giờ người ấy giảng thì trốn tránh ra ngoài
chẳng về. Hoặc sợ người ấy khiển trách mà giả bệnh
tạ từ. Cái lỗi nghi người thật chẳng phải ít. Thử hỏi
: Ông muốn đến nhà ắt phải tìm đường về. Sự sai biệt
ở giữa đường phải hỏi người đã đi qua. Đã chỉ đường
rồi, đi phải do mình. Thiện Tri Thức chỉ có thể chỉ đường
chứ chẳnng đi giùm mình được. Nay đường chánh chẳng đi
mà lại nghi người chỉ đường tầm bậy. Đâu nên như vậy!
24.
TOAN TÍNH THỐI LUI
Người tu
hành bị có cái nghi người, nghi pháp, thường thầm giận
tức rằng tuy nhiều năm phát nguyện, nhiều năm lưu tâm mà
vẫn chưa dám quyết định đến ở Tòng Lâm, lại còn nghi
mình không đủ sức tọa hương nên ở nhà tập thử trước.
Tọa hương dài thì đau chân cảm thấy sợ, toạ hương ngắn
mới cảm thấy vui. Khi tập thử xong, dẹp y phục ngày thường,
thay áo tay rộng, sửa soạn hành lý, y bát và những vật cần
dùng, chọn ngày khởi hành. Bỗng nghe quy củ của Kim Sơn khó,
sợ đến đỏ mặt. Lại nghe Cao Mân tọa hương lâu, trong
tim đập mạnh. Tiến thoái hoang mang, thật khó quyết định
phải đi nơi nào. Nay may mắn đã đến đạo tràng, tu pháp
liễu thoát sanh tử, đã học được pháp rồi mà không trọng
pháp, lại xem người trên, người khó vừa ý. Nghe pháp thì
tâm phiền, nghe tiếng thì niệm động, chẳng những duyên
pháp chưa kết mà duyên người cũng không. Muốn trốn đi chỗ
khác để thân cận bậc cao nhân, nghĩ đi nghĩ lại cũng khó
quyết định.
Tôi nói :
Dẫu cho ông chạy đến chân trời, chỉ nhọc công vô ích.
Thật ra, nói đến việc cầu cao nhân, người xưa thấy bầy
vịt trời liền ngộ đạo, bầy vịt trời tức là cao nhân.
Muốn cầu đại pháp, người xưa nghe tiếng chuông liền ngộ
đạo, tiếng chuộng tức là đại pháp. Cái đại của đại
pháp, cái cao của cao nhân chạm mặt đều là nó, đâu nên
toan tính thối lui ư!
25.
BIẾT SÁM HỐI
Người hành
đạo ở Thiền đường chưa được châm tham, nghi pháp nghi
người đều do tự cao tự phụ. Ông chẳng nghe ư? Người
thế gian và người xuất thế gian không có ai bằng Phật.
Pháp thế gian và xuất thế gian không gì hơn Kinh. Lúc Phật
ra đời, người có duyên với Phật đều được Phật độ.
Người có duyên với Pháp có thể theo Pháp tu hành. Cái Pháp
của Phật đích thân thuyết cần phải tùy thuận nhân duyên.
Cho nên Phật có ba điều chẳng làm được là :
l. Định
nghiệp chúng sanh chẳng thể chuyển.
2. Chúng
sanh không có duyên chẳng thể độ.
3. Số lượng
của chúng sanh chẳng thể biết.
Nay ông là người
gì? Người còn ở địa vị học đạo mà chẳng biết sám
hối tự trách ư? Cái tội khinh pháp, cái lỗi phỉ báng Thiện
Tri Thức, cái ngu thối đạo, ăn năn hối hận đâu kịp. Cần
nên ở trước Phật lập lại thệ nguyện, lập chí hướng
mới, cái pháp đang hành quyết tử thực hành, người đáng
thân cận quyết tử thân cận, cái lỗi thối lui quyết tử
sửa đổi. Thà giữ đạo mà chết chứ chẳng nên thối đạo
mà sống. Dù cho Phật, Tổ đích thân bảo ta chẳng tin Pháp,
bảo ta chẳng tin Thiện Tri Thức, bảo ta thối đạo tâm, làm
cho ta nát xương như tro bụi thì được, chứ bảo ta chẳng
tin thì không thể được, thì cái đạo biết sám hối được
viên mãn vậy.
26.
BIẾT HỒ THẸN
Hổ là không
cô phụ người, thẹn là không cô phụ mình. Cô phụ người
là làm cho người thiện mắc cỡ, chê cười người có sở
trường, khinh khi người có liêm sỉ, phụ lòng người có
ân đức. Phụ mình là làm cái nhân sai lầm, tham cái quả
hư vinh, làm hỏng cái thiện của mình, chôn vùi cái khả năng
của mình. Nếu người mà bên trong không thẹn với mình bên
ngoài không thẹn với người, thì đó là người tự trọng
vậy.
Phàm tất
cả việc phải hành theo chánh hạnh, phải làm theo trung đạo,
xả thân vì người, cứu người nguy khốn. Rộng lượng đối
với người, khen người có đức độ, hiển dương điều
hay của người, che giấu điều dở của người. Chẳng màng
đến điều hại cho mình, chỉ cầu người khác được lợi.
Cho đến công phu được nhập chỗ thâm sâu, phải biết ơn
dậy bảo khuyến khích của thầy bạn, lấy tan xương nát
thịt mà báo đáp. Chẳng những chẳng hổ với người mà
thật cũng chẳng thẹn với mình.
Thường thường
người không biết hổ thẹn dù được nghe pháp thâm sâu,
được sự giáo dục kỹ, được lợi ích rộng lớn, nhận
được ân huệ nhiều, ngẫu nhiên thầy có chút không toại
lòng mình liền trở mặt phản đối, xem như kẻ thù, âm mưu
tìm cách ly gián, xúi dục chống nghịch đến nỗi tổn thương
danh dự. Trái lại, chẳng biết ngậm máu phun người, trước
dơ miệng mình. Như vậy hủy hoại già lam, ngỗ nghịch sư
trưởng, tội lỗi lớn lao không gì so bằng. Tất cả đều
từ không biết HỒ THẸN mà ra.