THAM
THIỀN PHỔ THUYẾT
Lai
Quả Thiền Sư
Việt
Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
Từ
Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
57.
THÂN THIẾT DỤNG
Nhân vì trước
dụng công nắm giữ đắc lực, dù có thể phóng tâm dụng,
song còn chưa tránh khỏi gặp đâu thì chướng ngại đó. Cái
tâm của dụng tâm duyên theo một tướng, dù chẳng bị lôi
mất, nhưng có thể bị tướng ấy kích động hoặc làm ngăn
cách, đâu bằng tịnh cũng như vậy, động cũng như vậy,
sắc cũng như vậy, không cũng như vậy. Dầu cho sự vật lớn
cũng chẳng thể ngăn cách, nhân sự quen cũng chẳng thể ngăn
cách, tiếng của âm thanh, động của tâm, biến đổi, sống
chết của thân, cho đến thức ngủ, khen chê đều chẳng thể
ngăn cách, luôn cả cái chẳng thể ngăn cách cũng chẳng ngăn
cách, chính cái ngăn cách ấy cũng chẳng thể ngăn cách.
Thế giới,
thân, tâm, còn mất, mộng mị đều chẳng ngăn cách gọi là
THÂN, chân thật làm được gọi là THIẾT. Hai chữ THÂN THIẾT,
người chưa liễu ngộ nên theo đó thực hành, còn người
dụng công đã đến cùng tột thì phải diệt trừ cho sạch.
Sao vậy? Phải biết, người hành đạo nếu công phu cạn mà
thường quên, ấy là chưa hành đến chỗ sâu, thì phải nhờ
hai chữ này để hạ thủ công phu mới dễ nhập đạo. Nếu
công phu đã đến thoại đầu thì thân thiết hay không thân
thiết đều không màng đến mới có thể đi đến kiến tánh.
Việc này trong quá trình dụng công cần phải lưu ý.
58.
GIÁN ĐOẠN DỤNG
Công phu dù
rất thân thiết, song cũng có lúc gián đoạn mà chẳng tự
biết. Vì sao? Chính ngay lúc dụng tâm biết được thanh tịnh
tự tại, hoặc biết được rỗng rang an nhàn, hoặc biết
nghi tình đắc lực hay chẳng đắc lực, biết chỗ đắc lực
là chỗ nào, chỗ chẳng đắc lực là chỗ nào, cũng gọi
là gián đoạn. Ngay trên câu thoại đầu tham cứu, biết tham
đến chỗ tịnh, tham đến chỗ sáng sủa hoặc tham hiện ra
tướng Phật, bảo tháp, núi sông, đất đai, nam nữ, già trẻ,
mình người, tất cả đều gọi là gián đoạn.
Sự gián
đoạn trên khác hẳn với công phu của người sơ tham. Người
sơ tham, đề thì có tham, quên thì hoàn toàn quên, chẳng biết
quên ở chỗ nào.
Còn người
lão tham, có lúc trong miệng nói chuyện, tâm biết tham thiền,
có lúc tâm đang tham thiền, miệng biết nói chuyện. Hoặc
thân làm việc, công phu vẫn còn, hoặc lúc dụng công, thân
vẫn làm việc. Hoặc công phu với làm việc đều quên, hoặc
công phu với làm việc đồng làm. Hoặc lúc ngủ, công phu
thân thiết chẳng biết là mộng, đến khi thức giấc mới
biết. Hoặc lúc mộng, trước thấy việc khác, sau thấy dụng
công phu, do thiền mà tỉnh. Hoặc đang ngủ không công phu,
không mộng tưởng giống như ban ngày. Ấy đều là sự gián
đoạn của người lão tham.
Người tham
thiền phải khéo tự dụng tâm mới được.
59.
THÔ TÂM DỤNG
Tâm có định
loạn, thiền có đắc thất, sự gián đoạn đều do thô tâm
này gây ra.
Thô tâm là
gì? Như gói nhiều đậu nành trong bao, dù để ở đâu, bên
trong ắt cũng lỏng lẻo, hễ mở bao ra thì đổ vãi đầy
đất. Nếu đem bao đậu ngâm nước, đậu nẩy mầm nở ra
thì làm bao bị bể. Dụ như thô tâm duyên cảnh, tâm cảnh
đồng thô, dù thu lại thành một khối, cũng chưa quên các
thức. Hơi có chút giãi đãi thì thân tâm tán loạn, nghi tình
tiêu mất, tâm thiền cũng tan.
Nếu đem
dậu trong bao xay nát hòa với nước nhồi thành một khối,
ắt từ bên trong bỏ được đậu, bên ngoài diệt được
mầm, chẳng còn sanh ra đậu nữa. Cũng như vậy, các vọng
lăng xăng thu về một niệm, ngay ở trên niệm ấy, dùng sức
của câu thoại đầu tham cứu quét sạch hết trần lao, cặn
cáu chẳng còn, tham thành một khối, ắt từ bên trong khử
vọng, bên ngoài khử trần, tự chẳng phát sanh thô tâm vậy.
60.
MIÊN MẬT DỤNG
Công phu gián
đoạn ở trước rõ ràng là do thô tâm làm thành. Đã nói
là thô tâm thì cần phải tiến thêm một bước nữa. Công
phu miên mật, miên như sợi tơ, mật như vải bố. Do một
sợi tơ mà thành miên, từ một đường chỉ mà thành mật.
Công phu do một pháp mà thành phiến, từ một niệm mà thành
khối.
Cũng như
đem tơ dệt thành vải bố, sợi dệt dày (MIÊN) chẳng thông
gió tức là xuất thế vô lậu, như vải bố dệt kín (MẬT)
chẳng lọt mưa tức là thế giới vô lậu. Nếu tham được
đến chỗ pháp thế gian và pháp xuất thế gian cùng câu thoại
đầu đồng một pháp, tâm thế gian và tâm xuất thế gian
cùng câu thoại đầu đồng một tâm, là cái đạo MIÊN MẬT
sâu vậy.
Người làm
được công phu miên mật thì quy củ thuần thục, oai nghi nghiêm
túc, cử chỉ đoan chánh, ngữ ngôn giản thiểu, người đời
đều tôn là Thượng Tọa.
Xin gửi lời
nói với người tham thiền rằng : Chớ nghi tham thiền có nhiều
chỗ khó, chỗ vi tế của tham thiền làm cho người ta sợ
thế này thế nọ. Than ôi! Nếu có thể như con tằm nhả tơ,
bắt đầu từ một sợi cho đến cuối cùng làm thành một
kén, khoảng giữa không có gián đoạn, đó là công phu miên
mật rõ ràng. Bằng không, há người chẳng bằng vật ư!
6l.
CHẲNG GIÁN ĐOẠN DỤNG
Gián đoạn
đều là thô tâm. Do miên mật mà thành chẳng gián đoạn.
Đó là quá
trình dụng công.
Công phu dụng
đến chỗ ngoài không có trần cảnh để quên, trong không
có thân tâm để giữ. Một câu thoại đầu quên ngày tháng,
tuyệt sớm chiều. Từ công phu mà ngủ, từ công phu mà dậy,
mộng cũng từ công phu mà thức tỉnh, đây gọi là chẳng
gián đoạn.
Người công
phu đến chỗ chẳng gián đoạn thì Long Thiên chẳng thấy
thân họ, Quỷ Thần chẳng thấy tướng họ. Họ không nghe
như người điếc, không thấy như người mù, nghe tiếng mắng
mà chẳng biết duyên cớ, bị đánh đập mà chẳng biết đau
đớn. Thoại đầu làm cho giận hờn chạy mất, nghi tình làm
cho yêu ghét trốn mất. Bất cứ cái gì hiện trước mắt
đều chẳng màng đến. Dù Phật cùng ngồi với họ, họ cũng
quên đó là Phật. Phật ma đều chém, phàm thánh đều hất
bỏ. Người đầu đồng trán sắt thấy được thì đầu trán
cũng bị vỡ, người ba đầu sáu tai nghe được thì tâm ý
cũng thành tro. Công phu chẳng gián đoạn thật có sự thần
diệu như thế.
62.
TẾ TÂN DỤNG
Công phu chẳng
gián đoạn, đầu tiên thần diệu, kế đó toàn chân, dù nói
phi phàm song vẫn còn nhiều thô.
Nay nói tế
tâm dụng, tất cả pháp dụng tâm trước kia như ném đại
địa ra ngoài hư không, như một chổi quét sách bụi bậm
khắp thế giới. Ngước lên chẳng thấy hư không, cúi xuống
chẳng thấy đại địa. Công phu của tế tâm có sức như
thế, người mộ đạo sao chẳng làm thử!
Người sơ
tham thường khi có thô niệm chưa dừng, lúc ấy đối với
công phu tế tâm, miễn cưỡng dụng lưu tâm tế, hữu tâm
tế, đè nén tế, tạo tác tế. Các tế dụng này đều do
toàn thô làm thành. Do thô mà thành thì chẳng phải tế, là
chọi với cái chân tế.
Cái tế của
người lão tham thì quên thô quên tế, tế đó lại thêm tế.
Mặc dù nói
tế mà chẳng gọi là chân tế, vì chân tế tức là vô tế
vậy. Người xưa nói : "Một niệm bất giác sanh tam tế, cảnh
giới làm duyên sanh lục thô" là nghĩa này vậy. Cũng như đem
đại địa chia làm bốn phần, bỏ ba phần còn lại một phần,
rồi lại chia phần này làm bốn, bỏ ba phần còn lại một,
cứ thế tiếp tục chia mãi cho đến thành lân-hư-trần, các
trần kia thảy đều bỏ hết. Lân-hư-trần này tức là tế
tâm vậy. Cái tế của tế tâm đâu thể tỷ dụ, chỉ khi
công phu dụng đến chỗ này mới biết lời tôi chẳng sai.
63.
LÌA PHÁP DỤNG
Trước dụng
công phu tế tâm còn có một lân-hư-trần, đến đây phải
lìa nó, cho nên gọi là lìa pháp dụng. Pháp này tức là pháp
tham thoại đầu, tại sao phải lìa nó? Vì tâm tức là pháp,
pháp tức là tâm. Ban đầu thì tâm pháp khó được nhất như,
kế thì tâm pháp được nhất như. Nay tâm pháp chẳng được
nhất như, là vì câu thoại đầu còn lạ. Ra sức tham cứu,
từ lạ thành quen, cứ đi thẳng đến chỗ cùng tột cội
nguồn, đường về quê cũ sẽ chẳng còn xa. Do đây, dụng
pháp của tự tâm, chẳng dụng pháp khác. Nói lìa pháp là
lìa cái pháp ở ngoài câu thoại đầu (lân-hư-trần), chứ
chẳng phải lìa câu thoại đầu. Như tự mình không có tiền,
phải mượn tiền người khác dùng, tự mình đã có tiền,
phải dùng tiền của mình. Cho nên lìa pháp bên ngoài, dùng
pháp tự tâm (pháp thoại đầu), chứ chẳng phải lìa pháp
mà không có pháp để dùng. Đến đây dù pháp quên mà người
chưa quên. Pháp tức là thiền tham, người tức là tâm tham.
Chẳng nhờ pháp tham cứu, chỉ dùng tâm tham cứu. Tham thẳng
chẳng ngừng, chẳng chút tạm trụ. Khi ấy, Diêm La thấy liền
chắp tay, Quỷ Thần thấy bèn quy y. Ngàn Thánh muôn Hiền đều
đi đường này mà thành tựu. Công năng của quên pháp làm
kinh hãi trời đất, ai chẳng hâm mộ!
64.
VÔ TÂM DỤNG
Người xưa
nói : "Hữu tâm dụng đến chỗ vô tâm, vô tâm còn cách một
lớp rào". Trước lúc vô tâm thì mưa gió sấm chớp đều
ở trong hư không. Sau khi vô tâm thì gạch ngói sỏi đá đều
quy về đại địa, đây gọi là chân vô tâm.
Nói vô tâm,
chẳng phải không có tự tâm, cũng chẳng phải không có đạo
tâm, chỉ là không có tâm muốn thành Phật làm Tổ, không
có tâm muốn minh tâm kiến tánh, không có tâm thế gian, xuất
thế gian, không có tâm yêu ghét lấy bỏ, không có tâm thế
pháp, Phật pháp, không có tâm hữu vi, vô tri, không có hai
tâm, không có một tâm, tức là chỉ cái vô tâm dụng này,
cũng là chỗ Thiền Tông nói "lìa tâm ý thức tham" vậy.
Cái công
của vô tâm có trước khi Phật chưa thành, trước khi chúng
sanh chưa sanh. Đạo vô tâm này là pháp Thiền trực tiếp truyền
từ Phật Thích Ca, có thể khiến cho người gỗ nhảy múa,
hổ đá nuốt dê, ẩn thân trong bầy trâu đất, cướp thức
ăn trong động rắn sắt. Dẫu cho muôn Tổ đồng thanh ngợi
khen đạo nhân vô tâm này, mà ngàn Phật ra đời cũng khó
thấy được.
65.
CHÂN TÂM DỤNG
Chân tâm
cùng với giả tâm đều đồng một dụng. Tối sơ (ban đầu)
dụng công đến tối hậu (cuối cùng) dụng công không có
một chút thay đổi. Nên cái pháp sơ hậu đồng nhau, cái tâm
sơ hậu chẳng khác, cái dụng sơ hậu cũng vậy. Như người
đi đường vạn dặm, bước đầu tiên lên đường và bước
cuối cùng đến nhà đều dùng chân đi, chẳng dùng cái khác,
thế nên nói sơ hậu đồng nhau. Chẳng qua người căn khí
lớn thì một bước đến nhà, dọc đường không bị trở
ngại, niệm trước có thể nói là phàm phu, niệm sau có thể
nói là bậc thánh. Sự sai biệt của thánh phàm chỉ cách một
niệm, đâu nhọc đi xa, đây là thượng căn.
Người căn
hơi cạn, sức tin nếu mạnh, tối sơ ôm chặt một câu thoại
đầu dù chết chẳng buông, cho đến chỗ tối hậu dụng tâm,
dọc đường bị chướng ngại đều không màng đến, đây
là trung căn.
Người căn
nhỏ hơn nữa, đầu tiên từ trên câu thoại đầu dụng tâm,
gặp việc bị trở ngại, cử chỉ trái phạm, biến đổi
như gió mây, thay đổi như trời tạnh chuyển mưa, lúc tiến
lúc thoái, mất hết ngày giờ. Dù cho ra sức tiến tới, sau
cùng đến chỗ đầu sào trăm thước còn dễ, tiến thêm một
bước nữa thì khó. Người tử thủ chỗ này xưa nay rất
nhiều.
Chân nghi,
nghi là nhân của ngộ, ngộ là quả của nghi. Nhân tiểu nghi
khai quả tiểu ngộ. Nhân đại nghi khai quả đại ngộ. Nhân
chân nghi khai quả chánh ngộ. Nhân chẳng nghi cảm quả chẳng
ngộ. Người phát chân nghi, lúc nghi giống như đi ngồi bất
an, không ăn mà quên đói, không tỉnh mà quên ngủ, ngoài như
ngu ngốc, trong như người si. Lúc thời tiết đến (đại ngộ),
kinh thiên động địa, cùng Phật, Tổ sánh vai, cùng chúng
sanh bình đẳng, há chẳng vui ư!
66.
CHUYỂN THÂN DỤNG
Như từ đất
bằng đi lên núi cao, ngay lúc động chân, bùn đất dính giày,
thân thể nhơ nhớp. Người sức tin đầy đủ chẳng màng
đến thân. Người sức tin hơi yếu rửa sạch rồi mới đi.
Lúc đi đường qua hầm qua hố, bị gai gốc, sỏi đá ngăn
trở giữa đường, cất bước khó khăn. Đói khát bức ngặt,
cô độc không có bạn bè, trông xa núi cao chót vót mà khiếp
đảm chân run. Sức đi đường bằng không nhiều, tâm muốn
lên cao lại yếu. Đi lâu ngày đến chân núi, bị cọp sói
rắn beo đón đường làm cho kinh sợ. Bước từng bước một,
tay chẳng thể buông, chân lại bước nhanh, có người ở giữa
đường dừng nghỉ, có người đi thẳng lên trên, hễ gặp
tảng đá chặn đường, đường đi chật hẹp, hễ tay buông
thì thân lăn xuống đất bằng. Than ôi! Đau đớn thay! Trở
lại y như cũ, uổng chịu cực khổ mà không tiến được
bước nào. Nghĩ đến mà chẳng đau lòng ư! Dù là bước lại
dấu cũ cũng rất khó vậy.
Nếu có thể
một phen dũng mãnh lên núi thẳng đến chót đảnh, nhìn ra
bốn phương không có đường đi, đây gọi là :
"Người ngồi
tại đầu sào trăm thước,
Mặc
dù được nhập chưa phải chân"
Tự nghĩ
: Ở lại lâu thì không thể được, ẩn giấu thân cũng không
có chỗ, tiến thêm một bước nữa, ngay đó thừa đương,
đây gọi là :
"Đầu
sào trăm thước tiến bước nữa
Mười
phương thế giới hiện toàn thân"
Lại như
mang thai đủ tháng, đến lúc lâm bồn, ồ lên một tiếng
(NGỘ) như thùng sơn lủng đáy. Lỗ mũi trước khi chưa sanh
cùng diện mục sau khi đã sanh cách nhau chẳng xa. Ngay đây
chuyển thân rồi, rất cần lưu ý. Khi chưa chuyển thân là
phàm phu, đã chuyển thân rồi thành bậc thánh. Dẫu cho đổi
phàm thành thánh nhưng vốn là chính mình, chẳng phải người
khác.
Hê!
Trên đầu còn thiếu ba mươi gậy!
67.
ĐỔNG THỂ ĐẠI BI
Trước khi
chưa ngộ cùng là phàm phu mà không biết, sau khi đã ngộ mới
biết là chúng sanh. Như Đức Thế Tôn thấy sao mai mọc ngộ
đạo, ba lần than rằng : "Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều
có trí huệ đức tướng Như Lai, đều do vọng tường chấp
trước mà chẳng thể chứng đắc"! Rồi ngài tuân theo nguyên
tắc độ sanh của chư Phật quá khứ, việc mình đã xong,
lấy hoằng pháp lợi sanh làm sư nghiệp.
Ngoài ra không
có việc ước mong hàng Bố Tát từ sơ địa đến thập địa
quét sạch vô minh, người trong quả La Hán mau hết tập khí,
các vị Thiên Vương bỏ thú vui mà cầu ngộ đạo, các loài
Tu La bỏ sân hận mà phát thiện tâm. Xin thỉnh tứ thánh,
chư Thiên bát bộ hải chúng, tôi cùng nọi người đồng chung
một thể phát tâm đại bi cứu khổ chúng sanh gấo chớ để
huỡn.
Lại xin đồng
học đại nguyện của chư Phật, hư-không-giới-tận, chúng-sanh-giới
không, tâm độ chúng sanh của tôi không có cùng tận. Nếu
còn một chúng sanh chưa thành Phật, bi nguyện này của tôi
bằng số chúng sanh chưa thành sanh vô biên, nguyện của tôi
vô biên. Dù thường đi trong lục đạo, qua lại trong bốn
loài, một ngày còn chúng sanh là một ngày còn nguyện của
tôi. Xin thỉnh mười phương đại đức sao không vui lòng lái
thuyền đại nguyện, cùng dạo biển chúng sanh, há chẳng vui
ư!
68.
THAY CHÚNG SANH CHỊU KHỒ
Kinh Phạm
võng nói : "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ
là mẹ ta". Đâu chẳng lo hiếu dưỡng, phải nên thay thế
chịu khổ. Đã là cha mẹ, sao lại gọi là chúng sanh.
Phải biết,
hai chữ "chúng sanh" là đương nhiện để cho Phật, Bồ Tát
gọi. Chúng ta gọi "chúng sanh" dường như chẳng cung kính,
vì chúng sanh đều là cha mẹ quá khứ là chư Phật vị lai>
Từ nay, về sau, có ngưới đánh ta là cha mẹ quá khứ đánh
ta, có người mắng ta là chư Phật vị lai mắng ta. Ta thấy
người gánh không nổi cái gánh nặng, ta mau đến gánh giúp.
Thấy người đẩy xe không nổ, ta mau đến đẩy giúp. Thấy
người giết heo de gà chó, ta khuyên người sát sanh hãy dừng
tay. Nếu họ chẳng, dừng ta có tiền thì chuộc con vật, nếu
không tiền thì khuyên họ. Khuyên chẳng được thì dùng tâm
cung kính quy y cho con vật, tìm mọi phương tiện để cứu
độ. Thấy người té xuống soông, mau đem thuyền bè cứu
vớt. thấy người gặp tai nạn mau đem tiền giúp đỡ. Thấy
trâu ngựa heo dê, lấy bi tâm truyền giới quy y cho chúng. Thấy
con trùng con kiến, mau dùng tâm thống thiết quy y cho chúng.
Thấy người phỉ báng Tam Bảo thì dùng lời lành an ủi họ.
Thấy người khinh khi Tăng Ni, liền hết sức khuyên giải họ.
Lại phát đại nguyện thay người địa ngục để họ thoát
khổ sanh lên trời, người, thay thế ngạ quỷ để chúng hết
đói được no, thay thế mọi người chịu khổ để họ được
vui. Đây gọi là thay thế chúng sanh chịu khổ.
69.
ĐẠI TỪ TẠO VUI
Phải biết
một người dù có làm hết sức mình cũng chẳng dễ gì thực
hiện được sự an vui trọn vẹn cho loài người. Sao vậy?
Vì gốc của sự an vui chẳng ra ngoài hai con đường đạo
và đức. Ngoài đạo đức thì không có biện pháp nào khác.
Đạo là lìa sự chống trái của đời. Đức là cảm được
người sùng kính tin cậy. Người đủ đạo đức thì đối
với người đời bất cứ lúc nào tâm cũng vô trụ (không
bị dính mắc), nên gặp gì cũng vui.
Lại nữa,
nghèo lấy tiền của làm vui, bệnh lấy mạnh làm vui, không
có con lấy sanh con làm vui, đắm chìm lấy ra khỏi nước làm
vui, bị tù đày lấy ra khỏi ngục làm vui, đói khát lấy
no nê làm vui, xuất gia lấy ngộ đạo làm vui, khổ lấy hết
khổ làm vui. Đây là nhu cầu của con người ở thế gian,
thật chẳng dễ gì có được cái vui lớn!
Nếu người
được chí chân thường lạc, đối với tất cả người thế
gian khiến cho bỏ ác làm thiện, tránh sự xảo trá giết hại,
cứu giúp kẻ bệnh nghèo, cúng dường Tam Bảo.... Đây là
khéo tạo vui cho người vậy.
70.
XÓT THƯƠNG CHÚNG KHỒ
Bậc La Hán
và Bồ Tát từ sơ địa đến thập địa còn có cái khổ
của sanh tử biến dịch, tất cả Chư Thiên có cái khổ của
năm tướng suy, A Tu La có cái khổ của giận hờn tranh đấu,
người khắp thế gian có cái khổ của sanh già bệnh chết,
địa ngục có cái khổ của thiêu đốt, ngạ quỷ có cái
khổ của đói khát, súc sanh có cái khổ của ăn nuốt lẫn
nhau. Cái khổ của chín giới lớn nhỏ bất đồng. Sai biệt
của một niệm đưa đến sự thăng trầm riêng khác.
Ở đây chỉ
những điều người ta có thể thấy nghe trong loài người
và loài súc sanh. Giàu có cái khổ sợ nghèo, nghèo có cái
khổ muốn giàu, đi học có cái khổ khó tiến thân, làm ruộng
có cái khổ thất mùa, buôn bán có cái khổ bán ế, làm thợ
có cái khổ thất nghiệp. Lại, thú rừng có cái khổ bị
bắt, gia súc có cái khổ bị vô nồi nước sội, loài chim
bay có cái khổ bị giăng lưới, loài dưới nước có cái
khổ ăn nuốt lẫn nhau. Ta nghĩ chúng khổ, ai có thể làm chúng
thoát khổ, lòng đau xót rơi lệ dầm dề!
Muốn làm
cho tất cả thoát khỏi khổ, trước hết cần phải trị tận
gốc. Pháp trị tận gốc là khuyến thỉnh chư Thượng-thiện-nhân
tu pháp xuất thế gian, chứng quả xuất thế rồi dạy loài
người cùng loài chẳng phải người (phi nhân) vượt ra thế
gian, đây là thiện pháp tối thượng. Pháp trị ngọn là người
có trách nhiệm độ chúng sanh, mắt thấy cái khổ nào cũng
hết lòng tìm cách cứu giúp, tai nghe đến cái nạn nào cũng
liều mình thay thế cho người được thoát. Khuyên mọi người
kính tin Tam Bảo, sau khi quy y trồng nhân xuất thế. Thấy tất
cả sinh linh, đem pháp âm của Tam Bảo rót vào tai khiến cho
chúng được nghe thì nhân xuất thế cũng trồng sâu dần.
Đây là tận cùng đạo cứu khổ vậy!
71.
HỌC HẠNH BỔ TÁT
Ở địa
vị phàm phu cứ lấy tham lam không chán cho là khoái, chẳng
lấy "biết đủ" để làm vui. Tham lam là tổn người lợi
mình, khoét thịt người để bồi bổ mình, chẳng màng đến
ngưởi nghèo, chỉ lo ta giàu, cho đến tổn thương mạng người
để nuôi dưỡng mạng mình. Do nhấn ác này, mình người trả
báo lẫn nhau. Nếu suy rộng ra, một xứ như thế, một nước
như thế, cho đến phổ biến khắp nơi, khi nhân quả chín
mùi, bỗng nổi một niệm hung ác tạo ra tai biến lớn lao,
đây là do nhiều đời nhiều kiếp tạo nhân mà thành. Muốn
tránh khỏi tai kiếp lớn trước hết phải bỏ tham lam. Cái
hành vi tham lam đều do tâm niệm con người phát khởi. Muốn
biến tai kiếp thành an vui phải học gương đức Phật ở
trong nhân địa, lúc hành đạo Bồ Tát đối với loài người
đã xả bỏ đầu mắt não tủy, mặt mũi lưỡi răng để
cứu
người tai ách. Những tròng con mắt Phật xả bỏ, trải khắp
đất của tam thiên đại thiên thế giới đến nỗi chẳng
còn chỗ trống để cắm mũi kim.
Đối với
loài chim bay, ngài đã cắt thịt cho chim ưng ăn. Đối với
loài thú chạy, ngài đã xả thân cho cọp đói. Có một đời
vì thương loài côn trùng, ngài biến thành một con ếch để
cho bầy kiến bao vây ăn thịt. Lúc ấy, có một con quạ vội
quắp con ếch bỏ xuống nước. Con ếch không chịu và nói
: "Thà tôi chết để cho lũ kiến no. Tôi nếu xuống nước,
cả bầy kiến đều chết". Đó là ngài ở trong loài sống
dưới nước hành đạo Bồ Tát. Con quạ lúc đó là tiền
thân của ngài A Nan. Bầy kiến là tiền thân của chúng La
Hán. Con ếch là tiền thân của đức Phật.
Ước mong
người học Phật đều ra tay xung phong tiến tới học hạnh
Bồ Tát độ các hữu tình. Nếu có thể làm đến hai ngàn
Bồ Tát để độ một ngàn chúng sanh thì có gì là khó!
72.
BỐ THÍ
Bố thí là
một hạnh trong lục độ. Muốn hành đạo Bồ Tát độ tất
cả chúng sanh, trước hết phải độ bằng cách bố thí.
Phải biết,
tâm bệnh của chúng sanh, dù là Phật sống hiện ra ở trước
chúng sanh, nếu chúng sanh ấy vô duyên cũng chẳng muốn gặp
Phật, dù Phật hiện các thần thông trước chúng sanh, chúng
sanh cũng không muốn tin Phật. Sao vậy? Vì họ tưởng rằng
đối với gia đình họ vô ích, đối với bản thân họ cũng
vô ích. Dẫu cho tướng hảo, thần thông của Phật mà gặp
chúng sanh vô duyên, họ cũng khó sanh lòng kính tin nên bỏ
qua chẳng màng đến. Người hành đạo Bồ Tát đối với
kẻ vô duyên thì gieo duyên cho họ, họ không tiền thì cho
tiền, họ không vật thì cho vật, họ không áo thì cho áo,
họ không có ăn thì cho ăn. Các chúng sanh ấy nhớ đến cái
ân đức cứu giúp, chẳng những đời này không quên mà đời
đời kiếp kiếp cũng khó quên. Thế nên muốn độ chúng sanh
cần phải hành bố thí để gieo duyên.
Người hành
đạo Bồ Tát phải dùng Vô Tận Thí :
Như có người
hận ta thì bố thí hoan hỷ. Có người phỉ báng ta thì bố
thí vui vẻ. Có người trộm cắp của ta thì bố thí tiền
của. Có người hại ta thì bố thí thân mạng. Có người
đánh mắng ta thì bố thí nhẫn nhục. Thấy người không áo
liền cởi áo trên thân mình để bố thí. Thấy người đói
liền đem phần cơm mình cho ăn. Thấy người không tiền xe
liền đem tiền giúp đỡ. Thấy người đánh nhau bèn vội
khuyên can. Thấy cha đánh con liền dùng lời khéo an ủi. Thấy
con ngỗ nghịch với cha liền ngăn trở. Thấy mẹ chồng độc
ác đánh nàng dâu liền khuyên can ra cho nàng dâu chạy thoát.
Thấy nàng dâu hỗn với mẹ chồng liền ngăn cản. Người
hành đạo Bồ Tát không phân biệt tăng tục, nam nữ, chỉ
cần trong thân ngoài thân đều bố thí hết. Ấy mới là cái
hạnh bố thí của đại Bồ Tát.
73.
TRÌ GIỚI
Một chữ
GIỚI chẳng những Tăng ni phải hành mỗi ngày, không được
tạm lìa một khắc mà ngay cả mọi người ở thế gian cũng
chẳng được tạm lìa. Sao vậy? Người tại gia có giới cờ
bạc, có giới hút thuốc, có giới tà dâm, có giới lừa gạt,
có giới sát sanh, có giới bất hiếu, có giới bất trinh,
có giới uống rượu, có giới bất từ (bi), có giới ngỗ
ngịch, có giới bất chánh. Một chữ GIỚI này, đối với
người tại gia thông dụng không thiếu, thiếu một điều
không GIỚI, liền thành tệ hại.
Bậc xuất
gia chúng ta đã thọ Tam đàn đại giới đàng hoàng, mười
điều của Sa Di, hai trăm năm mươi điều của Tỳ Kheo, mười
trọng bốn mươi tám khinh của Bồ Tát. Nếu giữ giới kỹ
lưỡng, một chữ cũng không sót, không chút vi phạm thì công
cũng chưa lớn. Phải từ giới vào định, do định phát huệ,
phá ngu si, mở trí huệ, dựng pháp tràng, lập tông chỉ, mới
là công lớn của GIỚI.
Ước mong
người học Phật chúng ta mau đem Tam đàn giới bổn ra xem
qua nhiều lần, xét nét kỹ lưỡng, nghiên cứu sự quan hệ
trong giới, danh nghĩa trong giới tướng, thấu triệt đúng
như pháp thì mới biết trong cuộc sống hàng ngày của mình,
ngoài việc giữ giới ra không có việc nào hơn nữa. Nếu
lỡ phạm thánh giới, phải nói thật là phạm, chẳng nên
che giấu. Che giấu ắt phạm thêm một giới vọng ngữ. Người
lỡ phạm cũng chẳng nên sợ, chỉ sợ chẳng biết mình phạm
hoặc biết mà chẳng sám hối, thì ngàn Phật cũng chẳng thể
cứu. Nếu phạm liền sám hối, sám hối rồi vĩnh viễn không
còn tái phạm thì sám hối mới diệt được tội. Nếu sám
rồi chẳng hối cải, vẫn tạo tội phá giới như cũ thì
không cứu được. Phải biết, cái công tự mình trì giới
còn là nhỏ, cái công khuyên người trì giới mới là lớn.
74.
NHẪN NHỤC.
Người đời
thường nói : "Chữ THA THỨ cao không bằng chữ NHẪN NHỤC,
chữ NHẪN NHỤC trên tâm như một cái dao". Lời này thật
không sai.
Phạn ngữ
Ta Bà, Trung Hoa dịch là Kham nhẫn, nói thẳng tức là thế
giới nhẫn nhục. Nếu có thể nhẫn được mọi việc, nhẫn
được mọi nơi mọi lúc thì tự có thể từ nhẫn vào đạo,
Phật ở nhân địa bị vua Ca Lợi chặt cắt thân thể ra từng
mảnh được thành hạnh nhẫn, được gọi là nhẫn nhục
tiên nhơn, chứng được hạnh nhẫn nhục trong lục độ. Chúng
ta đang hành đạo nhẫn nhục, như muỗi đậu trên đầu cắn
ta đau chẳng thể nhẫn, phải nhịn cho nó cắn no rồi bay
đi, còn saün sàng muốn nó đến cắn nữa, đó là nhẫn nhục
thành. Lúc tọa hương hoặc lạnh hoặc nóng chẳng màng, chỉ
muốn nắm chặt công phu không để mất, đó là nhẫn thành.
Hoặc người ở đơn bên cạnh hôi nách, mồ hôi chua, thân
hôi, miệng thúi, chân hôi, nên xem là mùi hương, nghĩ là hương
vị lâu ngày chẳng chán, đó là nhẫn thành. Trụ Tòng Lâm,
bị các vị chứvc sự ức hiếp, càng ức hiếp chẳng những
thân không vọng động mà ngay cả niệm cũng không vọng động,
đó là nhẫn thành. Vị chức sự hoặc đánh ta mắng ta, chẳng
những ta chẳng nổi phiền não, lại còn sanh tâm hoan hỷ,
một khi qua rồi thì thôi, đó là nhẫn thành. Quần áo, đồ
vật bị người ăn cắp, thà mặc áo rách hay ở trần cũng
không nổi phiền não, không thấy lỗi người, đó là nhẫn
thành. Như tâm dâm nổi dậy mạnh mẽ, liền cắn chặt hàm
răng tham thiền, thề rằng :
"Nếu ta dùng
tâm dâm dâm dục với người, nguyện sanh xuống địa ngục,
hoặc mù hai mắt, hoặc thổ huyết mà chết". Lại, hoặc có
người muốn phá giới thể của ta, thà đưa đầu cho người
ta chặt, chứ ép ta phá giới thì chẳng được, đây gọi
là đại nhẫn. Hoặc có người dụ dỗ ta ăn thịt uống rượu,
ta thà ăn cứt, uống nước đái chớ chẳng nếm một chút
rượu thịt, đây cũng gọi là chân nhẫn vậy.