THAM
THIỀN PHỔ THUYẾT
Lai
Quả Thiền Sư
Việt
Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
Từ
Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
97.
SỰ LÝ DỤNG
Sau khi liễu
ngộ như trẻ sơ sanh thân thể trần truồng không có một
vật, đói không có ăn, lạnh không có mặc, lục căn dù mà
chưq dùng được nên cần phải có đồ vật để nuôi thân,
có người để săn sóc. Cũng như kinh nói : "Lý thì đốn ngộ,
sự phải tiệm tu", cho nên cần phải trải qua sự bảo nhiệm
để dứt tập khí. Sự bảo nhiệm này cũng giống như việc
săn sóc nuôi dưỡng thân thể trẻ sơ sanh vậy. Cho nên người
có đạo như ngu như ngốc. Tại sao như thế? Nói ra một lời
ắt từ trong tự tánh lưu xuất, làm ra một SỰ ắt cùng với
LÝ không trái. Cảnh duyên thuận nghịch đều từ quyền (phương
tiện tạm thời) mà đạt biến (tùy cơ ứng vật). Hình thái
mừng giận cũng từ vuông vào tròn. Mặc dù tâm rộng rãi
nhưng cũng không ra ngoài pháp lý. Hằng ngày việc dù nhiều
mà đều theo đúng quy củ. Trì Phật giới thì làm cho cái
dụng của tự tánh khắp cùng vô biên thế giới. Giữ oai
nghi thì làm cho Phật pháp được quảng bà khắp nơi. Hễ
niệm thì niệm Phật tánh, Hễ trì chú thì trì tâm chú. Bất
cứ pháp môn nào cũng đều quy về tự tánh, tất cả Phật
sự đều nhập vào quy củ, khiến cho sự lý nhất như, tánh
tướng bất nhị.
Điều thiết
yếu là chẳng nên chấp LÝ bỏ SỰ, Thiền Tông quở là "kẻ
vác bản". Cũng chẳng nên chấp DỤNG mà quên THỂ, bị mắng
là "kẻ lỗ mãng". Thiên về tánh thì chỉ chứng Nhị thừa,
thiên về tường lại thành phàm phu. Cần phải tánh tướng
song hành, sự lý vô ngại, mới được gọi là pháp thân trang
nghiêm vậy.
98.
HÓA ĐẠO DỤNG
Tự mình
đã phát minh đại sự liễu sanh thoát tử, cái lớn của việc
này cả thế gian không gì so bằng. Người đời chẳng những
chẳng biết việc nàymà còn chẳng biết việc này là việc
của chình mình. Vì vậy, ngàn Phật ra đời cũng vì một việc
này, muôn Tổ hiện thân cũng vì một việc này.
Muốn làmn
việc này, thâm sơn cùng cốc, chùn tư, am thất đều chẳng
thể làm được chỉ có Tòng Lâm mới có thể đảm nhiệm
viễc này vì Tòng Lâm mới có thể tiếp đại cơ, hiển đại
dụng, chuyên hoằng đốn giáo, chĩ đạo thiền giả dụng
công phu đề phòng lạc lối. Nếu không ai chỉ đạo, đi bậy,
chẳng phải lầm nam là bắc thì cũng cho tây là đông, cho
nên muốn lên núi, trước phải hỏi người xuống núi. Pháp
tắc của Tòng Lâm rất là chánh đại, rất hợp với người
tu hành, có đạo để hành, có người để hỏi. Kẻ biếng
nhác thì dùng quy củ nghiêm khắc cấm chế ngay. Kẻ muốn
thối lui thì cảnh sách khuyến khích an ủi. Mặc áo ăn cơm
có người lo dùm chẳng cần quan tâm, chỉ cần lo việc tham
thiền của tự mình. Phải biết, làm việc của chính mình,
trừ Tòng Lâm của Thiền tông ra thì người đủ căn khí lớn
mới có thể tùy chỗ mà tu được.
99.
THA THỌ DỤNG
THA là chỉ
tất cả loài hữu tình trong mười phương pháp giới. Tho dụng
là thọ dụng pháp tham thiền. Muốn thọ dụng ắt phải rõ
tự tánh
Than ôi! Cái
mê do bất giác làm thay đầu đổi mặt khiến cho Diệu Thọ
(pháp danh của Ngài Lai Quả) tôi đâm ngực dậm chân đau lòng
khóc to, nguyện đem giọt nước mắt này rưới khắp thân
tâm của chúng sanh trong lục đạo hóa thành nước cam lồ
khử mê.
Tôi thường
nghĩ : Pháp của Thiền Tông là một đại pháp hiếm có, một
tâm pháp rất quý. Nếu tự bỏ đi tu pháp khác, thì cũng như
là người toàn thân đều là của báu lại bỏ của mình mà
cầu báu của người khác. Thiền Tông tham thiền tức là tìm
của báu nơi chính mình, một mai tìm được, thành Phật còn
có dư thừa. Cho nên một pháp này, người đạt đạo bảo
tôi chẳng thành Phật thì có thể được, chứ bảo tôi chẳng
hoằng đạo này thì chẳng được. Sao vậy? Kẻ nghiệp nhẹ
thì phí thời giờ ít. Kẻ nghiệp nặng cần phải tu thời
giờ nhiều, cuối cùng là con ba ba trong lu chẳng thể chạy
mất. Người hóa đạo cần phải đem cái sở hữu của mình
chia cho các loài hữu tình. Tự mình đã được thọ dụng
cũng phải khiến tất cả chúng sanh đồng được thọ dụng,
cho nên gọi là tha thọ dụng.
100.
TU THỌ DỤNG
Người phương
không, tất cả vi trần số đồng hư không, trong mười phương
thế giới có tất cả chúng sanh, tất cả các địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh muốn thọ nhận sự giáo hóa của pháp
tôi, trước tiên ăn thịt thân tôi. Nếu có một chúng sanh
chẳng thọ sự giáo hóa của pháp tôi, chẳng ăn thịt của
thân tôi, tôi thệ chẳng thành Phật. Cho nên ở trong nhân
địa hỷ xả tất cả, chỉ biết có chúng sanh, chẳng biết
có mình.
Tự nguyện
dắt người mù qua cầu, thế người què mang đồ vật, thay
người điếc truyền ngôn ngữ, nói chuyện với người câm.
Thây kinh Phật và giấy chữ bỏ bậy dười đất, lượm đem
cất và quý trọng, thấy sách vở thế gian rơi rớt giữa
đường, lượm cất và kính trọng, đừng cho đó là những
việc nhỏ mọn phiền phức, công thu dù nhỏ, tích nhỏ thành
to. Người xưa nói : "Ngộ đại thừa, hành tiểu thừa. Mỗi
bước tiểu thừa tức Đại thừa". Đến nay thấy người
trong một thế giới thì dùng thân người trong nhiều thế
giới để cúng dường. thấy người của một hư không, dùng
thân người của hai hư không cúng dường. người ăn thịt
tôi sẽ tin pháp tôi. Người ăn thịt tôi là nuôi dưỡng chúng
sanh của tôi. Xả bỏ thịt nhiều chừng nào thì độ chúng
sanh rộng chừng nấy khiến cho hư-không-giới tân, chúng sanh
giới không độ tha viên tròn tự độ cũng xong gọi là tự
thọ dụng vậy.
Đức Phật
có nói rằng : "Theo quán nhập vào chỗ quyền diệu chỉ thú
sâu xa". Cho nên được ý phải quên lời. Lịch Đại Tổ Sư
truyền ý chỉ Thiền tông, Như Lai tiếp căn khí bậc đến.
Nay gặp thời mạt pháp như là rụng mùa thu, ngay lúc này phải
có cáchnào làm cho Phật pháp hưng thạnh như cá lội dưới
ao xuân. Tuy Phật giáo có theo thời gian mà thay đổi, nhưng
tự tâm xưa nay không khác. Mặc cho tội lỗi bị phiêu bạt
như cánh hoa trôi cũng chỉ là diễn sự, phù trầm. Thấy trăng
lặn trăng mọc cũng đều là việc qua lại mà thôi. Nghĩ vật
trong thân tợ như vô hình, động niệm thì khiến thân tạo
tác. Xem ngoại cảnh kia như dương diệm (sự huyễn hóa không
thật), nhắm mắt khoanh tay quy về ẩn tàng. Lửa giận bốc
cháy trời Sơ thiền thành than. Sông ái vọt ra đất Nhị thiền
sẽ chìm lĩm.
Than ôi! Thích
ở tha hương, địa ngục, thiên đường như ở khách sạn,
lại quên quê nhà. Súc sanh, ngạ quỷ mà khen là bạn lành.
Đi khắp lục đạo không sót một chỗ, ở trong tứ sanh không
có lúc dừng. Vì vậy kiếp này thọ thân này, kiếp khác thọ
thân khác, liền quên thân hình của địa ngục, thay đầu
đổi mặt khó nhớ cái tướng của ngạ quỷ. Mở mắt nhìn
ra, buồn thấy sanh linh đầy đất. Chỉ một loài trâu thôi,
thảm trạng cũng khó nói hết, sừng dài trên đầu mà quên
hình dạng xấu xí, đuôi ở sau đít thích xua đuổi muỗi
mòng, bị đánh một roi, hai mắt rơi lệ, bước thiếu nữa
bước, thân bị đòn đau. Đừng nói biến thành trâu là khổ,
chưa bằng cái khổ địa ngục đâu! Ôi! Đau đớn thay! Khổ
vui muôn ngàn sai khác toàn do một niệm, phàm thánh khác xa
đều tại chính mình. Đến hôm nay trụ quả tu nhân từ thân
phàm mà huân nghiệp thánh. Đến hôm nay trụ quả tu nhân,
tù thân phàm mà huân nghiệp thánh. Mang nhân tu quả, ngộ tâm
địa mà quét cảnh duyên.
Diệu Thọ
tôi trước tác sanh này là việc cần kíp trước mắt, tỏ
bày tình thật chỉ lối cho người tu hành. Đầu tiên nêu
GIẢI BÁNG khử bỏ gai gốc bên đường. Kế nói PHÙ TÔNG
chỉ con đường về bằng phẳng. Người đi đường chỉ cầu
đến nhà thì đâu ngại đường xa. Người xem sách này chỉ
cầu chánh đạo thì đâu sợ phiền phức. Môn GIẢI BÁNG chia
Tông, Giáo, Luật, Tịnh (l), PHÙ TÔNG THUYẾT (2) định một
trăm quy điều. Chẳng nên thấy mênh mông mà vội thối, xem
toàn quyển ngại nhiều, nếu chấp như vậy thì đâu bằng
nữa trang kinh trong Đại Tạng. Thử hỏi : Từ Nam kinh đến
Bác kinh, một con đường có cái phiền của hành trình, cái
rộng của trạm nghỉ, cái nghiêm của đò ải, cái nặng của
lương thực. Chẳng ngại gì đem việc đi đường này cẩn
thận viết thànhmột quyển sách, thì số câu văn, số pho
quyển so với THUYẾT này chắc chắn là còn nhiều hơn.
Buồn thay!
Từ hạng phàm phu của chúng ta nói đến địa vị Thánh nhân,
trong đó sự thật trãi qua, đối với bậc thượng căn im
lặng vô ngôn có thể ngộ đạo; đối với hàng trung căn
phải nhờ lời nói, hành rồi mới ngộ đạo; đối với bọn
hạ căn cần phải chỉ đạo nhiều cách, nói tánh nói tướng,
nói đốn nói tiệm, lâu lắm mới ngộ đạo. Như lên núi
lấy của báu, người căn khí lớn ngay tại chỗ chuyển thân
lấy liền; người căn khí bậc hạ một phen đi lên, lại
đi lên, lên mãi mới lấy được. Trong số đó, cũng có người
đi tay không trở về, có người tìm chẳng thấy của báu,
có người bỏ mạng vì cầu của báu. Căn cơ không phài một
thứ, THUYẾT này hợp với mọi căn cơ thượng, trung, hạ.
Thường thường,
người không tin sách này, bệnh ở chỗ là sợ ngôn cú nhiều,
đường đi rắc rối, tự nhận mình là kẻ độn căn. Tại
sao vậy ? Vì pháp môn khác, một câu Phật hiệu, hoặc một
câu chú, trì trọn đời xong việc, không có gì thêm nữa.
Tại sai Thiền tông nói quá tỷ mỹ phiền toái mà hạnh thì
thô tạp. Chẳng tin thì được, còn tin thì bực bội cau mày.
Buồn thay!
Xin mời người
đọc hãy thì nghiệm một phen xem! Người chưa dụng công cảm
thấy dường như văn nhiều. Nếu người tiến sâu e trách
là nghĩa cạn, chẳng những trách cạn mà còn cho là quá sơ
lược. Tôi trước tác sách này chẳng tránh khỏi sự chê
trách, song tôi chẳng nệ quê mùa đem hết chỗ thấy của
tôi để báo ân Phật. Nhưng ân Phật, dùng hư không vi trần,
một vi trần là một Lai Quả tan xương nát thịt cũng khó
báo hết. Chỉ có học Phật pháp, đem pháp làm lợi chúng
sanh, dẫu ngườinghiệp dày, người khổ sâu, tôi ắt chịu
cực theo chúng khổ, khổ đến ngoài mười pháp giới, quày
đầu tìm một mảy may bùn đất bất khả đắc, thật là
quy về vô sở đắc vậy.
101.
THIỀN PHÁP
(Tổ Sư Thiền)
Điều quan
trọng nhất của người tham thiền là trước tiên phải rõ
tông chỉ của Thiền, kế đó hiểu cách tham.
Trong cuộc
sống hàng ngày của chúng ta, chư Phật và chúng sanh chỉ cách
một cái vọng tưởng, hữu tâm thì thành chúng sanh, ly tâm
thì thành chư Phật. Thiền này chính là ở sau tâm chư Phật,
trước tâm chúng sanh. Chư Phật và chúng sanh chỉ cách một
chữ Thiền, Thiền ở giữa Phật và chúng sanh. Cửa ải Thiền
này chưa mở thì là chúng-sanh-giới, mười phương hữu tình
vô tình bị một cửa ải Thiền này nhốt chặt. Cửa ải
Thiền này bị đập vỡ thì thành cảnh giới chư Phật, mười
phương chư Phật, Bồ Tát, Tổ Sư một vai chung gánh, một
thể thừa đương. Cho nên Thiền Tông lấy câu thoại đầu
làm viên ngói gõ cửa, đời này chẳng mở, đời này gõ,
đời sau chẳng mở, đời sau gõ, đời đời kiếp kiếp chẳng
làm việc thế gian, chẳng hành pháp thứ hai, chuyên môn tử
thủ cái cửa ải Thiền này. Gõ tới một ngày nào cửa ải
mở (ngộ) thì ông già Thích Ca và Long Thiên Hộ Pháp đều
vui mừng khôn xiết, nhớ lại thuở trước rơi lệ khóc to,
buồn vui lẫn lộn.
Lại, Thiền
là một tờ giấy mỏng giữa định và loạn. Thiền là một
mảy bụi giữa mê và ngộ. Thiền là một điểm nhỏ giữa
Phật và chúng sanh. Thiền là một miếng giẻ lau giữa sạch
và nhơ. Thiền là một thanh kiếm báu giữa Phật và ma. Thiền
là chiếc thuyền Từ trong biển khổ. Thiền là thuốc hay cho
người bệnh. Thiền là cây đuốc sáng trong con đường tối
tăm. Thiền là pháp lớn để liễu thoát sanh tử. Thiền đoạt
lấy cái ổ Niết Bàn. Thiền là con đường lớn thành Phật.
Thiền là cái búa bén đập phá hư không. Thiền là tảng đá
nặng đè chìm đại địa. Thiền diệt tham sân si. Thiền quét
kiến chấp nhân ngã. Thiền sanh mười phương Phật. Thiền
nói pháp nhiều như vi trần. Thiền nuôi dưỡng thanh-tịnh-Tăng.
Phải biết,
tam thế chư Phật, chư đại Bồ Tát, lịch đại Tổ Sư, Thiện
tri thức xưa nay đều từ Thiền này sanh. Người mê Thiền
này thì thành chúng sanh. Người ngộ Thiền này thì thành chư
Phật. Lại, Tổ Đông Độ Tây Thiên trụ trong Thiền này.
Mười phương đại địa trụ trong Thiền này. Mười phương
pháp giới trụ trong Thiền này. Mười phương hư không trụ
trong Thiền này. Sum la vạn tượng trụ trong Thiền này. Sự
lớn lao của Thiền bao trùm hư không. Thiền là nhà ở của
Phật, Tổ và chúng sanh. Người nghe được một chữ Thiền,
thấy một chữ Thiền, nói một chữ Thiền đều gieo trồng
hạt giống Phật. Cho nên kinh nói : "Xưng một tiếng Nam Mô
Phật đều đã thành Phật đạo" tức là nghĩa này vậy.
102.
TU TẠP HẠNH
Người tham
thiền giữ chắc một môn làm công phu. Chuyên tham thiền này
hết một đời còn chưa dễ gì làm xong, đâu nên nay làm việc
này mai làm việc khác. Phải như con chuột gặm quan tài, chỉ
gặm một chỗ, hôm nay cũng gặm, ngày mai cũng gặm, đời
này cũng gặm, đời sau cũng gặm, chịu khó lâu dài, một
mai gặm lũng, được thọ dụng như ăn đồ ngon, như vậy
mới là tay tài giỏi. Nếu gặm bên đông chẳng lũng, liền
qua bên tây, gặm dưới đáy chẳng lũng, lại hướng lên trên
nóc gặm, dẫu cho ông gặm ba mươi năm vẫn là một cái quan
tài không lũng mà chỉ bị nát vỏ mà thôi. Ngay lúc gặm nếu
tâm tư phiền não thì dẫu cho nhịn đói chịu khát, bò tới
mà gặm, giỏng đít mà gặm, gặm đến chóng mặt trọn chẳng
thể lũng, sau mà ngu si khổ não như thế! Như nghe người nói
lạy Phật hay, liền lạy Phật, nghe người nói niệm Phật
hay, liền niệm Phật, nghe người nói xem kinh tốt, liền xem
kinh, nghe người nói tham thiền tốt, liền tham thiền, nghe
người nói đi hành hương tốt, liền đi hành hương, rốt
cuộc là bị chuyển theo lời của người, chỉ làm uổng phí
thời giờ, hỗn loạn pháp môn.
Như thế
nào mới chẳng uổng phí thời giờ, chẳng hỗn loạn pháp
môn ? Thử hỏi :"Lạy Phật là ai?" biết chăng? "Xem kinh là
ai?", "Niệm Phật là ai?", "Tham thiền là ai?", "Đi hành hương
là ai ?" biết chăng? Ngộ được người lạy Phật, ngộ được
người xem kinh, ngộ được người niệm Phật, ngộ được
người tham thiền, ngộ được người hành hương, chỗ hành
như thế chuyển được tất cả, chẳng bị tất cả chuyển.
Đây gọi là chẳng uổng phí thời giờ, cũng gọi là chẳng
hỗn loạn pháp môn.
Nếu tu tất
cả tạp hạnh, cần phải ngộ tâm tu, chẳng nên mê tâm tu.
Ngộ tâm tu tạp hạnh thành lục độ vạn hạnh. Mê tâm tu
tạp hạnh thành luân hồi sanh tử. Nếu ngộ tâm tu thì chẳng
cần hỏi. Nếu mê tâm tu thì phải mau mau chạy vào cửa Thiền
Tông đem tâm tu ngộ, rồi mới có thể tu tạp hạnh.
Có người
hỏi : "Thế nào là mê tâm? Thế nào là ngộ tâm?"
Đáp : "Hễ
hữu tâm đều gọi là mê tâm. Tâm vốn vô sanh, mới gọi
là ngộ tâm. Người tu hành cần phải xét kỹ!
103.
CẦU THẦN THÔNG
Người tham
thiền tham thẳng chẳng nghỉ, tham thông tự liễu ngộ. Ngay
lúc tham, chẳng được có tâm chờ ngộ, chẳng được cầu
huyền diệu, chẳng được chê pháp chẳng linh, chẳng được
sanh phiền não, chẳng được sanh hoan hỷ, chẳng được sanh
sợ hãi, chẳng được cầu thần thông.
Thường thường,
người học pháp cầu thần thông tính học thần thông rồi
có thể bảo hộ quốc gia, gìn giữ phú quý, có thể dạo
chơi phương khác, có thể báo oán cừu, có thể được trường
thọ, có thể làm phát đạt, có thể mưu sự nghiệp, có thể
khỏi bị người hiếp đáp. Như thế đều bị gọi là kiến
giải của kẻ ngu. Sao vậy? Quỷ thần ở khắp nơi đều có,
hễ cầu thì có thể được thần thông, song rốt cuộc chẳng
phải của mình có.
Như đời
Đường có ngài Tam Tạng Đại Nhĩ đến Kinh, tự xưng có
thần thông. Nam Dương Huệ Trung Quốc sư lúc đó ở tại triều,
liền hỏi Tam Tạng Đại Nhĩ :
-
nghe nói Tam
Tạng có thần thông phải chăng?
Vị Tam Tạng
này đáp : Phải.
-
Xin hỏi ông
: Tâm tôi ở tại chỗ nào?
-
Đại sư là
thầy của một nước, đâu nên ở trên cầu Thiên Tâm xem
hát xiệc.
Quốc sư có
nghĩ như thế, nên đáp : Đúng.
Rồi Quốc
sư nhập Na-già định, hỏi Tam Tạng. Tam Tạng câm miệng,
không đáp được. Quốc sư quở rằng :
-
Ông đã hồ
tinh (con chồn hoang) này đến làm laọn Đường triều.
Bèn đuổi ra.
Thử hỏi
: Người đã có thần thông còn bị trục xuất, chúng ta là
người tu mù luyện đui, cầu thần thông đã nuốt bao nhiêu
khổ, đã tốn bao nhiêu tiền còn khó có lúc đến tay. Dẫu
cho thần thông đến tay còn chẳng bảo đãm được sự lâu
dài của nó. Nghĩ như thế rồi, hãy mau mau tham thiền, đem
cái công phu cùng vốn liếng cầu thần thông để cầu tham
thiền thì tương lại rất có triển vọng.
Lại nói,
người khai đại ngộ đáng lẽ phải có thần thông, thần
thông lộ bên ngoài không có, thần thông thầm bên trong cũng
phải có. Nếu thật không có thần thông mà nói khai đại
ngộ thì người ta không tin. Thử hỏi : Thế gian lấy pháp
lợi sanh, chưa nghe nói lấy thần thông lợi sanh. La Hán có
thần thông còn chẳng trụ thế. Bồ Tát lấy pháp lợi sanh
thường trụ thế gian. Lại, Chư Tổ đời trước đa số có
thần thông, chỉ tự chẳng nói tôi có thần thông. Người
Đại thừa cho thần thông là đồ bán ế đương cơ.
Người Tiều
thừa thì cho thần thông là kỳ đặc, hy hữu. Thật là chưa
biết chỗ trọng yếu của cơ giáo vậy.
104.
HIẾU THẮNG
Mgười tham
thiền chỉ lo chân thật tham thiền, nỗ lực công phu. Lúc
đánh mất công phu, lấy đầu đập vào cột, hoặc đập đầu
xuống đất, nước mắt tuôn dầm dề trên má, mới có tư
cách tham thiền.
Nếu chẳng
ở trên bổn tham gấp lo dụng công phu mà chuyển ở ngoài
công phu khoe tài, tôi cao, ông thấp, tôi làm được, ông không
làm được. Như vậy, thật là uổng phí thời giờ, Như tọa
hương, người ngồi hôn trầm, ta ngồi tỉnh táo. Người bảo
hương cúi đầu, ta bảo hương ngay thẳng. Người đứng dậm
chân, ta đứng thẳng như tường vách. Người ngủ duỗi chân,
ta nằm kiết tường. Người suốt ngày nói chuyện, ta suốt
ngày không mở miệng. Người đi đường quay đầu, ta đi đường
oai nghi. Người phạm quy củ bị phạt, ta giữ quy củ tu hành.
người gặp người chào hỏi, ta gặp người đụng phải mà
không biết (có nghi tình). Người thỉnh khai thị nhiều, ta
chưa từng thỉnh một lần. Người ngủ mê, ta chẳng nằm.
Mỗi ngày người ăn bốn bữa, ta ăn ba bữa. Người thích
ra ngoài làm ruộng, ta thích tịnh tọa. Người này nhân cách
tuy cường thắng, song chẳng phải tư cách của đạo nhân.
Tâm hiếu thắng này, có người ở trên đạo tâm muốn thanh
cao, có người ở trên nhân ngã dành hơn thua, cũng chẳng hoàn
toàn là phải, cũng chẳng hoàn toàn là quấy. Nếu hoàn toàn
là phải thì không có cơ hội khai ngộ. Nếu hoàn toàn là
quấy thì tuy hiếu thắng cũng là hiếu thắng ở trong đạo
tràng, ở trong chúng tu hành. Cho nên chỉ cho "hiếu tham thiền"
chứ không cho hiếu thắng, mới là người chân thật hiếu
thắng.
Phải biết,
lớn nhất trên trời, không ai bằng Thiên Vương, Thiên Vương
lớn nhất cũng không qua khỏi cái chết. Điều lớn nhất
của con người là sống. Điều lớn nhất của sống chẳng
qua được cái chết. Dẫu cho người cường thắng nhất, anh
hùng nhất của cõi trời cõi người rốt cuộc chẳng lớn
hơn sanh tử. Đã biết sự trọng đại của hai chữ SANH TỬ
siêu cõi người cõi trời, nếu ở tại cõi trời cõi người
giành cướng giành thắng thì chẳng phải bậc trượng phu
xuất cách. Cần phải trụ Tòng Lâm chuyên lo việc lớn sanh
tử. Một mai việc lớn này làm xong, thật là thế gian không
thể sánh được. Việc sanh tử này, dù ông tu pháp môn nào,
muốn liễu sanh tử chỉ là gián tiếp, chỉ có một pháp tham
thiền hợp cơ bậc nhất, rất là trực tiếp. Pháp tham thiền
không có đại dụng nào khác hơn là minh tâm kiến tánh, liễu
sanh tử, thành Phật Tổ, độ chúng sanh đó là chánh dụng
của tham thiền. Bỏ pháp tham thiền này ra, đều là pháp môn
hàng nhì.
105.
DỤNG CÔNG PHU NGOẠI ĐẠO
Người tham
thiền cần phải quyết tử giữ chặt pháp thiền. Người
chẳng biết tha, chẳng chịu tham, chẳng thể tham, chẳng nguyện
tham, cũng chẳng bao giờ rời bổn tham.
Thế
nào là bổn tham?
Bổn tham,
người đời có cái tham này, tăng sĩ có cái tham này, người
nguyện tham có cái tham này, người chẳng nguyện tham có cái
tham này. Thật vì mọi người vốn saün cái tham này (nghi tình)
nên mỗi người chưa từng rời cái tham này. Người không
tham cũng có bổn tham, người tham cũng có bổn thamn, chưa ngộ
là bổn tham, ngộ rồi cũng bổn tham, sơ tham là bổn tham,
lão tham cũng là bổn tham, đều do mọi người vốn đủ tâm
này, vốn đủ tánh này, cho nên người hành đạo thiền chính
là có đủ bổn tham. Tâm của mỗi người như vậy, nghĩa
của bổn tham cũng như vậy, đây gọi là cội gốc của sự
tham thiền.
Lúc gần
đây, có người thu thiền biết rõ tham thiền là pháp môn
bậc thượng, là hơn hết các thừa, tự cảm thấy không đủ
sức tham thiền, trở lại dụng công phu ngoại đạo của lúc
trước, thật đáng thương xót! Tự bỏ Đại thừa, lượm
Tiểu thừa, bỏ nhân địa Phật, lấy nhân địa thế gian.
Người tham thiền tại sao có cái lầm này? Do người tham thiền
chẳng biết cội gốc của tham thiền, cho nên chẳng dám dụng
công sâu học Phật, vì càng học càng không. Hôm nay thấy
được cái không này lại sanh hoảng sợ, vì nhớ lại lúc
ở tục gia thường nghe người ta nói : Xuất gia là vào cửa
không mà chẳng biết nghĩa không là gì? Ta hôm nay nếu dụng
công phu theo thế tục cảm thấy dường như có sức mạnh,
lại còn cảm thấy có mùi vị nữa. Nếu dụng công tham thiền,
cái này cũng quét sạch, cái kia cũng quăng hết, khiến cho
sắc thân một chút cũng chẳng trụ, vọng tâm một chút cũng
chẳng dính mới thật là vào cửa không, chẳng bằng dùng
công phu ngoại đạo của mình trước kia mới thực là đúng
đắn. người ấy nghĩ như vậy bỏ chánh đạo theo ngoại
đạo. Tu theo ngoại đạo được sanh lên cõi Trời, lúc tuổi
thọ ở cõi Trời hết trở lại đầu thai vào thân người,
thân heo dê. Chánh đạo thì thành Phật, vĩnh viễn ra khỏi
sanh tử luân hồi. Ước mong người dụng công phu ngoại đạo
hãy so sánh lại thử xem! Lại nữa, công phu của ngoại đạo,
người thế tục dụng có công, tăng sĩ dụng có lỗi. Vì
sao có lỗi? Xuất gia tham thiền là để liễu thoát sanh tử,
công phu của ngoại đạo thêm sanh tử, chẳng phải lỗi là
gì?