THAM
THIỀN PHỔ THUYẾT
Lai
Quả Thiền Sư
Việt
Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
Từ
Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
86.
TÁN THÁN
Tán là ca
tụng công, THÁN là ngợi khen đức, ấy gọi là TÁN THÁN.
Công của tán thán lớn không gì so bằng. Sao vậy? Như Phật
xuất hiện trên đời, người nếu chẳng tin, làm sao chịu
cho Phật độ. Vì thế cần phải có người ca tụng công đức
của ngài, khiến cho người tin thì mới được độ. Dù Phật
phải khổ hạnh trải qua ba đại A Tăng Kỳ kiếp cho đến
thành Phật, người đời cũng chẳng biết Phật là ai, làm
sự nghiệp gì. Cho nên cần phải nhờ Chư Thiên và loài người
tán dương ca tụng, người đời mới biết tướng Phật tốt,
tiếng Phật hay, do đó tin phục, rồi sau Phật chuyển pháp
luân, những người có duyên mới được độ thoát.
Như hai người
đi ra ngoài hóa duyên, đến chỗ dân cư đông đúc, phải có
một người khen đạo của người này, đức của người này,
sau đó mọi người mới quy y, kính tin, cúng dường, lễ bái.
Lại như Tòng Lâm hưng thạnh cũng phải nhờ người mà thành,
ví như có nhiều người khen lịch sử Tòng Lâm rất tốt,
người trụ trì giỏi, dẫu cho có người muốn khuấy phá
nhưng đương nghe qua những điều hay đó ắt sanh chút lòng
tin, phải ngưng ý xấu thì Tòng Lâm ắt được bảo toàn,
đây đều do công tán thán.
Lại như
chỗ dở của người kia như thế nào không biết, mà có người
khen rằng : "Người đó tột như thế này, tột như thế nọ".
Người ác nào nghe nói người kia, dù một điều tót, thì
việc ác của họ ắt bỏ, tâm ác ắt đổi. Dù nói vậy,
nhưng hai chữ tán thán không phãi đụng ai cũng dùng, người
có công thì tán thán, người có lỗi thì im lặng, chẳng nên
đều tán thán. Như người muốn phá giới, làm ác, chẳng
nên tán thán, chỉ nên cản ngăn, chẳng nên chê bai, vì chê
bai thì mình cũng có lỗi vậy.
87.
ẤN GIẤU ĐIỀU ÁC PHÔ DƯƠNG ĐIỀU THIỆN
Ẩn giấu
đều ác, phô dương điều thiện là thành tựu cái đức hạnh
cao tột cho người. Duy có một mình Phật là người đại
thiện, kể đến Bồ Tát, rồi La Hán còn những người khác
dù tận thiện mà chẳng thể tận nỹ.
Như người
có tâm ác, vội đem tâm ác ẩn giấu lâu ngày không cho nó
động, hễ động đều là niệm thiện.
Một người
như vậy, người khắp mười phương cũng như vậy, thì đâu
có ngưới ác. Nếu một người có việc ác, mọi người thấy
đều giấu cho, mọi người nghe đều ẩn cho lâu ngày thì
chỗ người ta thấy đều là việd thiện, chỗ người ta nghe
đều là tiếng lành. Một người như vậy, mọi người cũng
như vậy thì đâu có việc ác. Việc ác của một người được
người khác ẩn giấu thì việc ác của mọi người đều
được ẩn dấu lẫn nhau, khắp thế gian chẳng thấy có một
việc ác. Cái thiện của thế gian chẳng phải tự nó thiện
mà trước tiên phải từ tâm người chuyển tâm ác thành tâm
thiện, hóa việc ác thành việc thiện, do đó khắp thiên hạ
đều được thiện vậy.
Chúng ta là
người học hạnh Bồ Tát, như có người muốn bắt kẻ giết
heo để định tội, người thân của mình để báo thù, kẻ
giết heo trốn ở chỗ Bồ Tát. Người đi bắt hỏi : "Có
kẻ giết heo trốn ở đây chăng ?". Bồ Tát đáp : "Không".
Rồi hỏi : "Giết heo phạm tội gì? Bắt hắn để làm gì?".
Người đi bắt đáp : "Giết heo quá nhiều, cho nên định tội".
Bồ Tát đáp :"Tội giết nhiều heo thì nhỏ, tội giết một
người thì lớn. Tôi khuyên ông chẳng nên bắt hắn thì mới
khỏi có người khác bắt ông". Bồ Tát khuyên giải hai người
như thế khiến họ hối cải xuất gia tu đạo. Đậy là đại
Phật sự ẩn giấu điều ác, phô dương điều thiện.
Người ở
chốn Tòng Lâm thấy người có tập khí xấu, ẩn giấu đi
mà chẳng nhớ. Dẫu cho có người hỏi cũng chẳng nói. Người
nếu trách thì cũng cứ ẩn giấu điều ác của người kia,
mà chỉ phô dương điều thiện. Như vậy, người trên phô
dương điều thiện của kẻ dưới, kẻ dưới ẩn giấu điều
ác của người trên. Ẩn giấu lẫn nhau, phô dương lễn nhau
chẳng những đạo thành, Tòng Lâm hưng thạnh, mà đạo Bồ
Tát được thực hành mãi. Lại thường nói : "Muốn được
Phật pháp hưng thạnh thì tăng phải tán thán tăng". Đây là
yếu tố khiến cho Tam Bảo trụ lậu ở đời.
88.
TRỪ PHỈ BÁNG
Phỉ báng
là điều bất thiện hơn hết. Đề Bà Đạt Đa phỉ báng
Phật, chưa chết mà bị đọa địa ngục A Tỳ, tỳ kheo Vô
Văn phỉ báng pháp đang sống mà bị đọa địa ngục, vua
Lưu Ly hại tăng chư chết mà bị đọa xuống hầm lửa, tỳ
kheo ni Bửu Liên phỉ báng giới, chưa chết mà bị đọa địa
ngục A Tỳ. Chưa chết mà bị đọa nghĩa là việc ác vừa
làm xong, hoặc lời nói ác vừa hói xong thì ngay chỗ đang
đứng đất nứt ra, rơi xuống đáy sâu vô biên, toàn thân
xuống thẳng địa ngục A Tỳ như quả cân rơi xuống biễn
một mạch thẳng đến đáy.
Luận về
mức nặng nhẹ của sự phỉ báng, như thấy người thật
có vi phạm cấm giới của Phật, hoặc làm việc trái nhân
quả, thấy rồi lại thấy, nghe rồi lại nghe, nhiều lần
chỗ thấy nghe không chút lầm lẫn, im lặng chẳng nói thì
không có lỗi. Nếu phỉ báng cũng chẳng phạm tội đọa,
chỉ phạm tội phá hòa hợp tăng, tội này nhẹ hơn tội đọa
A Tỳ. Nếu người thất không vi phạm mà phỉ gáng họ thì
người phỉ báng ấy nhất định bị đọa địa ngục.
Phật pháp
hiện thời mọi người đều tán thán còn có chỗ âm thầm
lo lắng, huống là phỉ báng mù quáng, khiến cho mình trong
tương lai không có đất an thân. Xin người ưa phỉ báng hãy
mau tỉnh ngộ.
89.
DỨT TRANH CÃI
Dứt tranh
cãi là việc làm cần kíp trước mắt. Hiện tại cách Phật
sau hai ngàn năm trăm năm, chính là lúc mở đầu cho thời kỳ
đấu tranh gay gắt, làm cho thế giới cùng thế giới tranh,
người với người tranh, tranh lâu ắt loạn. Xét tận gốc
của nó chẳng ngoài tự tâm, do vì tâm đạo đức càng kém,
tâm nhân ngã càng to. Nếu có thể xem việc đời như mây trong
hư không lúc tụ thì có, khi tán thì không, quán mình, người
như hoa mùa xuân, mới nở thì đẹp đẽ, tàn rụng thì như
bùn nhơ, hễ đối xử người như mây như hoa thì người nào
chẳng nhường nhịn được, việc nào chẳng bỏ qua được.
Đến đây, có được bậc thượng sĩ xuất sắc khéo hòa
giải đấu tranh, thấy người cãi cọ đánh nhau, dịu dàng
khuyên giải. Hoặc người vu oan ta quấy, ta phải tùy họ để
xử trí. người cả đời chẳng thích đấu tranh, nếu người
khác muốn tranh thì cho hết phần mình để họ khỏi đấu
tranh. Người nói ta tốt, chẳng thấy vui, người nói ta xấu
chẳng thấy buồn. Người chê bai ta, ta chẳng chê bai người.
Người tìm ta đấu, ta chẳng tìm người đấu. Như vậy, danh
tiếng lợi dưỡng đều nhường cho người, ta chẳng tranh
giành. Danh tiếng lợi dưỡng của ta có, người muốn tranh
với ta, ta đều cho họ. Hai bên nhường nhau, làm gì có tranh!
Người nói
ta phá giới, ta chẳng đỏ mặt cũng chẳng giải thích, trái
lại coi người ấy là bạn tốt giúp tăng đạo niệm cho ta.
Người muốn y bát đồ đạc của ta, ta lượng sức xả cho.
Người muốn tánh mạng ta, ta xả cho họ, nếu không thể xả
thì cũng không động niệm. Buồn thay! Do vì chấp ta nên mới
chấp người, giả sử người tranh, ta cũng tranh, ắt bị thế
gian chuyển. Người tranh ta không tranh thì chuyển được thế
gian. Muốn đập vỡ sự tranh cãi, trước tiên phải vô ngã.
Thử hỏi : Ngã làm sao mà vô? Thực ra, chẳng phải diệt ngã
rồi thành vô, mà chỉ cần xem mọi người như ruột thịt,
nguyện người hữu ta vô, người giàu ta nghèo thì tâm ta mới.
Ngã là cái nhà của đấu tranh. Vô ngã là then chốt để dứt
đấu tranh. Mọi người đều vô ngã thì đấu tranh làm sao
có? Người làm được như thế đến chết không thay đổi
thì đến giai đoạn làm được như thế đến chết không
thay đổi thì đến giai đoạn cuối của thời mạt pháp, trở
lại thế gian này dùng Phật pháp giáo hóa khắp nơi, dầu
thời thế như thế nào cũng chẳng bị chuyển. Thật là đứa
con ngoan của Phật Thích Ca.
90.
BA ĐIỀU THƯỜNG KHÔNG ĐỦ
Ba điều
thường không đủ là : Mặc không đủ, ăn không đủ. Ba điều
này thường sung túc thì trái với đạo. Ba điều này thường
không đủ thì tương ưng với đạo.
Người tham
mặc đẹp là trọng thân, yêu thân. Cái thói quen thích đẹp
mắt xưa nay chẳng thay đổi là cái tập khí căn bản. Thử
nghĩ :
Thời thượng
cổ lấy vỏ cây, lá cây làm quần áo, mọi người đều như
vậy, đối với thân sao mà nhẹ thế, đối với ục sao mà
khinh thế! Dẫu cho kiếp giảm, thân người yếu đuối cũng
chỉ nên giữ cho thân chẳng bị lạnh nóng là đủ rồi. Như
vậy chẳng những hợp với đạo mà cũng ít tốn tiền, tốn
công thế gian. Chẳng nghĩ, ta mặc đồ đẹp người thấy
ta mừng, mừng rồi thì ra sao? Ta mặc đồ xấu, người thấy,
ta buồn, buồn rồi thì thế nào? Buồn thay! Con người thường
tình chỉ biết cái vui trước mắt mà chẳng biết sau khi vui
rồi ra sao? Thật là một sự đau khổ lớn lao ở trong tương
lai mà họ không hiểu. Nếu quả mượn thân này tạm dùng
để lo hành đọo thì đâu có ưa mặc đồ tốt!
Ăn chẳng
đủ, chúng ta ở chỗ chẳng cấy trồng mà có ăn thì phải
nghĩ đến chỗ sản xuất. Người xưa nói : "Hạt gạo của
thí chủ lớn bằng núi Tu Di. Nếu người không liễu thoát
mang lông đội sừng trả"việc này rất đáng sợ hãi. Nghĩ
đến đó, chẳng những không ăn đồ ngon mà đồ dở cũng
chẳng dám ăn nhiều. Sao vậy? Ăn nhiều ắt phải trả nợ
nhiều. Người hành đạo suốt ngày chuyên tâm khắc khổ tham
cứu, lấy đạo làm niệm, người xưa nói : "Tấc hương (tọa
hương, đi hương) tiêu được đấu vàng" cũng chẳng hư dối.
Bằng không thì mảy may hệ niệm là nghiệp nhân của tam đồ
(địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh). Than ôi!
Ngủ chẳng
đủ, chính là phỏng theo quy củ thiền đường. Từ khởi
nén hương dưỡng tức đến khai đại tịnh là đầu hôm,
chẳng được ngủ. Từ sau khai đại tịnh đến đánh bốn
bản là giữa đêm, được ngủ. Từ thời tụng niệm sáng
sớm đến nén hương báo đã sáng là cuối đêm, chẳng được
ngủ. Giữa đêm ngủ say một giấc, bằng không thì ngày đêm
chẳng phân sẽ làm chướng đạo. Nếu đúng lúc ngủ mà chẳng
ngủ thì thân thể bị lao nhọc. Chẳng phải lúc ngủ mà ngủ
là chướng đạo. Cho nên ngủ phải đúng giờ mới hợp với
quy củ, nếu trái phạm thì một giấc ngủ một ngàn năm cũng
chẳng nghe được danh hiệu Phật. Buồn thay!
91.
KHUYẾN DỤ TÒNG LÂM
Tăng sĩ khắp
thế gian lênh đên lưu lạc không có chỗ ở cố định, thật
đáng thương xót! Phải biết, Tòng Lâm là hang pháp hoằng
đạo lợi sanh, là đạo tràng của minh tâm kiến tánh, như
áo có bâu, như lưới có giềng. Thân tâm an lạc, an uống
đều hòa, người có đạo thì khuyến khích họ, dụng công
sâu thêm, người không có đạo thì cảnh sách họ tiến lên
như tre đầy rừng, tanh nhau mọc cao, như từng của rừng lớn,
thi nhau hùng dũng vương lên, chẳng phụ bốn ân, làm quan vinh
ba cõi, thật là đất tăng bảo của tăng sĩ vậy.
Lý do khuyên
chúng ta nên trụ lâu ở Tòng Lâm như sau :
Người tham
thiền ở Tòng Lâm cùng chúng tăng làm bạn đồng tham, giúp
ích lẫn nhau, khuyến khích lẫn nhau, một mai ngộ đạo, biết
ta đã lìa thế gian khổ não. Do thế gian khổ trợ giúp ta
khai ngộ, nên ta chẳng bỏ Ta Bà. Ta lìa được khổ não là
nhờ người khổ não giúp ta minh tâm, cho nên ta chẳng bỏ
tất cả chúng sanh khổ não. Sau đó, lấy thế giới này làm
chỗ hoằng đạo, lấy loài người này làm chúng hóa độ.
Chúng sanh ở thế giới mười phương thì nhiều, chỉ cho dùng
một chữ nhiều chứ không có số nào khác để nói. Trong
Thiền đường chúng ta, nếu một người minh tâm làm giáo
chủ một thế giới, độ người của một thế giới, nếu
hai người minh tâm, làm giáo chủ hai thế giới, độ người
của hai thế giới. Thế giới nhiều, giáo chủ nhiều, cuối
cùng phải tiến đến mức giáo chủ nhiều mà thế giới ít,
thì muốn độ hết chúng sanh trong mười phương thế giới
cũng chẳng khó.
Sự trọng
yếu của Tòng Lâm rất sâu, rất lớn, là ngọn đèn sáng
của đời ô trược, là chỗ trụ của Tam Bảo. Đại chúng
tăng lữ ở đó tu hành, tuân theo quy củ Tòng Lâm, tất cả
chức sự và thanh chúng quên lao nhọc thích hành đạo, người
nào cũng có thể tu đến kiến tánh thành Phật, các chùa tư
không thể so bằng, thật là cột trụ vững chắc của dòng
đời ô trược vậy.
92.
PHÁT TÂM LÀM VIỆC
Làm việc
tức là nhận lấy chức sự. Chức sự ở Tòng Lâm tổng cộng
có 48 đơn vị. Mỗi đơn vị đều có phạm vi riêng biệt,
không được vượt qua phạm vi người khác. Làm mọi việc
trong chúng, cần phải bảo hộ Tòng Lâm như nhà mình, coi vật
nhà chùa như vật nhà mình, xem đại chúng như ruột thịt.
Người có chí này, ai chịu làm người tán gia bại sản. Mọi
người đều có tri thức này thì Tòng Lâm ngày càng hưng thạnh,
nhiều nhân tài giỏi cộng sự giúp nhau thì lo gì không có
đạo!
Điều khẩn
yếu nhất là việc làm phải y theo pháp Tòng Lâm mà làm, lời
giảng nói cũng phải y theo pháp Tòng Lâm mà giảng nói, chẳng
nên nói chuyện thế tục, bàn về chính trị. Cảnh tỉnh chúng
như vỗ con thơ, điều phục chúng nghiêm khắc như Diêm Vương.
Dùng tâm Bồ Tát thương cái khổ của người, dùng mặt La
Sát phá cái ngu của người. Trong tâm tròn mà ngoài mặt vuông,
tâm hiền từ mà lời nói dữ mới có thể dứt việc, yên
người, để khỏi trái phép, loạn chúng. Oai nghi tề chỉnh,
tế hạnh tinh nghiêm, nói nín làm người kinh sợ, ngôn từ
hòa nhã hay đẹp, lời nói ra đều đúng theo quy củ, thưởng
phạt công bằng không có thiên vị. Đại chúng thấy đó sợ
mà kính mến. Nếu tất cả người thường trụ đều vui vẻ
cho chức sự là quý báu, như thế, lâu ngày sẽ có nhân tài
xuất sắc của pháp môn vậy.
93.
THÍCH LÀM THANH CHÚNG
Người không
làm chức sự nào trong Tòng Lâm gọi là thanh chúng. Thường
thường người lập chí cao thượng phải phát tâm chẳng rời
Tòng Lâm, lấy ngộ làm kỳ hạn, do đó trước tiên xả bỏ
quần áo dư, rồi xả bỏ túi bát, tiền bạc để khỏi bận
lòng, giảm trừ sự chướng ngại của vọng động. Quét một
cái sạch hết, muôn thứ lo nghĩ đều không, nương thân nơi
Thiền đường, buông tâm ở trên đạo. Dù cho trời xoay đất
chuyển cũng không dính dáng gì đến ta. Quên ngày tháng, quên
ấm lạnh, đặt thế thái nhân tình ra ngoài thế giới. Lúc
tinh tấn thì không nhân không ngã, đâu biết đói khát. Lúc
hơi biếng nhác thì có người xách tấn, đâu có lui sụt mà
phải ăn năn. Dẫu sanh lên cõi Trời Tam Thiền cũng chẳng
bằng một niệm chuyên tham. Thiền tham tới vô lậu, thân quên
đất mà đất quên trời. Giữ được nghi tình thì tâm tự
đúng như lý, lý tự đúng như sự. Mắt không rảnh để thấy
người, đâu phân người đẹp người xấu. Tai không rảnh
để nghe chuyện thì đâu biết chuyện dở chuyện hay. Xem chức
sự như Phật sống, xem người bên cạnh như ruột thịt. Cái
đạo đại-vong (quên hết) hiện tiền, cái công Tiểu ngộ
chẳng kể. Thẳng đến đánh mất mặt mũi mẹ sanh (kiến
tánh), trâu trắng sờ sờ (tự tánh) chẳng từ người khác
mà được. Ngộ rồi dựng pháp tràng làm giáo chủ ở thế
giới phương khác độ chúng sanh khiến cho đức Phật vui cười
ở trong Thường Tịch Quan.
94.
TÌNH NGUYỆN NHẬN CHỨC HÀNH ĐƠN
(Người phục
vụ việc ăn uống cho tăng chúng)
Trách nhiệm
hành đơn thật là việc của Bồ Tát. Trách nhiệm nặng trong
Tòng Lâm là chức hành đơn. Người hành đơn trước hết
phải rõ cái đạo bồi phước, kế đến giữ cái tâm yêu
vật. Chánh pháp trụ lâu dài, công ở hành đơn. Tòng Lâm
an ổn lâu dài, đức quy về hành đơn. Người ta thường nói
: "Kẻ vô phước bồi phước, kẻ có phước cần phải bồi
thêm nữa". Sao vậy? Chỗ tụ tập của tất cả Thánh hiền
trong mười phương pháp giới mắt trần chẳng thấy, chứ
chẳng chút dối nhau. Xưa có Phổ Hiền làm hành đơn, Di Lặc
làm đại hỏa (đun bếp), Quan Âm làm phạn đầu (nấu cơm),
Văn Thù lượm giấy vụn, còn Qui Sơn thì làm thái đầu (rửa
cải), Tuyết Phong làm phạn đầu, Lâm Tế làm viên đầu (trồng
rau cải), Mã Tổ quét tước, Bá Trượng thị giả. Các vị
hành đơn đều là Bố Tát, các vị chức sự đều là Tổ
Sư, phát tâm làm việc, ra sức chịu khổ đều là cúng dường
mười phương chư Phật, chúng Tăng Hiền thánh.
Điều khẩn
yếu nhất, muốn hành hạnh này, trước tiên phải dứt tâm
giận hờn thì đồng sự với người mới hòa thuận được.
Kế diệt trừ biếng nhác thì việc của nhà chùa mới có
thể làm hoàn chỉnh được. Dù làm hỏng việc bị chỉ trích,
phải quy lỗi về mình, chẳng nên đổ lỗi cho người. Ba
mươi năm bồi phước, công lao lớn, khổ hạnh cao, thân tâm
thuần thục, một mai vo gạo, chụm lửa hoặc thái rau, nấu
nước, bỗng chạm nhằm cái này (kiến tánh) mới biết hành
đơn không chướng ngại tham thiền.
Nói chung,
tất cả Tổ Sư đều từ khổ hạnh mà ra, tất cả Bồ Tát
đều do khổ
hạnh mà vào. Nhận chức hành đơn cũng chẳng khoái ư
95.
BIẾT NHÂN BIẾT QUẢ
Hai chữ NHÂN
QUẢ, mười pháp giới đồng nhau. Bất cứ nơi nào lúc nào,
người nào, việc gì đều chẳng ra ngoài nhân quả. Như cái
nhân tham thiền quyết định cảm cái quả đại ngộ. Nhân
niệm Phật quyết định cảm cái quả vãng sanh Tây phương.
Tạo nhân phá giới quyết định cảm quả địa ngục. Tu nhân
trì giới quyết định cảm quả sanh lên Trời. Nhân trồng
mè quyết định cảm quả mè, nhân trồng đậu quyết định
cảm quả đậu. Tu nhân Tòng Lâm cảm quả ngồi đạo tràng.
Tu nhân khổ hạnh cảm quả phước đức. Tu nhân thiền định
cảm quả trí huệ. Làm nghiệp nhân chúng sanh cảm quả chúng
sanh. Tu nhân giải thoát cảm quả chư Phật. Muốn biết nhân
đời trước thì xem chỗ hưởng thụ của đời này. Muốn
biết quả đời sau thì xem việc làm của đời này. Tiền
nhân hậu quả đều tự nơi mình, thay đầu đổi mặt đều
do nhân quả. Một lời nói, một việc làm cần phải xét lợi
hại, nhất cử nhất động đều chẳng ngoài nhân quả. Hễ
có động niệm cho đến làm việc đều là tạo nhân, có gieo
nhân thì phải gặt quả. Kẻ mang quả tu nhân thì nhân gồm
biển quả. Kẻ tu nhân cảm quả thì quả suốt nguồn nhân.
Ngàn Thánh muôn Phật cũng chẳng thể ra khỏi nhân quả. Thường
có người chấp "khoát-đạt-không" (chấp cái không của tuyệt
diệt) bác bỏ nhân quả, ấy là người mù dẫn cả bọn mù
cùng vào hầm lửa. Sự bác bỏ nhân quả thật nguy hiểm thay!
96.
PHÁT THỆ NGUYỆN LỚN
Thế gian
và xuất thế gian đều có phát thệ nguyện lớn. Hai người
tranh giành đất đai, người nào cũng cầu thắng, Bồ Tát
ắt làm mản nguyện cho người có đạo đức thành tâm tin
Phật. Nếu người có đạo đức lại bại, người không đạo
đức lại thắng, cũng là do cảm ứng của nhân quả chẳng
đồng mà xảy ra như thế.
Chúng ta là
người trụ Tòng Lâm, trước phát nguyện lớn quyết liễu
sanh tử, kể phát nguyện lớn quyết thành Phật đạo, lại
phát nguyện lớn độ hết chúng sanh. Hoằng nguyện này là
thường khóa hàng ngày chẳng chút gián đoạn ngừng nghỉ.
Nếu ngừng nghỉ một chút, có thể bị đọa địa ngục,
đây gọi là thệ. Đã lập thệ nguyện, thì không thể trái
nguyện một chữ mới là đủ cả hạnh nguyện, lời nói việc
làm phù hợp với nhau. Chỉ nói ăn mà chẳng từng nếm thì
chẳng thể no, đây là nói suông. Như phát nguyện mà chẳng
hành thì chẳng hành thì chẳng thể đến, đây là nguyện
suông, bất quá chỉ tu cái nhân phát nguyện mà thôi. Người
tu hành chẳng nên chỉ tu cái nhân phát nguyện mà nhất định
cần phải hành cái việc của phát nguyện mới đúng.
Lại, nguyện
có tà chánh, cũng có lớn nhỏ. Thế nào là nguyện tà? Như
phát nguyện cầu tài, tham sắc, học Tiên đắc đạo, đây
gọi là nguyện tà. Phát nguyện chánh là phát nguyện độ
chúng sanh, phát nguyện liễu sanh tử, phát nguyện học kinh
giáo, phát nguyện thành Phật đạo, đây gọi là nguyện chánh.
Nguyện lớn là chẳng vì tự độ, phải độ tất cả chúng
sanh trên khắp quả đất, chẳng độ một loài mà phải độ
tất cả chúng sanh trong lục đạo, chẳng độ chúng sanh trong
một thế giới mà phải độ chúng sanh khắp mười phương
thế giới, đây gọi là nguyện lớn. nguyện nhỏ là phát
nguyện độ chính mình, chẳng nguyện độ người khác, phát
nguyện độ chúng sanh địa ngục, chẳng nguyện độ loài
súc sanh, phát nguyện độ cha mẹ mình, chẳng nguyện độ
cha mẹ người khác, đây gọi là nguyện nhỏ.
Chúng ta phát
nguyện muốn độ chúng sanh, trước hết cần phải có đủ
tài năng độ chúng sanh mới có thể làm như lời nguyện.
Muốn có tài năng này mà chẳng trụ lâu ở Thiền đường
cho đến khai đại ngộ, liễu thoát sanh tử, thì chẳng thể
hoàn thành công tác lớn này được. Thế nên, phát nguyện
lớn độ chúng sanh, trước tiên phải độ mình. Chỗ để
độ mình, nhất định là phải trụ Tòng Lâm, ở tại đạo
tràng ban ngày dụng công tham thiền, ban đêm dùng đại nguyện
huân tu, thì chúng sanh của tự tánh sẽ liễu hết, chúng sanh
của đại địa có ngày độ xong. Xin mời chư Thiền đức
ở các nơi tấp nập kéo vè cùng vào lò to (Tòng Lâm) rèn
luyện thân tâm, một mai phát minh đại sự, dạo chơi trong
biển đại nguyện. Ngày cuối cùng của chúng sanh sắp hếtm
giờ thành Phật đã đến.
Lành thay!
Phậy sự viên mãn, đến đây thường giác chẳng mê.