THAM
THIỀN PHỔ THUYẾT
Lai
Quả Thiền Sư
Việt
Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
Từ
Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
27.
PHÁT KHỞI LÒNG TIN
Kinh nói :
"Lòng tin là nguồn đạo, là mẹ công đức, nuôi dưỡng tất
cả thiện căn". Thành Phật làm Tổ, chẳng phải do lòng tin
thì khó thành. Biến trâu biến ngựa, chẳng phải do lòng tin
thì khó nhập vào bụng trâu bụng ngựa. Lòng tin là cửa của
các điều thiện cũng là cửa của các điều ác. Người đời
đối với việc tin tâm hiểu lầm chẳng ít. Đã nói tin tâm,
trước tiên phải biết nguồn gốc của tâm, lấy gì làm tâm,
diện mục thế nào? Tại sao tin tâm? Người cả thế gian chỉ
tin tất cả mà xưa nay chưa tin tự tâm. Người thường nói
tin tâm, giả sử bị người hỏi : "Ông đã tin tâm ắt biết
tướng của tâm, thấy nó là vật gì xin nói ra coi!". Người
nói tin tâm thình lình bị hỏi, cứng miệng không đáp được.
Tâm còn chẳng biết thì lòng tin từ đâu mà có? Sự lầm
lạc sâu xa này chẳng phải chỉ mới ngày nay. Hoặc thấy
việc nào đó nổi tâm ưa thích, chẳng gọi là tin tâm, chỉ
gọi là tin việc. Đem sự tin việc cho là tin tâm, ấy chỉ
là giả tin tâm. Chỉ có người của Thiền Tông, chỗ giảng
chính là tâm, chỗ tham chính là tâm, chỗ nói chính là tâm,
chỗ dụng chính là tâm, chỗ mê chính là tâm, chỗ ngộ chính
là tâm.
Trong cuộc
sống hàng ngày, bất cứ lúc nào chỗ nào đều chẳng rời
tâm, cho đến trực ngộ tánh lý, tâm đã không thì tín tự
tịch, tín tịch tức là tâm không, vậy khắp mặt đất đều
là tâm, cả hư không đều là tín. Tín tâm bất nhị, quăng
quả đất lên phương trên, bất nhị tín tâm, ném hư không
xuống phương dưới, người học đạo tin được tâm này
đối với những việc đó đều không đáng kể.
28.
NGHE ĐƯỢC LÃNH HỘI
Người mới
trụ Thiền đường, tánh thô tâm cứng, trăm thứ sai biệt,
chạm việc gặp người, nghe không vào lỗ tai, thấy cũng không
quan tâm.
Kẻ tánh
thô thì thân lỗ mãng, ví như đụng té người khác, tự chẳng
biết lỗi, hoặc ho khạc, súc miệng, mạnh tay nặng chân tự
mình khó nghe thấy. Cần phải theo chúng huân tập lâu ngày,
tánh dần bình hoà, thân dần ung dung.
Người tâm
cứng thì thông minh lấp bít, thấy tất cả việc khó nhập
vào tâm, nghe tất cả tiếng khó để vào tai. Những việc
đã nghe từ trước chất đầy trong bụng nên tất cả việc
khác một chút cũng khó lãnh hội.
Hoặc người
mới trụ Thiền đường, tất cả mọi việc vội vàng chẳng
kịp ghi nhớ, dẫu có ghi nhớ cũng khó lãnh hội. Thân tâm
trụ lâu thì cuộc sống hàng ngày, đối với công việc hoặc
lời nói nghe qua có thể hiểu. Huân tu lâu ngày chướng thô
tự trừ, nghe qua liền lãnh hội được.
Người tâm
duyên ngoại cảnh lăng xăng, lỗ tai ngăn cách với tiếng,
đối với tiếng chưa nghe quen càng khó tương ưng. Nếu tâm
để ý nghe, nghe lâu thành quen nên tiếng vừa chạm vào tai
thì âm tự thanh, nghĩa tự rõ. Trong Thiền đường nghe giảng
khai thị cũng giống như vậy. Pháp thế gian và xuất thế
gian, nếu kẻ nghe không vào lỗ tai thì cũng như không nghe,
còn loại người nghe lãnh hội được thì tăng cường tín
tâm, về sau có thể khai ngộ. Người xưa có nói : "Một nghe
ngàn ngộ" là vậy. Lại nói, nghĩa cạn thì dễ biết, lý
sâu thì khó hội. Người có thể ở Thiền đường năm ba
mươi năm xa lìa trần cấu, đối với Như Lai Thiền, Tổ Sư
Thiền chẳng nghe cũng tự có thể lãnh hội.
29.
THẤY CÓ TƯƠNG ƯNG
Tương ưng
có hai :
l. Cùng đạo
tương ưng.
2. Cùng tình
tương ưng.
Cùng tình
tương ưng : Một chữ tình phạm vi rất rộng, mười phương
Phật, Tổ là hữu tình, loài sâu bọ hàm linh là hữu tình,
thiên đường địa ngục là hữu tình, đất đai hư không
là hữu tình, sỏi đá gạch ngói là hữu tình, hữu tình vô
tình là hữu tình (có sự tương ưng với vô tình tức là
hữu tình), tứ sanh lục đạo là hữu tình, người và phi
người đều là hữu tình.
Cùng đạo
tương ưng : Một chữ đạo phạm vi bằng với chữ tình. Tình
lớn bao nhiêu thì đạo cũng lớn bấy nhiêu. Cùng đạo tương
ưng thì lìa tình, cùng tình tương ưng thì lìa đạo. Tình
với đạo đồng như băng lửa. Nay người ở chốn Tòng Lâm
dụng công tuy có phần tương ưng, nhưng còn xa với đạo.
Sao vậy? Vì giữ quy củ, dụng công phu, khai đại ngộ, liễu
sanh tử đều thuộc về tình. Vậy thế nào là đạo? Không
thấy có sự tương ưng và chẳng tương ưng mới được gọi
là đạo. Người mắt chưa sáng (chưa ngộ) hãy chớ nên tự
làm tài khôn! Lại nữa, lìa tục gia thì tương ưng với xuất
gia, bỏ nghiệp chướng thì tương ưng với người hành đạo,
bỏ tập khí thì tương ưng với công phu, bỏ phiền não thì
tương ưng với thanh tịnh. Những tương ưng này mặc dù là
tốt song chẳng bằng không tương ưng còn tốt hơn. Cần phải
xét kỹ! (Tự tánh bất nhị có cái này tương ưng với cái
kia là nhị).
30.
TỰ NGUYỆN DỤNG CÔNG
Dụng công
có hai :
l. Người
khuyên dụng công.
2. Tự nguyện
dụng công.
Người khuyên
dụng công : Ban đầu dẫu người phát tâm đến trụ Tòng
Lâm cũng chỉ mang cái hư danh, chứ chẳng có thực lòng, giả
hình thức bề ngoài, chỉ đến xem thử gia phong, tự biết
thời gian trụ chẳng lâu mong đi qua nơi khác làm đại nhân
vật, nên suốt ngày chẳng màng đến việc khác. Sau này có
người đồng đạo khuyên rằng : "Làm trụ trì chẳng thể
liễu sanh tử, làm Quốc sư chẳng thể liễu sanh tử, trụ
danh sơn chẳng thể liễu sanh tử, làm quản chúng chẳng thể
liễu sanh tử. Chỉ có tham thoại đầu mới liễu được sanh
tử, sao chẳng chịu học tập?". Người ấy được sự khuyến
khích liền bỏ tất cả chuyên lo hành đạo. Như vậy đạo
niệm vững chắc, dụng công miên mật, hốt nhiên đạp vỡ
Thiền đường (ngộ), mới biết là Thiện Tri Thức đều từ
dụng công hành đạo mà ra.
Tự nguyện
dụng công : Người đã ở Tòng Lâm, trước tiên phải biết
những điều phải làm hàng ngày, tất cả quy củ phép tắc,
ăn gậy, bị hét, chịu các thứ khổ đều là để thành tựu
cho thân tâm người hành đạo. Nếu chẳng hành đạo thì chịu
khổ đâu có lợi ích gì! Cho nên biết, chẳng phải hành đạo
thì không trụ Tòng Lâm. Như vậy chăm chăm lấy đạo làm
niệm, lâu ngày đạo niệm thuần thục, công phu đắc lực,
mới biết cái việc hành đạo chẳng phải việc thế gian
có thể sánh được. Người chẳng biết hành đạo thì luân
hồi trong lục đạo, qua lại trong bốn loài tự chẳng hay
biết. Nay đã thấy đến một chữ ĐẠO này siêu Phật vượt
Tổ, tôn quý hơn tất cả pháp, nếu chẳng hết lòng tự nguyện
dụng công thì chẳng thể đến được chỗ này.
31.
QUÊN MỆT NHỌC
Quên mệt
nhọc có hai :
l. Người
xuất gia mà chuyên lo phục vụ thế pháp, ứng phó kinh sám,
ham được tiếng khen, để tâm nơi lợi dưỡng, hạnh Phật
hoàn toàn thiếu sót, đi sâu vào hạnh thế tục đến chỗ
cực điểm, khiến cho quên cả bổn phận làm người, đâu
phải là quên mệt nhọc vì hành đạo ư? Thật đáng buồn
thay!
2. Thân ở
Tòng Lâm, tâm thường lo âu ăn cơm, uống trà lãng phí của
thí chủ, nếu chẳng tu hành, nợ này làm sao đền trả. Như
vậy, chẳng màng thân tâm, chẳng kể đêm ngày, trước giữ
thanh quy, kế kính chức sự, một khi được kêu gọi làm công
tác, liền xung phong đi trước, để người khác theo sau, mau
mắn như đi rước châu báu. Tự thẹn không có tài năng, nên
đem sức bản thân ra đóng góp, chỉ biết có công việc làm
chứ không kể đến thân, từ sáng đến chiều, ngày nào cũng
thường làm như thế. Lại nữa, thân bận rộn vì phước,
tâm tu hành vì huệ, suốt năm rất ít nói chuyện, hàng ngày
ít làm sai trái. Oai nghi tế hạnh cử chỉ hơn người. Công
phu miên mật chẳng có giờ rảnh. Niệm sanh tử thiết, khổ
hạnh càng sâu, ngày chẳng đủ thời giờ phải nối tiếp
đến đêm. Áo rách không rảnh may vá, bệnh nặng không dùng
thuốc trị. Thường nói : "Một hơi thở chẳng hít vào, thân
này thuộc về ai?". Thống thiết như thế, ngày đêm quên mệt
nhọc, chỉ lo đạo nghiệp khó thành, chẳng lo thân tâm an
toàn. Nhân cách người này làm gương mẫu cho hiện tại, là
kim chỉ nam cho đời mạt pháp. Mong người học đạo hãy bắt
chước theo, chớ nên bắt chước những kẻ giả quên mệt
nhọc, sáng siêng năng chiều lười biếng.
32.
NGHI TÌNH CHẲNG ĐẮC LỰC
Đây là bệnh
lớn của người dụng tâm, chẳng dễ gì chữa trị. Sao vậy
? Như người phạm tội nặng bị phán tử hình. Kẻ phạm
biết tánh mạng khó giữ, vội tìm cách thoát nạn. Như vậy,
chẳng sợ mất mặt, dập đầu lạy người, chẳng tiếc của
cải, cầu người đảm bảo. Lúc nào cũng bôn ba, tất cả
chẳng màng, chỉ cần cứu mạng, chẳng từ cực khổ.
Thử hỏi
: Kẻ tội phạm này còn có giờ rảnh để xem hát, vui chơi
được chăng? E rằng chậm trễ một chút tánh mạng khó giữ.
Chúng ta dụng
tâm chẳng đắc lực, nếu y theo cái thí dụ trên đây mà
làm thì cái bệnh lớn chẳng đắc lực đó có thể lập tức
trừ được. Sao vậy? Đang khi dụng tâm, phải nghĩ mình phạm
pháp sanh tử, ắt phải chịu báo, nếu trễ một chút bị
Diêm Vương bắt đi, bỏ vào chảo dầu sôi. Người phạm pháp
thế gian đang bị đuổi bắt, mình thấy rõ ràng còn có thể
lẩn trốn được, hoặc may mắn được miễn xá. Người phạm
pháp sanh tử bị đuổi bắt chẳng cho ông thấy, một phen
bị bắt rồi tức là thân tiêu, so với việc phạm pháp khác
thật là nghiêm khắc, tất khó trốn thoát. Như vậy phải
mau mau đem câu thoại đầu để ở trên tâm, quên thân quên
mạng mà tham để liễu sanh tử đi! Việc tham này buộc phải
bỏ người bỏ mình, nhanh chóng như lửa nháng điện chớp,
đắc lực hay chẳng đắc lực đều chẳng màng đến, mặc
áo ăn cơm cũng chẳng màng đến, cái chẳng màng đến cũng
chẳng màng, cứ như thế hành đi đâu còn gì chẳng đắc
lực ư!
33.
THÂN TÂM BỰC BỘI
Như người
đi xa quê hương, sống khó khăn một mình làm việc cực khổ,
chẳng những chưa dành dụm được chút tiền mà lúc bình
thường bụng cũng khó được no. Tình cảnh khổ sở như thế,
nếu chẳng làm thì không có chỗ ở, nếu làm thì đời sống
khó khăn. Suy nghĩ trăm cách cũng không giải quyết được,
buồn bực vô cùng, tiến thoái lưỡng nan. Chi bằng lấy việc
cực khổ làm vui, lấy thân đói miệng khát làm no. Thử nghĩ,
nhà giàu sang mùa đông ngồi bên bếp lửa sưởi ấm, kẻ
nghèo hèn mùa lạnh xuống nước bắt cá, người ấm mà thêm
lửa còn có cái lo sợ lạnh, kẻ mùa lạnh mà xuống nước
có cái vui của quên lạnh. So sánh như thế, thì bực bội
ở chỗ nào?
Người ở
chốn Tòng Lâm dụng công dễ sanh bực bội là tại sao? Vì
mới trụ Tòng Lâm phát thệ nguyện lớn, lập chí hướng
lớn, thề suốt đời ở chốn Tòng Lâm, hàng ngày lấy đạo
niệm làm thân, chẳng những phát nguyện trước Phật mà còn
tuyên bố với người. Nhưng một mai thân bị thiệt thòi,
quy củ vượt hơn chí nguyện, hoàn cảnh luôn luôn trái ý,
khiến sanh bực bội nên muốn thối chí. Nhưng có thệ nguyện
chứng minh, chẳng dám trái với lời thề, rốt cuộc bực
bội càng thêm. Sao chẳng tham thiền để giải muộn, tin lập
hạnh để bỏ bực bội. Càng bực bội càng khẩn thiết gia
công dồn đến chỗ thân tâm đều không mới biết ngàn Phật
muôn Tổ đều được sản xuất từ trong bực bội.
34.
TÂM THỐI LUI BỖNG NỒI DẬY
Người đã
trụ Tòng Lâm nhiều năm, tham thiền dụng công chẳng phải
một ngày, thấy người mới trụ công phu sâu và kiến giải
cao, tự nghĩ : "Mình tuổi cao hơn họ, tham thiền cũng lâu
hơn, họ đã được ngộ, mình vẫn còn mê, họ đảm nhiệm
chức thủ lãnh, còn mình vẫn là thanh chúng. Thật là hổ
thẹn biết bao!".
Lại nữa,
thấy người buông lung thì tâm phiền, thấy người lén trốn
đi thì ý động. Các thứ bức bách, đối với hạnh toàn
trái, mọi việc để trong lòng, nơi thân làm sao an tịnh? Chẳng
bằng tìm một ngôi chùa tư hoặc trụ một cái cốc nhỏ,
thân mình tự yên, ý mình tự nhàn. Nghĩ như thế rồi sanh
niệm thối lui, liền lấy hành lý muốn trốn đi mà không
dám đi cửa chánh, lại chui lỗ chó mà ra. Vừa gặp vị chức
sự trong chùa thì cứng miệng không trả lời được, liền
nói : "Xin phép đi chữa bệnh", hoặc nói : "Vì công tác mà
đi ra ngoài". Thảm trạng như thế thật đáng buồn thay!
Nếu người
thật có chí vì đạo, thiền tham đã lâu, thân tâm thuần
thục, thì đối với quy củ chẳng lưu tâm mà tự hợp, đối
với thoại đầu chẳng đề khởi mà tự tham. Công phu lão
tham như thế thì đâu cam chịu đi học ở nơi khác, cần phải
mãnh tỉnh, chớ phụ cái phát tâm ban đầu. Đường đến
nhà chẳng còn xa, thời gian thiệt thòi sắp hết. Một ngày
nào đó, ồ lên một tiếng (ngộ), chỗ nào cũng là diện
mục của ông? Còn chỗ nào để cho ông thối lui nữa?.
35.
NHẬN SỰ KHUYẾN THÆNH CỦA ĐẠI CHÚNG.
Từ khi đức
Thế Tôn mới thành Phật, quán khắp căn cơ chúng sanh thấy
không có một ai đắc độ. Phật nói : "Chánh pháp này thật
chẳng phải hạng chúng sanh đây có thể lãnh thọ", rồi tính
nhập Niết Bàn. Ngay lúc ấy, các vị cõi trời rơi lệ ân
cần khổ thỉnh xin Phật trụ thế chuyển pháp luân, cho đến
ba bốn lần, Phật mới chịu nhận lời, vì độ chúng sanh
mà lưu lại thế gian. Nhận người khuyến thỉnh, Phật, Tổ
đều có.
Vậy mà ngày
nay ở chốn Tòng Lâm có các chức sự như Đường Đầu, Ban
Thủ, Hành Đơn hoặc vì việc nhiều hoặc vì thân bệnh hoặc
vì trong ngoài bất hòa hoặc vì trên dưới nghi nhau, khi mãn
nhiệm kỳ thì muốn từ chức, làm thanh chúng cho thân an nhàn.
Thói quen như thế, xưa nay đều có. Phải biết, người được
làm thủ lãnh dù khổ thân mình nhưng cao chí mình, làm gương
mẫu cho kẻ hậu lai, làm kim chỉ nam cho người hậu học.
Nếu được chúng hết lời khuyến thỉnh ở lại, phải nên
nhận lãnh. Nghĩ đến Tòng Lâm sắp suy, xem thấy đại pháp
đang yếu, có thể chẳng đau lòng ư!
Đại chúng
lấy thiền đường làm chỗ tu huệ, ngoại liêu làm chỗ bồi
phước. Cẩn thận gìn giữ thanh quy, nghiêm trì giới hạnh,
chẳng trái lời dạy răn, chẳng phạm vào lúa mạ. Dẫu có
duyên khác cũng chẳng bằng trụ nơi thiền đường. Dẫu có
chỗ tốt cũng chẳng bằng đạo tràng. Cần phải tin lời
khuyến thỉnh, đừng nên chấp lấy cái ngu của mình, chuyển
được thân tâm thành pháp khí lớn lao, còn gì vui hơn mà
chẳng nhận!
36.
VỌNG TÂM TẠM NGHỈ
Như người
đời ngày đêm dụng tâm bận rộn công việc gia đình, chẳng
từng nói đến tâm thì đâu thể biết được sự thôi nghỉ
của nó. Người học đạo hàng ngày bị vọng lôi đi, khởi
rồi lại dừng mà chẳng biết chỗ dừng, dừng rồi lại
khởi mà chẳng biết chỗ khởi, vì chưa kịp để ý đến
chỗ nầy.
Phải biết,
vọng vốn không có nguyên nhân, như sóng đuổi theo nhau, gió
dừng thì sóng lặng, khi biển yên sóng lặng quày đầu lại
tức là giác. Người đời trong ngoài lay động, biết rồi
lại mất, thấy rồi lại dời, làm sắc làm không, hoặc ẩn
hoặc hiển, mam mác chẳng thật, nói chung đều là vọng. Đã
biết được vọng ắt phải biết chân, nay cho nhiều tâm là
vọng, một tâm là chân, đã kiến lập một tâm, ắt phải
trừ vọng. Phương pháp trừ vọng, quý ở tham thiền. Hằng
ngày có thiền thì tự có thể thôi vọng. Người xưa nói
: "Cuồng tâm nhưng nghỉ, ngưng nghỉ tức Bồ Đề", cổ nhân
ngay dưới chữ Bồ Đề quở là "thằng chết", đến đây
một tâm cũng bất khả đắc. Đã là Bồ Đề, tại sao nói
là "thằng chết "?.
Nay thử
hỏi : Các ông thích Bồ Đề hay thích thằng chết?
Nếu muốn
ngừng nghỉ vọng tâm, hãy gánh Bồ Đề đi! Muốn tiến tới
nữa thì hãy trả thằng chết lại cho ta!
Chỗ thấy
như vậy, phải hiểu như thế nào? Còn nói : "Ông hãy đem
vọng tâm ra cho ta xem, ta mới nói với ông" và đừng bắt
chước công án của nhị Tổ : "Con tìm tâm trọn chẳng thể
được. - Ta đã an tâm cho ngươi rồi".
37.
NGOÀI THÂN TẠM QUÊN
Nói ngoài
thân tạm quên, thật trái với đạo. Trong thân quên hết cũng
trái với đạo. Ở giữa còn khó rõ thì làm sao nói là trong
là ngoài! Người học đạo nếu được quên thân thì trong,
ngoài và giữa, ba cái đó còn đặt ở chỗ nào?
Tuy nhiên,
người mới dụng tâm đối với vườn tược, ruộng nương,
danh lợi, tiền của muốn chẳng để nơi lòng, không chút
động niệm cũng chẳng phải việc dễ. Còn kẻ đạo nhân
ngày nay dù đã trụ Tòng Lâm ba năm, có cơ hội gần gũi thế
tục, hoặc lấy cớ đi cúng mả, hoặc lấy cớ có việc về
quê, một phen thấy mặt thì buồn vui lẫn lộn, thật là kẻ
tục trọc đầu.
Lúc dụng
công đắc lực, việc ở ngoài thân như mặc áo, ăn cơm, đi
đại, đi tiểu không chút nhớ đến, chính là quên việc ngoài
thân. Cho đến người ta hỏi trên chánh điện thờ bao nhiêu
vị Phật, cũng chẳng thể đáp. Lại hỏi mỗi ngày đến
trai đường mấy lần, cũng chẳng biết. Phương hướng của
cửa chùa cũng chẳng rõ. Nhà cầu tiêu ai ở cũng chẳng biết.
Chính ngay lúc công phu tất cả đều chẳng lưu ý. Cái tâm
quên việc ngoài thân này chính là gần gũi với đạo. Quên
việc ngoài thân mới được thoát thế tục, dần dần trở
về đạo. Song cần phải dũng mãnh tinh tấn cho đến lúc cả
cái tâm quên cũng chợt vỡ, thân thế nghiễm nhiên, đâu còn
gì trong, ngoài nữa!
38.
CẢM THẤY THÂN KHINH AN
Người hành
đạo chẳng nên lấy cảnh ngoài thân hơi giảm bớt cho là
KHINH, lấy tướng trong tâm tạm ẩn cho là AN. Nếu cảm thấy
thân mình khinh an là điều lầm lớn vậy. Cần phải ở tại
nghi tình chân thiết, chỉ đem một câu thoại đầu để ở
trong lòng, thắc mắc nơi tâm, ngoài tâm cũng là thoại đầu,
trong tâm cũng là thoại đầu, chẳng cho gián đoạn trong khoảnh
khắc. Ngoài chẳng thấy có cảnh, trong chẳng biết có tướng,
chỉ một câu thoại đầu rõ ràng minh bạch. Ngay trên một
câu thoại đầu này chẳng huỡn chẳng gấp, thân bình khí
hòa thầm thầm tham cứu. Ngoài có sắc tướng thì thâu nhãn
thức. Ngoài có âm thanh thì thâu nhĩ thức. Thấy nghe chẳng
quan tâm, sắc thanh tự tịnh. Ngay trong lúc tham, ngoài có thấy
nghe thì thức làm sao thâu? Phương pháp thâu thức là cứ một
mạch tham đi, chẳng màng đến cái khác thì thức tự thâu.
Nếu đạt được đến chỗ tâm duyên bên ngoài chẳng thấy
một vật, cũng chẳng phải không vật, tâm duyên bên trong
chẳng thấy một niệm, cũng chẳng phải không niệm, đây
tức là trong thức không có phan duyên (đeo đuổi). Như thế
mới là chân thật khinh an, tức là trong ngoài và giữa đều
khinh an vậy. Một thân khinh an, mười phương thế giới thảy
đều khinh an.
39.
TRỤ CHỖ KHÔ TỊNH
Khô, như
cây chết, nhánh là khô héo, gió thổi chẳng lay động, không
có bóng mát. Người thích tịnh, chấp lấy chỗ tịnh, cũng
giống như cây khô vậy. Nếu cây tươi tốt, cành lá sum xuê,
gió động thì nghe có tiếng, khi bóng người hiện thì thấy
có sắc, khiến cho tai mắt không chút tịnh. Đây là chỗ người
ưa động chấp lấy.
Nếu người
lúc dụng công, đạo tâm kiên cố, nghi tình thân thiết thì
bên ngoài chẳng bị trần cảnh làm nhiễu loạn, bên trong
chẳng bị thân làm biến đổi, ở giữa chẳng bị thức trói
buộc. Trong ngoài thanh u, an nhàn tự tại. Đây tuy do công phu
làm đến song chỗ này chẳng nên trụ. Nếu trụ ở chỗ này
thì nghi tình bị tịnh cảnh che lấp, công phu ngưng nghỉ chẳng
tự biết. Lại còn tham đắm tịnh cảnh, ở chỗ rảnh rang
tự cho đó là thù thắng. Chẳng những không biết chỗ khô
tịnh là bệnh, trái lại còn cho là tốt. Thật ra là do đánh
mất nghi tình, chẳng theo động ắt trụ tịnh. Vậy người
học đạo có chí khí phải biết hổ thẹn, một phút không
có công phu phải tự thống trách, tự đánh vào mình, tự
tát vào mặt, hổ thẹn nói rằng : "Người xưa dụng công
còn không có thời giờ cắt móng tay. Ta là người gì mà tệ
thế này!". Khóc lóc thảm thiết, ở trước Phật lập thệ
: "Chẳng đến đại ngộ, dù chết cũng mang câu thoại đầu
theo. Sau khi chết cũng chẳng bỏ tham".
40.
BÀY ĐẶT BẬY BẠ
Tự bày đặt
bậy bạ là bệnh lớn đối với Thiền Tông. Người mới
vào Thiền đường thấy câu "NIỆM PHẬT LÀ AI?" liền nói
: chữ NIỆM là tâm, chữ PHẬT là giác, chữ LÀ là ta, AI chẳng
hỏi ai. Lại thấy câu CHIẾU CỐ THOẠI ĐẦU, liền nói :
CHIẾU tức là chiếu mà thường tịch, CỐ là chăm chăm không
dời, THOẠI là trước lời nói tiến thủ, ĐẦU là trên đầu
chồng thêm đầu. Bệnh bày đặt này rất sâu, thuốc của
Dược Vương cũng khó trị.
Thấy đến
cái bản bằng gỗ gọi là hương bản, tưởng là để cảnh
sách cho sự tọa hương. Thấy đến cái bản bằng trúc gọi
là trúc bề, tưởng là đồ dùng của sự đi hương. Lại
nói : chuông treo trên là thụ (dọc), bản treo dưới là hoành
(ngang), chẳng phải là "Thụ cùng tam tế, hoành biến thập
phương" sao! Còn đối với Ban Thủ thì cho rằng đó là người
cầm cái đầu của hương bản. Đối với Duy Na thì cho rằng
Duy là duy hộ, Na là na chấp. Tự mình tỷ dụ bậy bạ, bày
đặt vô lý. Thật đáng thở than!
Nếu bảo
họ ở trên câu thoại đầu tha thiết tham cứu, thì tâm họ
lập tức buồn bực, thân họ mệt mỏi, trong lòng bất an.
Nhưng nếu trụ lâu ở Thiền đường, cuối cùng sẽ có ngày
phát minh đại sự, mới biết sự bày đặt bậy bạ trước
kia tức là diệu dụng của sai biệt trí mà thôi.