THAM
THIỀN PHỔ THUYẾT
Lai
Quả Thiền Sư
Việt
Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
Từ
Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
4l.
CHUYÊN THÍCH THƠ KỆ
Tham thiền
cực khổ nhiều năm, cảm thấy công phu tự nhiên thâm nhập,
thình lình ngay nơi ngôn cú của cổ nhân có chỗ giải ngộ,
hoặc ở trên bổn phận công phu cũng có chỗ thú vị. Người
trước kia đã biết chữ nghĩa nhiều thì ngâm thơ, người
biết chữ nghĩa ít thì làm kệ.
Người biết
chữ nghĩa nhiều, thân ở chỗ thanh u, tâm đắm thiền tịch,
tình buông thả theo cảnh huyễn, nghĩa vị uyên thâm, ban ngày
lấy vịnh thơ làm nghiệp, ban đêm lấy Lý Bạch, Đỗ Phủ
làm thầy. Cho đến tọa hương thì thân lay đầu lắc, ngâm
thơ cũng có thể thành bài. Người chữ nghĩa ít, chữ nghĩa
bị tắc nghẽn thì miệng đọc rồi tâm đuổi theo, kệ mới
thành vần. Sao chẳng nghĩ thời giờ rất quý mà nỡ để
trôi suông, nhân duyên lớn được ở Thiền đường mà cũng
để luống qua vô ích. Danh hèn của thi tăng sao chẳng tránh,
nghiệp xấu của văn tăng sao lại tạo!
Người xưa
đại sự sáng tỏ, việc mình đã xong, sau đó mới quán sát
căn cơ mà lập giáo, dùng văn để tiếp hàng trí thức, dùng
thơ để tiếp người học rộng hiểu sâu. Lấy thơ văn làm
phương tiện để dẫn người nhập đạo, đều do lòng từ
bi làm lợi ích thế gian, chứ chẳng phải như bọn phù phiếm
ưa thích ý vị của văn thơ mà tự xưng là người xong việc
(đã ngộ).
42.
CHẲNG NGUYỆN TIẾN SÂU
Người hành
đạo chí chưa kiên cố, gặp sự ràng buộc hơi nhiều, chẳng
được lợi ích, chẳng nguyện tiến sâu thì có thể đúng.
Người đã được lợi ích mà chẳng chịu tiến nữa, ắt
có hai thứ chướng. Theo Thiền tông, hai thứ chướng ấy là
gì?
l. Thân chướng
là cái chướng trong thân, ngoài thân.
2. Tâm chướng
là cái chướng trong tâm, ngoài tâm.
Chướng trong
thân là lục căn khiếm khuyết, bệnh nặng dây dưa, tuổi
già sức yếu, thường sanh bệnh hoạn, chẳng chịu nổi sự
ăn uống cực khổ và sự lạnh lẽo.
Chướng ngoài
thân là các việc lớn nhỏ phiền rộn, hoặc vì việc khác
làm chướng ngại, hoặc vì thói quen từ trước lôi kéo, tuy
thân đặt nơi đạo mà bị chướng ngại nên khó tiến sâu.
Chướng trong
tâm là đạo niệm đương đi thẳng, công phu thuần tịnh,
ngẫu nhiên bị phiền não đến nhiễu loạn tâm, khiến cho
vọng tâm tương tục sanh khởi, cảm thấy khó dừng nghỉ
cho thanh tịnh.
Chướng ngoài
tâm là lúc công phu đắc lực, nghe tiếng thì chạy theo tiếng,
thấy sắc thì chạy theo sắc. Vì chẳng có thiền sâu, nên
thiền lâu cảm thấy hơi động. Tuy phát giác được động
đang nhiễu loạn nơi tâm, song vì mệt nhọc sức kém nên công
phu khó dừng được niệm, ngày lại qua ngày chẳng nguyện
tiến sâu, khó mong kiến tánh.
Nếu tất
cả chẳng màng, trong ngoài đều sạch, xả thân xông vào,
thẳng đến chỗ huyền vi thì mới biết công phu cần phải
tiến sâu mãi mãi.
43.
CÁI DỤNG ĐỀ KHỞI
Người tham
thiền dụng công đến chỗ tâm cùng lực tận, cảnh lui, thân
nhọc, chẳng những công phu khó đề mà cho đến vọng tưởng
cũng khó khởi. Nói chuyện với người, hỏi cái này thì đáp
cái kia, làm việc trong chúng thì nhớ trước quên sau, như
si như ngốc. Người không biết, cho là đạo nhân vô tâm.
Người biết thì cho đó là thiền nhân cạn cợt.
Phải biết,
công phu hành đạo cũng giống như người đi đường, nếu
một ngày siêng mười ngày lười thì ắt bị kẹt ở giữa
đường không bao giờ đến nhà được. Nếu biết giữa đường
chẳng phải chỗ an thân, chẳng cố gắng thì đâu hy vọng
được về đến nhà! Do đó đem công án saün sàng, tận sức
đề khởi khiến cho quỷ lười biếng phải giấu hình, ra
sức tham cứu cũng như người xa quê dũng mãnh lên đường
trở về nhà. Dẫu cho trời long đất lở cũng luôn luôn đề
khởi, luôn luôn tham cứu, cho đến thân quên, tâm lặng. Người
tham thiền dù mười năm lạnh băng băng nhưng có thể một
mai lửa phát dậy trong tro lạnh. Cái đạo dũng mãnh đề khởi
công ở chỗ huân tập lâu dài, mới tránh khỏi sự lầm lỗi.
44.
CÔNG NĂNG TRỪ VỌNG
Công phu trừ
vọng tưởng chẳng phải là chánh hạnh. Vậy muốn trừ vọng
phải dùng công phu gì? Nếu lấy trừ vọng làm công phu, thật
sai lầm lớn. Sao vậy? Vì đối với vọng tưởng, người
chưa liễu ngộ thì không thích, còn người đại ngộ thì
không chê.
Tại sao không
thích? Vì lúc không dụng công, tâm cảm thấy thanh nhàn, niệm
không phiều nhiễu. Công phu vừa khởi thì các vọng chạy
đến, việc buồn vui yêu ghét lăng xăng hiện tiền làm cho
nghi tình bị vọng niệm đánh mất. Nghĩ đến giận mà phát
khóc, tức nó hận mà rơi lệ, bệnh này nặng thấu xương,
chẳng trừ thì không được. Thực ra, đối với việc này
nếu giận nó là lầm vậy.
Phải biết,
vọng tưởng hay tạo sanh tử mà liễu sanh tử cũng là nó.
Vọng tưởng hay làm chúng sanh mà thành Phật cũng là nó. Vọng
tưởng hay xuống địa ngục mà lên thiên đường cũng là
nó. Sức của vọng tưởng hơn sức Phật. Công của vọng
tưởng hơn công Phật. Xin mời các Thiền sư muốn trừ vọng
tưởng hãy suy nghĩ kỹ xem! Đáp rằng : "Lời này rất đúng,
vậy phải dụng công phu như thế nào?". Mau đem cái công phu
trừ vọng tưởng đổi ra tham câu thoại đầu mới được.
45.
CÔNG NĂNG TRỪ NGỦ
Công phu trừ
ngủ này lại cũng lầm nốt. Như sáng là trời sáng, tối
là trời tối, trong lúc đi đường, ban ngày đi chẳng đủ,
tiếp tục đi luôn cả ban đêm. Lúc thức dụng công phu chẳng
đủ, tiếp tục dụng luôn cả lúc ngủ.
Phải biết,
niệm có dấy lặng, tâm có thức ngủ, chỉ lo dụng công,
chẳng lo thức ngủ. Đi đường như vậy, dụng công cũng như
vậy, cùng một cách thức, thì hai chữ TRỪ NGỦ đặt ở
chỗ nào? Nếu nói ban ngày đi đường thì vui vẻ, ban đêm
đi đường thì lo âu, toan muốn tìm cách trừ bỏ đêm tối
để thấy trời sáng, có lý này ư? Dụng công cũng vậy, thức
ngủ vốn là điều tự nhiên, người ngu thì theo cái niệm
dấy lặng, người trí thì thức ngủ đều là lúc dụng công.
Thể dụng song song, đâu thức đâu ngủ. Thể dụng bất nhị,
tức dấy tức lặng. Đừng lo lúc ngủ không có công phu, chỉ
lo lúc thức không có nghi tình. Lại, ngủ là ban đêm, thức
là ban ngày, tối sáng qua lại đâu ngại hư không, thức ngủ
thay nhau đâu quan hệ gì đến công phu tham thiền. Nếu hiểu
được như vậy thì ngủ cũng không ngại gì!
46.
LẠC ĐƯỜNG TỰ TẠI
(Lạc đường
là công phu đến thoại đầu)
Trước đã
trừ vọng tưởng, kế lại trừ hôn trầm. Công phu "lạc đường"
thân tâm tự tại, nếu cảm thấy vui mừng là lầm lớn vậy!
Như người mang gánh nặng tính về đến nhà mới buông gánh
xuống, nhưng ngặt vì thân thể mỏi mệt, sức lực kiệt
quệ cần nghỉ ngơi, nên ở giữa đường làm nhà, tự cho
là thanh cao, thích thú trụ chỗ vui đó. Nhưng đây là giữa
đường đâu phải là nhà. Muốn đi suốt con đường về nhà
đâu thể dừng lại ở đây.
Người tham
thiền cũng vậy, ban đầu ở trong trần thế hạ thủ công
phu, kế ở trong huyễn thân hạ thủ công phu, rồi ở trong
phiền não hạ thủ công phu, từ thô đến tế thâm tâm trải
qua đủ thứ cực khổ, như vậy được đến chỗ trần không,
thân tịch, tâm tịnh, ý nhàn, nhìn trước không có đường
di, nhìn sau không gì lo âu, gọi là công phu "lạc đường"
thân tâm tự tại, lầm tưởng là khỗ buông thân an trụ.
Phải biết, con đường phía trước rất lớn, lớn hơn núi
sông, căn nhà thuở xưa rất rộng, rộng hơn hư không. Hãy
bỏ nhà lá, mau lên nhà xưa. Từ đây cúi đầu đi thẳng,
chẳng chút quày đầu ngó lại, từ "đầu sào trăm thước"
(thoại đầu) tiến lên một bước liền được kiến tánh.
47.
VỌNG TỰ THỪA ĐƯƠNG
Công phu của
người tu hành đã đến thân tâm tự tại, an thân ở chỗ
vui, cho rằng không sai lầm. Nếu tiếp tục ở lâu nơi chỗ
sai lầm, đương nhiên sẽ nổi lên rất nhiều vọng kiến,
tự cho "Đại địa chỉ là con mắt của ta", "Hư không trong
nắm tay ta", "Cá dưới đáy biển thò tay bắt được", "Chim
ở trên trời gọi nó liền đến", "Tay Phật cùng tay ta đồng
nhau, mặt chó cùng mặt ta chẳng khác", "Nhướng mày là làm
Phật sự độ người. Trợn mắt là hoằng dương pháp chân
truyền của Phật, Tổ","Tằng hắng thì tiếng vang khắp mười
phương, khiến người nghe ngộ đạo. Nhổ đàm thì tự, tha
tánh không, khiến người thấy trở về chân", "Lời nói đều
là hiển tánh, nín lặng ngay đó truyền tâm". Buồn thay! Lý
luận sai lầm thật là to lớn, ý vọng thật là u mê, mà không
biết hổ thẹn! Đâu biết mình cùng với kẻ ăn xin làm bạn,
bàn luận về vàng bạc châu báu, một lát nữa đây đói khát
cũng y như cũ, vẫn phải đi từng nhà xin ăn. Thật rất là
ngu mà không tự phát giác. Vậy cần phải phấn chấn tinh
thần. Hễ còn một chút chưa liễu ngộ thì cả thân đều
sai lầm, chẳng chết trong hầm thường kiến, cũng rơi vào
hố đoạn kiến. Hãy mau đem bổn phận công phu ra sức cố
gắng đề khởi tham cứu đi, mới có thể đến chỗ không
còn lo âu.
48.
GIỚI LUẬT SAI TRÁI
Người dụng
công đã thừa đương được tự kỷ, lại có thể ngộ đến
người khác, bỗng bị người mắt sáng quở là kẻ ăn xin,
mắng là thằng ngốc. Đến đây không biết mình phải làm
sao, hoang mang không biết đường tiến thối. Muốn tiến tới
lại trở thành thối lui. Muốn thối lui lại sợ trở về
quê hương dục vọng, làm cho tiến thối lưỡng nan. Như vậy,
nghiệp cũ nổi lên thì yêu ghét rõ ràng, tâm dâm hơi động
hai má đỏ bừng, phẫn nộ bùng dậy toàn thân tím ngắt,
tự mình không biết, lại làm cho người khác sợ hãi chạy
trốn. Phải biết, đã quét tâm trần từ lâu mà tro dâm dục
vẫn còn, thường lau chùi bụi ý mà sân si chưa sạch, người
chân thật cầu đạo đến đây mới biết khi đèn sáng chiếu
khắp một căn nhà, quay đầu nhìn lại mình, vẫn là người
đen tối, mới rõ tâm thô dù hàng phục mà vọng vi tế còn
ẩn sâu, do đó tâm giới bị tổn thương, rất sanh hổ thẹn.
Từ đây chuyên tu tế hạnh, không cho mảy may ẩn giấu, tiếp
tục dụng công, vùi đầu tiến tới. Lại nghĩ :
Chẳng nổi
tâm nghiệp thì đâu biết được mình quấy. Cho nên nói :
"Bất đắc
ngư phủ dẫn, chẩm đắc kiến ba đào" (Chẳng nhờ ngư ông
dẫn, đâu thể thấy sóng to).
49.
TÂM PHÁP ĐỀU TỊCH
Người dụng
công phu, trước đã tâm pháp đi dôi, không còn đối đãi.
Đường đạo xa xôi, từ bước tiến hành, thẳng đến chỗ
đường cùng, vắng vẻ, muôn tiếng đều lặng, quày đầu
chẳng thấy thôn làng, nhìn quanh không biết xứ sở. Ngước
lên nhìn trời, trời chẳng ở trên. Cúi xuống nhìn đất,
đất chẳng ở dưới. Thấy vật như ánh sáng trong mặt trăng.
Thấy mình như ánh sáng trong mặt trời. Tương tự như thân
quang minh ngời chỗ quang minh trọn không chỗ thấy cũng không
chỗ nghe. Kiến giải như vậy rất dễ mê hoặc người. Nên
biết, trần hết thì quang minh sanh chẳng phải kỳ lạ, bụi
sạch thì ánh sáng hiện ấy là việc bình thường. Tâm và
pháp toàn ẩn chưa phải chơn liễu ngộ. Sao vậy? Tịnh niệm
hiện tiền thì tâm tự tịch, cấu trần tạm sạch thì pháp
tự quên, chớ nên vì chẳng thấy người mà vọng nói là
nhân không, chẳng thấy pháp bèn nói là pháp mất. Tâm bị
tịch làm mê, chỉ nhận cái tịch mà chẳng thấy tâm, chẳng
biết tâm vẫn tồn tại. Pháp do tịnh mà ẩn, chỉ biết cái
tịnh mà quên cái pháp, thực ra pháp đâu có mất. Cái đạo
tâm pháp đều tịch, chẳng phải là tin tức đến nhà. Người
hành đạo cần phải mãnh tỉnh, đối với cảnh giới thâm
sâu chớ nên có chút lưu luyến. Tham thiền đến chỗ không
có biệt niệm cần phải tiến thêm một buớc mới là chánh
hạnh. Bằng không, lâu ngày nhơ cấu bỗng dậy trở tay không
kịp.
50.
ĐƯỢC CHÚT ÍT CHO LÀ ĐỦ
Công phu dụng
đến lúc trần hết thì quang minh sanh, bụi sạch thì ánh sáng
hiện, day mặt khạc nhổ đều là tự kỷ, chắp tay cúi đầu
đều là Phật sự. Mặc dù mỗi bước đều đi trên đỉnh
đầu của tự tánh Phật, mỗi vật đều hiện dưới ánh
sáng mặt trời của mình, đến chỗ này chẳng muốn tiến
tới chính là được chút ít cho là đủ. Đức Thế Tôn quở
hàng Duyên Giác, Thanh Văn rằng trên chẳng học Phật thừa,
dưới chẳng độ chúng sanh, tiêu dao ngoài tam giới, tự cho
giữa đường là nhà ở, chẳng chịu bỏ Hóa thành để đi
đến Bảo sở, trụ nơi Niết Bàn Tiểu Thừa, cam làm hạt
giống cháy mà chẳng tự phát giác. Sao ngu vậy!
Thử xem :
Phật quở La Hán được chút ít cho là đủ, La Hán còn có
mười tám thứ thần thông, có thể hiện ở hư không, ẩn
dưới đất, hiện ở trong nước, ẩn trong lửa, trên đầu
phun nước, dưới chân phun lửa, cộng chung mười tám thần
thông mà còn bị nói là "phần ít"! Bị quở trách nặng là
trên không có Phật đạo để thành, dưới không có chúng
sanh để độ, tự hưởng an lạc, chẳng cầu tiến lên, chán
các khổ, chẳng nguyện độ chúng sanh, cho nên nói : "chẳng
đủ".
Huống chi
chúng ta còn là pham phu, thiền tham chưa thông, đạo chưa tiến
sâu, dẫu cho có nhập chút ít nhưng chưa đến cùng tột lại
tự ngưng tu. Vậy được chút ít cho là đủ há chẳng hổ
thẹn trong hổ thẹn ư? Hãy mau đem cái công của được chút
ít đó buông xuống đi, cái đạo của chẳng đủ đó hành
lại đi, thì sự lớn lao của tiền đồ, sau này sẽ tự biết.
5l.
KHỞI TÂM DỤNG
Đã nhập
thiền sâu, tâm pháp đều tịnh, trọn không trở ngại, làm
không chỗ làm, muốn dụng tâm nữa lại sợ khó tiến bộ.
Chẳng nghĩ tâm dụng công tham thiền chính là pháp tham thoại
đầu. Pháp ấy, do nhiều đến một, do một đến chuyên. Tâm
ấy, từ loạn đến định, từ định đến thiền. Pháp với
tham đều hết, tâm với thiền đều tiêu, còn muốn khởi
tu nữa, chính là trên đầu lại chồng thêm đầu. Một chữ
DỤNG từ đâu hạ thủ?
Như người
dụng công hiện nay biết được kẻ nghe tiếng trước mắt,
kẻ thấy sắc trước mắt, cho là người chân thật bản lai
(tự tánh) là sai lầm lớn. Vì một cử một chỉ nếu không
có niệm thì không thể động, vì có nói mới có nín đều
là tác dụng của vọng tâm, chẳng phải là vọng tâm không
sanh khởi. Ấy là cái kiến chấp của tâm đã thâm sâu. Thực
ra, bất cứ cử động nào cũng đều từ tâm sanh khởi, nếu
chẳng do tâm thì làm sao có lý sanh khởi này? Những việc
kể trên đều là tương đối, có tương đối đều thuộc
về kiến chấp, có kiến chấp thì làm sao dụng công? Như
thế, một bậc nhân tài rất tốt cam làm kẻ lỗ mãng. Cần
phải mau đem tất cả những kiến chấp trước kia từ trong
xương tủy nhổ ra, trừ sạch, diệt hết, rồi lại như người
sơ học dụng tâm (giữ nghi tình) cho nó (cái biết của bộ
óc) chết đi ba mươi năm rồi hãy trở lại gặp ta nói chuyện
Phật pháp.
52.
HỮU TÂM DỤNG
Do trước
dụng tâm, không có gì để mò nắm, sau thêm tham cứu hình
như khó vào cửa, cho nên lập chí bắt chước người sơ tham
làm lại từ đầu như người mới học. Lúc ấy dụng công
so với lúc sơ tham khó hơn gấp bội, vì trước kia chưa tham,
thân tâm thô phù, chỉ là cái cảnh động trước mắt. Nay
đã tham lâu năm rồi, tâm pháp đều tịch, lại thêm một
lớp tịnh cảnh, do đó lúc dụng công phải lưu tâm nơi động
tịnh, phòng ngừa khi chưa phát sanh. Dù là thượng điện quả
đường cũng có tâm tham cứu, mặc áo ăn cơm cũng dụng ý
kiên trì, đi đường cũng khẩn thiết đề khởi, nói chuyện
cũng lưu tâm vì sợ bị đánh mất, toan nằm xuống thiền
sàng, lấy công phu làm mền, sáng sớm thức dậy, lấy nghi
tình làm áo, dùng câu thoại đầu rửa mặt, đem câu thoại
đầu uống trà. Nơi nào cũng có tâm dụng công, ngày nào cũng
không có lúc ngưng nghỉ. Ngày kia đập vỡ khối nghi, chẳng
những chẳng tham đắm tiểu ngộ mà đại ngộ cũng chẳng
chịu trụ. Người hữu tâm dụng cần phải có tâm này.
53.
TÁN TÂM DỤNG
Tán tâm dụng
này chẳng phải là tâm tán loạn của người sơ tham dụng.
Người tu hành cần phải kỹ lưỡng. Tuy sơ tham với lão tham
có khác mà tán loạn vốn đồng, chỉ khác ở chỗ khéo dụng
hay chẳng khéo dụng mà thôi.
Sơ tham dụng
công, dụng thì có tâm dụng, tán thì không có tâm dụng. Tâm
dụng đã không thì công phu làm sao có được, đây gọi là
sơ tham. Công phu lão tham, dụng chẳng phải không, nhưng tán
cũng vẫn có. Tán tâm đã có thì hữu tâm có thêm, đây gọi
là lão tham.
Xét kỹ tán
tâm chẳng ra ngoài hai thứ :
l. Tâm nghiệp
thức thuần thục.
2. Tâm công
phu thuần thục.
Tâm nghiệp
thức thuần thục là tâm tán ở nơi nghiệp thức. Tâm công
phu thuần thục là tâm tán ở trên công phu. Tâm tán ở nơi
nghiệp thức thì tâm ấy khó thu nhiếp. Tâm tán ở trên công
phu thì tâm ấy dễ thu nhiếp. Đem câu thoại đầu, một miệng
cắn chặt, một chân đè cứng, một tay nắm đứng, nhất
tâm ghi nhớ, muôn ngàn sai khác đồng thời tiêu hết, muôn
ngàn nhánh lá quét một chổi hoàn toàn sạch trơn. Quý ở
chỗ tham cứu thâm sâu chứ không tham luyến công phu đắc
lực, một phen ló đầu ra (ngộ) thì hiện bậc đại nhân
(tự tánh).
54.
NẮM GIỮ DỤNG
Dụng công
từ tán tâm đến nhất tâm, bỗng từ nhất tâm đổi ra tán
loạn, vì không nắm giữ được.
Như người
nuôi rắn, ban ngày đem đồ ăn cho nó ăn, ban đêm đem giường
cho nó nằm, muốn cho nó tạm ở yên một chỗ cũng chẳng
được. Vì rắn saün có tánh động, chẳng động chẳng được.
Khi đi thì cùng tánh đi, khi ở thì cùng tánh ở, khi ngồi
thì cùng tánh ngồi, khi nằm thì cùng tánh nằm, dẫu đánh
chết vẫn e khó làm cho không động được. Cần phải bắt
lại, nắm giữ nó thật chặt mới miễn cưỡng ngưng lại
được, dù cho qua lại ra vào cũng chẳng rời chỗ nắm. Cái
dụ
nắm giữ này, với cái nắm giữ dụng công cũng giống như
vậy.
Phải biết,
tâm của dụng công còn độc hơn nọc rắn, nó có thể hại
người xuống địa ngục, có thể hại người thành Phật,
Tổ, có thể hại người trồng gốc phàm, có thể hại người
gieo giống Thánh, có thể hại người liễu sanh tữ, có thể
hại người chứng Niết Bàn (xem lược giải). Cái hại của
rắn rất lớn, cái độc của rắn rất sâu, nay đã bị ta
nắm chặt trong tay, thề rằng : "Mi sống ta sống, mi chết
ta chết, chẳng phải mi độc làm chết ta, mà là ta nắm chết
mi". Một mai rắn chết, người mất, mới biết kẻ nắm giữ
vốn là cái này (tự tánh). Hê! Chớ nên nhận lầm!
Lược giải
: Phật, Tổ là đối vớ chúng sanh, Thánh là đối với phàm,
Niết Bàn và đối với sanh tử, đều là tương đối, tương
đối là nhị, ấy là nghịch với tự tánh vốn bất nhị
cho nên nói bị hại.
55.
ĐẮC LỰC DỤNG
Được nắm
giữ dụng, đi đứng ngồi nằm ngày đêm không có gián đoạn.
Dù biết câu thoại đầu công phu sâu nhưng chẳng biết hết
được sự thọ dụng và chẳng biết đắc lực hay không?
Công phu như thế nào, nay cần phải xét kỹ xem!
Như thân
ngồi ngay thẳng, nghi tình tự khởi, vọng tưởng chẳng thể
đến gần, hôn trầm cũng tránh xa, đây là công phu đắc lực.
Lúc đi hương, trong tâm nghi tình dù chẳng thân thiết song
chánh niệm vẫn còn, nghi tình niệm niệm chẳng gián đoạn,
là đắc lực. Lúc cùng người nói chuyện, trước động cái
niệm dụng công, sau mới động cái niệm nhân sự, là đắc
lực. Lúc ăn cơm, niệm của công phu ở trước, niệm của
cầm bát ở sau, là đắc lực. Lúc ngủ, trước tiên biết
có công phu, chẳng biết có mùng mền, là đắc lực. Làm mọi
việc, biết được cái niệm công phu ở trước, cái niệm
làm việc ở sau, dù như thế cũng chỉ là đắc lực được
một nửa. Nếu người thật đắc lực thì động tịnh, nhàn
vội, thức ngủ, nói nín đều có công phu, cùng với việc
làm không trái, cũng không có trước sau, cũng không uổng phí
một chút thời giờ, đây là bằng chứng vững chắc của
công phu đắc lực.
Người chẳng
đắc lực, ban đầu nghi tình được miên mật, bỗng nghe tiếng
động hoặc nói chuyện với người liền bị âm thanh và người
lôi kéo đi mất, mất rồi không biết đã qua bao lâu quày
đầu tự hỏi : "Công phu miên mật ở chỗ đắc lực dụng,
rốt cuộc bị ngoại cảnh lôi đi". Xét kỹ như thế mới
biết là chẳng đắc lực. Câu thoại đầu vừa đề lên,
ngay đó chẳng nghe tiếng, chẳng thấy sắc, bỗng gặp gỡ
người quen, chỉ biết nói chuyện nhà, chẳng còn nhớ đến
công phu.
Buồn thay!
Người dụng công nên lấy chỗ đắc lực làm pháp thực hành
mới được.
56.
PHÓNG TÂM DỤNG
Công phu dù
có đắc lực, song chưa dám buông tay đi thẳng. Sao vậy ? Như
công phu thân thiết, khi làm việc sinh sống, một mặt lưu
tâm công phu, một mặt lưu tâm làm việc. Nếu việc làm chẳng
tốt sợ bị quở trách hoặc đánh hét, trong tâm bất an. Cho
nên tạm buông công phu trong giờ khắc làm việc, đợi việc
làm xong mới đề lại công phu, há chẳng lợi ích cả hai
ư! Nếu người thật nghĩ đến liễu thoát sanh tử thì chẳng
phải như vậy. Vì sao? Chúng ta vì liễu sanh tử mà tham thiền,
chứ chẳng phải vì làm việc mà tham thiền. Sanh tử chẳng
liễu thoát thì bị sanh tử làm chướng, khi đang dụng công
tùy thuận sanh tử luân hồi chẳng có kỳ hạn.
Nay cần phải
lập thệ : "Quyết thống thiết dụng tâm, không chút ỷ lại,
thân thân thiết thiết, miên miên mật mật, gặp lúc làm việc,
công phu càng thêm mật thiết. Dẫu cho việc làm không tốt,
bị đánh bị mắng thì được, buông công phu thì không được.
Ngày đêm tinh tấn, thề chẳng thay đổi, đem tâm đặt ở
trên công phu mà dụng. Thân đến chỗ nào thì dụng cũng theo
đến chỗ đó. Khi động, tịnh, nhàn, vội thì ở trong động,
tịnh, nhàn, vội dụng công phu. Khi thấy sắc, nghe tiếng thì
ở trong thấy sắc, nghe tiếng dụng công phu. Khi nói chuyện,
ăn cơm thì ở trong nói chuyện, ăn cơm dụng công phu. Đây
gọi là phóng tâm dụng.